Tải bản đầy đủ (.pdf) (227 trang)

phát triển con người toàn diện; từ học thuyết mác đến tư tưởng hồ chí minh và quan điểm củ đảng cộng sản việt nam trong công cuộc đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.48 MB, 227 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



PHẠM THỊ ĐOẠT




PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN:
TỪ HỌC THUYẾT MÁC ĐẾN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI





LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC





THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


PHẠM THỊ ĐOẠT



PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN:
TỪ HỌC THUYẾT MÁC ĐẾN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI


Chuyên ngành: CNDVBC & CNDVLS
Maõ soá: 62.22.80.05

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướ
ng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐẶNG HỮU TOÀN
Phản biện độc lập:
1. PGS.TS. VŨ TÌNH
2. PGS.TS. NGUYỄN THANH
Phản biện:
1. PGS.TS. VŨ TÌNH
2. PGS.TS. NGUYỄN THANH
3. PGS.TS. LƯƠNG MINH CỪ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài 4
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 12

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 13
6. Cái mới của luận án 13
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 14
8. Kết cấu của luận án 14
Chương 1: HỌC THUYẾT MÁC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
TOÀN DIỆN 15

1.1. QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI, BẢN CHẤT CON NGƯỜI VÀ
GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC 15

1.1.1. Quan niệm về con người với tư cách thực thể sinh học – xã hội trong
học thuyết Mác 15

1.1.2. Quan niệm về bản chất con người với tư cách “tổng hòa các mối quan
hệ xã hội” trong học thuyết Mác 28

1.1.3. Quan niệm về việc giải phóng con người khỏi mọi sự “tha hóa” trong
học thuyết Mác 37

1.2. MỘT SỐ NÔI DUNG CƠ BẢN TRONG HỌC THUYẾT MÁC VỀ
PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN 48

1.2.1. Học thuyết Mác về con người phát triển toàn diện với tư cách sự phát
triển phong phú của bản chất con người 48

1.2.2. Học thuyết Mác về con người phát triển toàn diện với tư cách yếu tố
hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất 58

1.2.3. Học thuyết Mác về con người phát triển toàn diện với tư cách chủ thể

sáng tạo lịch sử và xây dựng xã hội mới 63

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
TOÀN DIỆN 71

2.1. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ NHỮNG
PHẨM CHẤT CẦN CÓ CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM PHÁT TRIỂN
TOÀN DIỆN 71

2.1.1. Khái niệm “con người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh 71
2.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những phẩm chất cần có của con
người Việt Nam phát triển toàn diện 83

2.2. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI
VIỆT NAM TOÀN DIỆN 110

2.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về bồi dưỡng, rèn luyện và phát triển
con người Việt Nam toàn diện 110

2.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện với tư
cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, của công
cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam 121

Chương 3: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN TRONG CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI 138

3.1. PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN VỚI TƯ CÁCH LÀ MỤC
TIÊU, CHIẾN LƯỢC CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM 138


3.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người
toàn diện thời kỳ trước đổi mới 138

3.1.2. Phát triển con người toàn diện với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp đổi mới 147


3.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN Ở
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI 160

3.2.1. Thành tựu về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những
năm đổi mới 160

3.2.2. Hạn chế về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những
năm đổi mới 167

3.2.3. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam trong những năm đổi mới 173

3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP MANG TÍNH ĐỊNH HƯỚNG NHẰM PHÁT
TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
THEO QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM 178

3.3.1. Phát triển giáo dục – đào tạo với tư cách quốc sách hàng đầu để phát
triển con người Việt Nam toàn diện 178

3.3.2. Phát triển khoa học và công nghệ để xây dựng đội ngũ trí thức hùng
mạnh 184

3.3.3. Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc để tạo dựng nền tảng tinh thần xã hội lành mạnh 189

3.3.4. Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững để cải thiện môi trường sống
và nâng cao đời sống nhân dân 194

3.3.5. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà
nước trong quá trình phát triển con người Việt Nam toàn diện 198

KẾT LUẬN CHUNG 205
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 209
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ
1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển tư tưởng nhân loại hơn 20 thế kỉ qua đã có biết bao
học thuyết tư tưởng - chính trị ra đời và phát triển, song sự ra đời của học
thuyết Mác, chủ nghĩa Mác giữa thế kỉ XIX vẫn là một bước ngoặt vĩ đại
trong tiến trình phát triển của lịch sử tư t
ưởng nhân loại. Với bản chất cách
mạng và khoa học của mình, học thuyết Mác đã đặt cơ sở lý luận nền tảng cho
bước chuyển của nhân loại sang một kỉ nguyên mới - kỉ nguyên mà ở đó, “con
người chuyển từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do” và “sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự
phát triển tự do của tất cả
mọi người”. Chính vì vậy mà học thuyết Mác đã được cả cộng đồng nhân loại
tiến bộ thừa nhận là học thuyết về con người, về sự nghiệp giải phóng con
người, trong đó sự phát triển con người toàn diện là một nội dung cốt lõi.
Trong học thuyết của mình, khi khẳng định tiến trình phát triển lịch sử

của xã hộ
i loài người là sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội,
các nhà sáng lập học thuyết Mác đã nhấn mạnh việc lấy sự phát triển toàn
diện của con người làm mục tiêu, làm động lực cho sự phát triển xã hội. Với
các ông, con người phát triển toàn diện không chỉ là chủ thể sáng tạo của quá
trình sản xuất vật chất, là yếu tố hàng đầu, yếu tố đóng vai trò quyết định
trong lự
c lượng sản xuất của xã hội, mà còn là chủ thể đích thực của tiến trình
phát triển lịch sử. Theo nghĩa đó, sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội,
trước hết và bao giờ cũng có nghĩa là “phát triển sự phong phú của bản chất
con người, coi như là một mục đích tự thân”. Ý nghĩa lịch sử, mục tiêu cao cả
của sự phát triển và tiến b
ộ xã hội là phát triển con người toàn diện, nâng cao
năng lực và phẩm giá con người, loại trừ ra khỏi cuộc sống con người mọi “sự
tha hóa” để con người được sống với con người, “trở thành những người tự
do”, “những cá nhân được phát triển toàn diện”.
2

Là lớp người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác – Lênin và đưa
chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, Hồ Chí Minh hơn ai hết, là người ý
thức rõ, nhận thức sâu sắc bản chất cách mạng và khoa học của học thuyết
Mác về con người và phát triển con người toàn diện. Tiếp thu và vận dụng
sáng tạo học thuyết Mác vào hoàn cảnh lịch sử và cụ thể của Việt Nam, trong
suốt những nă
m tháng trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong
công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đã
nhiều lần khẳng định “con người là vốn quí nhất, chăm lo cho hạnh phúc của
con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta”. Với Hồ Chí Minh,
chăm lo hạnh phúc của nhân dân “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
việc gì có hại cho dân, ta phả

i hết sức tránh” đã được đặt lên vị trí hàng đầu
và coi đó là nhiệm vụ trung tâm của công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới,
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Với Hồ Chí Minh, “vì lợi ích
mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”, “muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” – những
con người Việt Nam mới, phát triển toàn diện, “vừa hồng, vừa chuyên”, vừa
có đức, vừa có tài đã trở thành tư tưởng quán xuyến, nhất quán trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Và, với Hồ Chí Minh, “bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo “những người thừa kế xây
dựng xã hội chủ nghĩa” có sự phát triển toàn diện, cả đức l
ẫn tài, “có chí tiến
thủ” bao giờ cũng là “một việc rất quan trọng và cần thiết”, là mối quan tâm
hàng đầu. Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình cho tâm huyết đó, đào tạo
ra những lớp người mới cho dân tộc Việt Nam, lớp người dám nghĩ, dám làm,
dám hy sinh ngay cả tính mạng của mình cho đất nước. Hồ Chí Minh là mẫu
mực điển hình cho việc thực hành con người mới – con người phát triển toàn
diệ
n ở Việt Nam, thông qua hình ảnh của Người mà diện mạo con người phát
triển toàn diện của học thuyết Mác được thể hiện rõ nét nhất ở Việt Nam.
3

Ngay từ những năm đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định rõ quan điểm: Đổi mới không phải là từ bỏ
mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng
đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải là xa rời, mà
là nhận thức đúng, vậ
n dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh. Trong hơn 25 năm đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã ban hành và thực hiện trên thực tế đường lối và nhiều chủ
trương, chính sách, giải pháp phát triển con người Việt Nam mới - con người

Việt Nam phát triển toàn diện, cả về trí lực lẫn thể lực, cả về “lý tưởng sống,
lố
i sống, năng lực, trí tuệ, đạo đức và bản lĩnh văn hóa con người Việt Nam”
nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao cho công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hơn 25 năm đổi mới, nhất là trong
những năm gần đây, ở nước ta đã có không ít công trình nghiên cứ
u, đề tài
khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn cao học lấy quan điểm của các nhà sáng lập
học thuyết Mác về con người, bản chất con người, giải phóng con người và
phát triển con người toàn diện, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con
người Việt Nam mới, “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau”, đào tạo
“những người kế thừa xây dựng chủ
nghĩa xã hội” và lấy quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển con người Việt Nam hiện đại – con người
Việt Nam của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển tri thức làm đối tượng nghiên cứu. Song, việc gắn kết quan niệm cả ba
mảng lý luận trên trong một công trình nghiên cứu để làm rõ bản chất cách
mạng và khoa học trong họ
c thuyết Mác, sự kế thừa và phát triển sáng tạo
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sự vận dụng đúng đắn, linh hoạt và mềm dẻo,
phù hợp với bối cảnh lịch sử ở nước ta trong quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam, nhất là để từ đó, xác định những định hướng cơ bản, những giải
4

pháp chủ yếu, mang tính định hướng và có khả năng thực thi nhằm đẩy mạnh
hơn nữa, có hiệu quả hơn nữa chiến lược phát triển con người Việt Nam hiện
đại cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
tri thức, có thể nói, còn quá ít, thậm chí là chưa có. Vì vậy, phát triển con
người toàn diện từ học thuyết Mác tới tư tưởng Hồ Chí Minh và quan đ

iểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới là một vấn đề mới ít
có các công trình nghiên cứu độc lập, cho nên đây vẫn còn là khoảng trống để
chúng ta tiếp tục nghiên cứu nhằm làm phong phú thêm kho tàng lý luận của
học thuyết Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam để định hướng phát triển
cho thực tiễn trong quá trình xây d
ựng xã hội mới, cũng như nhằm thực thi
một cách có hiệu quả hơn nữa chiến lược phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam hiện nay.
Chính vì lẽ đó, chúng tôi mạnh dạn khẳng định, việc nghiên cứu: Phát
triển con người toàn diện từ học thuyết Mác tới tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới là vi
ệc làm
vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn thiết thực. Vì thế, chúng tôi
chọn đề tài: “Phát triển con người toàn diện: Từ học thuyết Mác đến tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc
đổi mới” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài này, ở nước ta, trong những n
ăm gần đây, đã có
nhiều công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, luận văn cao học, luận án tiến
sĩ. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu trong số đó có thể kể đến các công
trình sau:
Thứ nhất, những công trình liên quan đến học thuyết Mác về con
người, bản chất con người, giải phóng con người và phát triển con người toàn
5

diện. Trước hết phải kể đến công trình của các tác giả như: Những tư tưởng
của Ph.Ăngghen về quan hệ giữa con người và tự nhiên trong “Biện chứng của

tự nhiên” của GS. TS. Nguyễn Trọng Chuẩn. Tạp chí Triết học; Bùi Bá Linh
với bài: Tư tưởng vì con người và giải phóng con người ở các nhà sáng lập chủ
nghĩa Mác. Tạp chí Khoa học xã hội; Lê Thi: Các Mác với vấn đề
con người
và xây dựng con người xã hội chủ nghĩa. Tạp chí Triết học; PGS.TS Đặng Hữu
Toàn với các bài: Phát triển vì con người trong quan niệm của Mác và sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm mục tiêu phát triển con người ở
nước ta hiện nay. Tạp chí Triết học; Đặng Hữu Toàn: Học thuyết Mác về con
người và phát triển con người với sự nghiệp đổi mới ở nướ
c ta hiện nay. Tạp
chí Khoa học xã hội; Đặng Hữu Toàn: Quan hệ con người - tự nhiên trong triết
học Mác. Tạp chí Phát triển nhân lực,v.v…Các công trình nghiên cứu ở trên
cho thấy các tác giả có đề cập đến quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin về con
người dưới nhiều góc độ khác nhau nhưng hầu như chưa có một bài viết nào đề
cập tới phát triển con người toàn diện trong học thuyết Mác.
Về sách ph
ải kể đến các công trình của các tác giả: Mác – Người vượt
trước thời đại của tác giả Đanien Benxaiđơ. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Michel Vadée: Marx – nhà tư tưởng của cái có thể. Gồm 2 tập, Viện thông tin
Khoa học xã hội, Hà Nội, (1996); 150 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản:
Lý luận và thực tiễn, của tác giả Nguyễn Duy Quý. Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội. Trong đó phải kể đến cuố
n: Con người và phát triển con người trong
quan niệm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, do
Hồ Sĩ Quý (chủ biên). Tác phẩm có 499 trang, được kết cấu thành 2 phần:
Phần thứ nhất, trình bày một cách có hệ thống những di sản kinh điển dựa
trên những tư tưởng cơ bản về con người và phát triển con người. Phần thứ
hai, trình bày di sản kinh điển nhìn từ thời đại ngày nay, ý ngh
ĩa thế giới quan
và phương pháp luận đối với nhận thức và phát triển con người. Đây là nguồn

6

tư liệu bổ sung di sản lý luận của học thuyết Mác về con người, là một trong
những tài liệu cho tác giả luận án có thể tham khảo, nhưng cuốn sách chưa đi
sâu về nghiên cứu phát triển con người toàn diện trong học thuyết Mác.
Về luận văn, luận án phải kể đến: Mối quan hệ giữa yếu tố sinh học và
yếu tố xã hội trong quá trình hình thành và phát triển con người. Luậ
n án Phó
Tiến sĩ Khoa học Triết học, Viện Triết học, Hà Nội, của Vũ Tùng Hoa. Ở luận
án này tác giả đã trình bày sự cấu thành mặt sinh học và mặt xã hội trong con
người. Mối hệ giữa mặt sinh học – xã hội trong con người được tác giả đề cập
khá rõ nét. Nhưng tác giả của luận án chưa làm rõ từ sự xem xét mặt sinh học
– xã hội trong con người để đi đến luậ
n giải có tính khoa học về bản chất con
người, thông qua đó giải phóng con người khỏi mọi sự tha hóa để con người
trở về đúng bản chất đích thực của con người như học thuyết Mác quan niệm.
Về luận văn mới đây có: Quan điểm Mácxít về con người với việc giác dục
con người Việt Nam hiện nay của Cù Ngọc Phương, do PGS.TS. Nguyễn
Thanh hướng dẫn (2010). Luận văn đã nêu lên vị trí và cơ sở luận của vấn đề
con người trong triết học Mácxít. Khái niệm con người và bản chất con người.
Về vấn đề tha hoá con người và giải phóng con người theo quan điểm Mácxít
để đi tới vấn đề giáo dục con người Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ quan
điểm Mácxít. Tác giả của luận văn này đã phân tích khá sâu sắc về quan niệm
của học thuyết Mác về con người, vấn đề tha hóa con người nhưng luận văn
không đi sâu vào vấn đề bản chất con người để từ đó nhận thấy việc giải
phóng con người khỏi mọi sự tha hoá để con người được trở về đúng bản chất
đích thực của con người, con người được phát triển toàn diện cá nhân thực sự
bước từ “vươ
ng quốc của tất yếu” sang “vương quốc của tự do” được học
thuyết Mác hướng tới để xây dựng một xã hội phát triển, văn minh, vì con

người. Trong luận văn này cũng chưa có sự kết nối giữa chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để thấy rõ sự kế thừa và sự thống nhất trong
7

đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước để thấy rõ luận cứ khoa học của
đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được thể hiện qua các chặng
đường của lịch sử dân tộc là một khoa học thực sự, có thể đập tan mọi âm
mưu, sự nghi ngờ về sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc đi
sâu nghiên cứ
u làm sáng tỏ quan điểm của học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người
toàn diện là việc làm hết sức có ý nghĩa.
Thứ hai, vấn đề con người và phát triển con người toàn diện trong tư
tưởng Hồ Chí Minh. Có thể nói, trong cuộc đời cách mạng của mình, Hồ Chí
Minh luôn quan tâm đến con người và thực chất tư tưở
ng Hồ Chí Minh là tư
tưởng về con người, giải phóng con người và phát triển con người toàn diện.
Thông qua các tác phẩm, các bài viết, bài nói chuyện, bài phát biểu về con
người Hồ Chí Minh đã để lại di sản quý báu cho dân tộc ta. Với di sản quý
báu đó, đã là những đề tài bất tận cho thi ca cũng như những đề tài nghiên cứu
khoa học có giá trị. Nhằm thực thi và phát triển con người mới ở Việt Nam,
trong thời gian qua đã có nhiều các h
ọc giả lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm đề
tài nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau hết sức phong phú đa dạng. Từ
nguồn gốc, quá trình hình thành đến nội dung tư tưởng, từ lối sống phong
cách đến đạo đức tác phong, đến những tấm gương của Người, v.v… Những
công trình liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt
Nam mới - con người xã hội chủ nghĩa
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
công phu, cũng đã có nhiều tác phẩm, nhiều bài báo khoa học được công bố,

như: Tác giả Thành Duy với tác phẩm: Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp
xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện. Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, đã phân tích sâu sắc về mối quan hệ giữa văn hóa với việc xây dựng
con người Việt Nam toàn diện phù hợp với thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; về nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ
8

Chí Minh về con người phát triển toàn diện; về bản chất con người Việt Nam
phát triển toàn diện; về các giải pháp xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện trong bối cảnh hiện nay. Gần đây, trước hết phải kể đến công trình
nghiên cứu của tác giả Nguyễn Hữu Công với luận án tiến sĩ đã được in thành
sách cuốn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, (2010), đã xác định chủ nghĩa Mác - Lênin là tiền
đề lý luận cơ bản cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người toàn diện. Chỉ rõ, tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người
toàn diện là con người phát triển đầy đủ, tối đa năng lực sẵn có trên tất cả các
mặt đạo đức, trí tuệ, thể lực, tình cảm, năng l
ực nhận thức và hành động, óc
thẩm mỹ và khả năng cảm thụ cái đẹp, hiểu biết được các hiện tượng tự nhiên,
xã hội diễn ra xung quanh, đồng thời có thể sáng tạo ra những cái mới theo
năng lực của họ có lợi cho sự phát triển của cá nhân và cả cộng đồng. Khẳng
định, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về con người phát triển toàn diện
là đỉnh cao trong quá trình phát triể
n của con người, là bước đi tất yếu của
nhân loại để giải phóng con người một cách triệt để nhất, đem lại cho con
người sức mạnh và quyền năng mới, xứng đáng là người chủ chân chính trên
trái đất này. Đây là một trong những kết luận hết sức quan trọng cho thấy việc
tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa quan điểm của c
ủa các nhà sáng

lập chủ nghĩa Mác về phát triển con người toàn diện là việc làm cần thiết và
có ý nghĩa, đặc biệt là đối với nước ta hiện nay đang trong quá trình xây dựng
con người mới - xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cũng nêu lên vai trò của những
nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa và con đường để hình thành và phát triển
con người toàn diện. Với những nội dung trong cuốn sách là một trong những
tài liệu tham khảo cầ
n thiết để tác giả của luận án có thêm cơ sở nghiên cứu
và phát triển thêm tư tưởng của học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh về
phát triển con người toàn diện. Tuy nhiên tác giả của cuốn sách này chưa có
9

sự gắn kết về mặt lý luận từ học thuyết Mác tới tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện mà
chỉ dừng lại ở việc đi sâu vào tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người
toàn diện.
Ngoài công trình trên còn phải kể đến rất nhiều các bài viết của các tác
giả như: Bồi d
ưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, đào tạo những người thừa
kế xây dựng xã hội chủ nghĩa; Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính
sách xã hội, do PGS.PTS Lê Sĩ Thắng (chủ biên); Mấy vấn đề về trồng người
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, của PGS.PTS. Lê Sĩ Thắng; Quan điểm Hồ Chí
Minh về con người và bản chất con người. GS.TS. Đặng Xuân Kỳ;
Về vấn đề
xây dựng con người mới. GS. Phạm Như Cương(chủ biên); Chủ nghĩa nhân
đạo và tư tưởng nhân văn trong di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh, của
PGS.TS. Đặng Hữu Toàn),v.v…Các công trình tập trung nghiên cứu về vấn
đề trồng người, về xây dựng con người mới trong mối quan hệ với các chính
sách xã hội đối với con người.
Thứ ba, Trong suốt những năm tháng lãnh đạo
đất nước, Đảng Cộng

sản Việt Nam đã không ngừng nghiên cứu nhằm làm phong phú, sáng tỏ
những lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực
tiễn đời sống. Qua những thắng lợi của công cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã chứng minh cho sức sống
mãnh liệt của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vì th
ế rất nhiều
công trình khoa học đã được công bố, được xuất bản. Về xây dựng con người
mới khi đất nước vừa kháng chiến, vừa kiến quốc có các công trình tiêu biểu
sau: Về xây dựng nền văn hóa mới con người mới xã hội chủ nghĩa, của cố
Tổng Bí thư Lê Duẩn (sách được xuất bản năm 1977 và năm 1984), đã đề cập
tớ
i việc xây dựng con người là cần thiết, đồng thời nêu lên tiêu chí con người
mới, những giải pháp xây dựng con người mới, v.v…Những công trình có
10

liên quan đến quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người với tư
cách là nguồn nhân lực trong sự nghiệp đổi mới đất nước như: Vấn đề con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. GS.VS. Phạm Minh
Hạc (chủ biên); Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỉ XXI. Kỷ
yếu hội nghị khoa học quốc tế, của t
ập thể tác giả; Phát triển con người, tạo
nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, của
GS.VS. Nguyễn Duy Quý; Vai trò của những điều kiện khách quan và nhân
tố chủ quan trong việc xây dựng con người mới trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam (Luận án Phó Tiến sĩ Triết học của tác giả Nguyễn
Thế Kiệt); PGS.TS. Nguyễ
n Thanh với bài: Mục tiêu con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay; PGS.TS. Đặng Hữu
Toàn với bài: Phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách là mục
tiêu, động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,

v.v…Các bài viết nhằm luận giải việc xây dựng và phát triển con người Việt
Nam mới với tư cách là mục tiêu, động lự
c nhằm đáp ứng sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của cách mạng Việt Nam.
Nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản thành sách, phản ánh kết
quả nghiên cứu của các đề tài thuộc chương trình khoa học cấp Nhà nước nói
trên. Tiêu biểu có các công trình khoa học như: Chương trình KX07, Đề tài
KX07- 02: Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay. (tập I -
1994, tập II – 1996); Về phát triển toàn diện con người th
ời kỳ CNH, HĐH.
VS. GS. Phạm Minh Hạc (chủ biên); Về phát triển văn hóa và xây dựng con
người thời kỳ CNH, HĐH. VS. GS. Phạm Minh Hạc và nhà thơ Nguyễn Khoa
Điềm (chủ biên); Nghiên cứu văn hóa, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ
XXI. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế của Chương trình khoa học công nghệ
cấp Nhà nước KX05; Tâm lý người Việt Nam đi vào CNH, HĐ
H. Những điều
cần khắc phục. VS. GS. Phạm Minh Hạc (chủ biên), v.v…Các công trình trên
11

đã có cái nhìn toàn diện hơn trong việc phát triển con người toàn diện, nhưng
chưa có sự kết nối giữa học thuyết Mác với tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
con người toàn diện với tư cách là một công trình nghiên cứu độc lập.
Như vậy, có thể nói, ở nước ta trong những năm gần đây việc nghiên
cứu con người nói chung và phát triển con người toàn diện nói riêng đã được
các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm. V
ới các công trình nghiên cứu khá
phong phú và đa dạng như trên cho thấy, ở Việt Nam xây dựng xã hội mới –
xã hội chủ nghĩa thực chất là vì con người, do con người, đồng thời coi con
người là trung tâm của sự phát triển. Điều đó còn cho thấy, để đạt được mục
tiêu phát triển vì con người thì chúng ta càng cần phải có nhiều hơn nữa các

công trình nghiên cứu để làm sáng tỏ hơn nữa quan điểm, đường lối c
ủa Đảng
và Nhà nước ta trong sự nghiệp phát triển vì con người. Đặc biệt là các công
trình nghiên cứu có sự kết nối các tư tưởng đã có trong lịch sử nhân loại về
con người để thấy sự đúng đắn của Đảng ta trong mục tiêu phát triển cao nhất
đó là sự phát triển vì con người. Cần phải có những công trình nghiên cứu và
sự kết nối từ chủ nghĩa Mác – Lênin với tư cách là “mặt trờ
i soi sáng”, là
“kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam trong mọi thời đại, với tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi
mới để làm rõ tính khoa học và cách mạng của Đảng ta trong chiến lược
“trồng người”. Rất tiếc là, các công trình nghiên cứu như thế ở nước ta hiện
nay chưa nhiều, nếu không muốn nói chưa có. Để góp phần làm sáng tỏ quan
điểm c
ủa học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện, trên cơ sở kế thừa, vận
dụng những nghiên cứu liên quan của các tác giả, luận án đi sâu nghiên cứu:
“Phát triển con người toàn diện: Từ học thuyết Mác đến tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổ
i mới”
là một công trình nghiên cứu độc lập.
12

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án là làm rõ quan điểm của học thuyết Mác, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
con người toàn diện để trên cơ sở đó, đề xuất số giải pháp mang tính định
hướng nhằm tiếp tục phát triển con người Việt Nam toàn diện trong những

m tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước.

Để đạt mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ
sau đây:
Thứ nhất, phân tích quan điểm của các nhà sáng lập học thuyết Mác về
con người, bản chất con người và phát triển con người toàn diện.
Thứ hai, phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về những phẩm
chất cần có củ
a con người Việt Nam mới, về phát triển con người Việt Nam
toàn diện.
Thứ ba, phân tích quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển con người toàn diện thời kỳ trước đổi mới và trong công cuộc đổi mới.
Thứ tư, phân tích thực trạng phát triển con người toàn diện ở Việt Nam:
Thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra, trên cơ sở đ
ó đề xuất một số giải
pháp mang tính định hướng nhằm tiếp tục phát triển con người Việt Nam toàn
diện trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam là ba mảng lý luận rất sâu, rộng, phong phú, đa dạng về nhiều
lĩnh vực khác nhau c
ủa đời sống xã hội. Trong phạm vi của một luận án, tác
giả xác định đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án là học thuyết Mác
về phát triển con người toàn diện; tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con
người Việt Nam toàn diện; và quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
phát triển con người toàn diện trong công cuộc đổi mới.
13

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

phát triển con người toàn diện để nghiên cứu luận án của mình.
Ngoài ra luận án còn dựa trên nhữ
ng tác phẩm kinh điển chủ yếu của
C.Mác và Ph.Ăngghen, những tác phẩm kinh điển chủ yếu của Hồ Chí Minh
và các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam; đồng thời kế thừa
có chọn lọc những công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài của các học
giả đi trước.
Để nghiên cứu và trình bày kết quả nghiên cứu, trong luận án này,
chúng tôi sử dụng các phươ
ng pháp nghiên cứu cơ bản như: lôgic và lịch sử,
phân tích và tổng hợp, tổng hợp và khái quát hóa, đối chiếu so sánh, kết hợp
lý luận thống nhất với thực tiễn, v.v…và một số phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể khác. Luận án còn dựa vào số liệu thống kê, các báo cáo tổng
kết, đánh giá đội ngũ cán bộ của các cơ quan, ban ngành của Trung ương để
nghiên cứu đề tài này.
6. Cái mới của lu
ận án
- Luận án góp phần khẳng định bản chất cách mạng và khoa học của
học thuyết Mác, sự kế thừa và phát triển sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh
và trong quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người
toàn diện.
- Luận án góp phần làm rõ thực trạng phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
- Luận giải và đề xu
ất một số giải pháp mang tính định hướng, nhằm
tiếp tục phát triển con người Việt Nam toàn diện đáp ứng những đòi hỏi mới
của công cuộc đổi mới.
14

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

- Về ý nghĩa khoa học: Ở một mức độ nhất định, luận án góp phần làm
sáng tỏ học thuyết Mác, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về phát triển con người toàn diện.
- Về ý nghĩa thực tiễn: Từ những kết quả nghiên cứu lý luận và thực
tiễn của luậ
n án về phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong những
năm đổi mới vừa qua, luận án có thể sử dụng như một tài liệu tham khảo cho
việc tiếp tục hoàn thiện lý luận xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội vì mục
tiêu phát triển con người Việt Nam; đồng thời cung cấp thêm nguồn tư liệu
cho việc hoạch định chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ
đổi m
ới ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận án có thể
sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy
chuyên đề con người và phát triển con người toàn diện, trong các trường cao
đẳng, đại học ở nước ta.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 3 chương, 7 ti
ết với 208 trang.







15

PHẦN NỘI DUNG


Chương 1
HỌC THUYẾT MÁC VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƯỜI TOÀN DIỆN

1.1. QUAN NIỆM VỀ CON NGƯỜI, BẢN CHẤT CON NGƯỜI
VÀ GIẢI PHÓNG CON NGƯỜI TRONG HỌC THUYẾT MÁC
1.1.1. Quan niệm về con người với tư cách thực thể sinh học – xã
hội trong học thuyết Mác
Trong Lời tựa của tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” được viết vào năm
1845 – 1846, C. Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Cho đế
n nay, con người
luôn tạo ra cho mình những quan niệm sai lầm về bản thân, về mình hiện
đang là như thế hoặc sau này sẽ là như thế nào. Họ đã xây dựng những quan
hệ của họ căn cứ vào những quan niệm của họ về thần, về kiểu mẫu của con
người,v.v…Những sản phẩm của bộ óc của họ đã trở thành kẻ thống trị họ
. Là
những người sáng tạo, họ lại phải cúi mình trước những cái họ sáng tạo ra.
Chúng ta hãy giải thoát họ khỏi những ảo tưởng, những khái niệm, những
giáo điều, những điều tưởng tượng mà cái ách của chúng đã giày vò họ.
Chúng ta hãy nổi dậy chống lại sự thống trị ấy của những quan niệm. Chúng
ta hãy dạy cho con người… biết đổi những ảo tưởng đ
ó lấy những tư tưởng
phù hợp với bản chất con người,… biết có thái độ phê phán đối với những ảo
tưởng đó,…biết trục xuất những ảo tưởng ra khỏi đầu óc…” [112; tr.19].
Đúng như vậy, tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại là lịch
sử về con người, về bản chất con người, và về giải phóng con người. Đó là
v
ấn đề trung tâm luôn được các nhà tư tưởng, các nhà nghiên cứu, các nhà
khoa học mỗi thời đại luôn đặt ra những mẫu người cho thời đại mình. Mỗi
lĩnh vực nghiên cứu đã có những thành công đáng kể trong công cuộc khám
16


phá con người. Song, khi lý giải về bản chất con người là gì? vai trò, vị thế
của con người trong giới tự nhiên và trong xã hội loài người như thế nào thì
chưa có một tư tưởng nào, một khoa học nào giải quyết thoả đáng, ngoại trừ
triết học, đặc biệt là triết học Mác.
Khi đề cập tới vấn đề con người trong lịch sử triết học, các nhà triết học
đã đề c
ập ở nhiều góc độ khác nhau.
Các nhà triết học cổ đại đều tìm cách lý giải rằng, con người là “một
tiểu vũ trụ”, con người là “vật cao quí nhất trong trời đất”, là “chúa tể của
muôn loài”. Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo thì cho rằng, con người là một
thực thể linh hồn, được chia làm hai phần là phần xác và phần hồn. Phần hồn
là do thượng đế sinh ra, chi phối mọi hoạt động của phần xác, và linh hồn tồn
tại mãi mãi. Chủ nghĩa duy vật tầm thường thì cho phần xác quyết định và chi
phối phần hồn, không có linh hồn nào bất tử cả. Chủ nghĩa duy vật máy móc
thế kỷ XVI – XVIII thì coi con người là “một cỗ máy vận động theo một quy
luật cổ”. Các nhà triết học cổ điển Đức, từ Cantơ đến Hêghen đã phát triển
quan về con người theo hướng duy tâm. Đặc biệt là Hêghen quan niệm về con
ngườ
i là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Cao hơn một bước, triết học
Phoiơbắc sau khi đã đoạn tuyệt với chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, ông quan
niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiên, là con người
sinh học và phụ thuộc vào hoàn cảnh, song khi giải thích con người trong mối
liên hệ với xã hội thì quan niệm của Phoiơbắc lại rơi vào lập trường c
ủa chủ
nghĩa duy tâm. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người phi
lịch sử, phi giai cấp, con người chung chung cho mọi thời đại.
Khác với tất cả các quan điểm trước đó về con người, đặc biệt là khắc
phục sự nghiên cứu con người một cách trừu tượng của Hêghen và Phoiơbắc,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển quan niệm về con người đi tới quan điểm

cho rằng, con người với tư cách là con người hiện thực - con người vừa là sản
17

phẩm của tự nhiên và vừa là sản phẩm của xã hội, con người vừa là chủ thể cải
tạo tự nhiên vừa là chủ thể sáng tạo xã hội. Từ đó, C.Mác và Ăngghen đặt ra
nhiệm vụ phải thay đổi cách nhìn nhận con người trừu tượng bằng một khoa
học về những “cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh
hoạt v
ật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều
kiện do chính hoạt động của chính họ tạo ra trong sự phát triển lịch sử của
nó”[112; tr. 28 - 29]. Vì thế, với các nhà sáng lập học thuyết Mác, nhận thức về
lịch sử không phải là sự nhìn nhận cái bên ngoài. Lịch sử là kết quả hoạt động
của chính con người. Cho nên, việ
c nghiên cứu con người cần phải được hiểu
một cách hiện thực trong đời sống xã hội hiện thực – cụ thể của họ.
Trên cơ sở khoa học đó, các nhà sáng lập học thuyết Mác đã khẳng
định, con người là khái niệm chỉ những cá thể người như một chỉnh thể trong
sự thống nhất giữa mặt sinh học và xã hội. Con người vừa là sản ph
ẩm của tự
nhiên, vừa là sản phẩm của xã hội.
Như vậy, trong con người có hai mặt không thể tách rời đó là: Mặt tự
nhiên và mặt xã hội.
Gọi con người là một thực thể sinh vật, bởi vì nó là “một cơ thể sống”.
Con người là một thực thể xã hội, bởi vì thực thể này mang bản chất xã hội.
Chứng minh cho điều này, trong tác phẩm “Bản thảo kinh tế
- triết học
năm 1844”, khi C.Mác phân tích tình trạng “lao động bị tha hóa”, sự bần cùng
hóa tương đối và tuyệt đối của người công nhân, C.Mác đã chỉ rõ: con người
tồn tại trong tự nhiên, gắn bó chặt chẽ với giới tự nhiên, giới tự nhiên là thân
thể vô cơ của con người. C.Mác viết: “Tính loài của con người biểu hiện ở

chỗ: về mặt thể xác thì con người cũng như con vật sống bằ
ng giới tự nhiên
vô cơ, và con người càng có tính phổ biến so với con vật thì phạm vi của giới
tự nhiên vô cơ mà nó dựa vào để sống càng có tính phổ biến. Về mặt thể xác,
con người chỉ sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực
18

phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở, v.v…Về mặt thực tiễn, tính phổ biến của
con người biểu hiện ra chính ở cái tính phổ biến toàn bộ giới tự nhiên thành
thân thể vô cơ của con người, vì thứ nhất, giới tự nhiên là tư liệu sống trực
tiếp đối với con người và thứ hai giới tự nhiên là vật liệu, đối tượng và công
cụ của hoạt động sinh sống c
ủa con người”[114; tr. 134 - 135]. C.Mác nhấn
mạnh: “Giới tự nhiên – cụ thể là cái giới tự nhiên trong chừng mực bản thân
nó không phải là thân thể của con người - là thân thể vô cơ của con người.
Con người sống bằng giới tự nhiên. Như thế nghĩa là giới tự nhiên là thân thể
của con người, thân thể mà với nó con người phải ở lại trong quá trình thường
xuyên giao tiếp để tồn tại. Nói rằng đời sống th
ể xác và tinh thần của con
người gắn liền với giới tự nhiên, nói như thế chẳng qua chỉ có nghĩa là giới tự
nhiên gắn liền với bản thân giới tự nhiên, vì con người là một bộ phận của
giới tự nhiên”[114; tr. 135]. Như vậy, rõ ràng là, đối với các nhà sáng lập học
thuyết Mác, con người tồn tại bao giờ cũng gắn liền với điều kiện tự nhiên
nh
ất định, hơn thế nữa, con người là một bộ phận không thể tách rời của giới
tự nhiên. Là một thực thể của tự nhiên nhưng đó là một thực thể tự nhiên
sống, là một thực thể tự nhiên hoạt động, do đó xem xét mặt tự nhiên của con
người, như ăn, ngủ, đi lại, yêu thích không còn hoàn toàn mang tính tự nhiên
như ở con vật. C.Mác viết: “Con người tr
ực tiếp là một thực thể tự nhiên. Với

tính cách là thực thể tự nhiên, hơn nữa là thực thể tự nhiên sống, một mặt nó
được phú cho những lực lượng tự nhiên, những lực lượng sống, nó là thực thể
tự nhiên hoạt động, những lực lượng đó tồn tại trong nó dưới hình thức thiên
bẩm và năng lực, dưới hình thức năng khiếu; và mặt khác, với tính cách là
thực thể tự nhiên, nhục thể, cảm tính, có tính đối tượng, nó giống như động
vật và thực vật”[114; tr. 232]. Đây chính là nét đặc thù của các nhà sáng lập
học thuyết Mác khi nghiên cứu con người, phân biệt con người với tư cách là
thực thể tự nhiên nhưng con người là một thực thể năng động, có ý thức.
19

Trong quan niệm của các nhà sáng lập học thuyết Mác, nghiên cứu lịch
sử loài người trước hết và bắt đầu là những cá nhân con người đang sống
nhưng không phải đi sâu nghiên cứu thể chất của bản thân con người mà là
xác định tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ
thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của gi
ới tự nhiên. C.Mác viết: “Tiền đề
đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá
nhân con người sống. Vì vậy, điều kiện đầu tiên cần phải được xác định là tổ
chức cơ thể ấy tạo ra giữa phần còn lại của giới tự nhiên”[112; tr. 29]. Điều
đó bao hàm ý nghĩa là con người thoát thai từ tự nhiên, chính là thực thể tự

nhiên và cũng còn ý nghĩa trước khi là người thì con người đã là động vật và
khi mới tách ra khỏi giới động vật thì về cơ bản cũng giống súc vật. Các ông
diễn đạt rất hay tư tưởng này: “Chính trong việc cải biến thế giới vật thể, con
người lần đầu tiên thực sự khẳng định mình là một sinh vật có tính loài. Sự
sản xuất đó là đời sống có tính loài tích cực củ
a con người. Nhờ sự sản xuất
đó, giới tự nhiên biểu hiện ra là tác phẩm của nó (con người) và thực tại của
nó. Do đó, đối tượng lao động là sự đối tượng hóa đời sống có tính loài của
con người: con người nhân đôi mình không chỉ về mặt trí tuệ như xảy ra trong

mặt ý thức nữa, mà còn nhân đôi mình một cách hiện thực, một cách tích cực
và con người ngắm nhìn bản thân mình trong thế gi
ới do mình sáng tạo ra”
[114; tr. 137]. Ngay cả ý thức của con người cũng là sản phẩm của tự nhiên,
tuy nhiên đó là sản phẩm đã phát triển trong môi trường nhất định. C.Mác
viết: “Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến,
thì người ta sẽ thấy rằng, chúng là sản vật của bộ óc con người và bản thân
con người, là sản vật của giới tự nhiên, một sản v
ật đã phát triển trong một
môi trường nhất định và cùng với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên là những
sản vật của bộ óc người – quy đến cùng, cũng là sản vật của giới tự nhiên –
không mâu thuẫn mà lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự
20

nhiên”[107; tr. 55]. Và cả đây nữa: “Cả con người cũng xuất hiện nhờ sự phân
hóa và không những phân hóa về phương diện cá thể - bằng cách phát triển từ
một tế bào trứng duy nhất đến một cơ thể phức tạp nhất mà giới tự nhiên mà
giới tự nhiên sản sinh ra được – mà còn phân hóa theo ý nghĩa lịch sử nữa.
Sau cuộc đấu tranh kéo dài hàng nghìn năm, cuối cùng, bàn tay đã phân biệt
với bàn chân và dáng đi thẳ
ng đã được xác lập vững chắc rồi, thì con người
tách khỏi con khỉ, và mới có cơ sở cho sự phát triển của tiếng nói có âm tiết
và cho sự phát triển mạnh mẽ của bộ óc, sự phát triển đã làm cho cái vực sâu
giữa người và khỉ từ đó trở nên không thể vượt qua”[107; tr. 475].
Như vậy, xét về mặt thời gian, yếu tố sinh học là cái có trước, là cái
làm tiền đề, điề
u kiện cần thiết cho sự hình thành con người. Nhưng tự nhiên
mới chỉ là yếu tố cần chứ chưa đủ để cấu thành một cá thể người hoàn chỉnh,
do đó yếu tố xã hội và lịch sử do chính con người tạo ra mới là yếu tố quyết
định làm nên con người và bản chất người ở con người.

Khi xác định bản chất tự nhiên của con người, các nhà sáng lập học
thuy
ết Mác tập trung vào những hoạt động của con người trong lịch sử. Và
thông qua đó, C.Mác đã phát hiện ra một sự thật hết sức hiển nhiên đó là,
người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể làm ra lịch sử. “Nhưng
muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo
và một vài thứ khác nữa”[112; tr. 40]. Một sự
thật hết sức hiển nhiên đó
nhưng không phải ai cũng phát hiện ra mà chỉ tới các nhà sáng lập học thuyết
Mác mới vạch ra được, từ đó các ông coi đó là tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn
tại của con người và do đó là tiền đề của mọi lịch sử. C.Mác viết: “Như vậy,
hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong những tư li
ệu để thỏa mãn
những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là
một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng
như hàng nghìn năm về trước) người ta phải thực hiện hằng ngày, hằng giờ,

×