Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

skkn một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ qua giờ kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.9 KB, 12 trang )

MỤC LỤC
TT

Nội dung

Trang

Phần I.

MỞ ĐẦU

1

1

Lý do chọn đề tài

3

2

Mục đích nghiên cứu

3

3

Đối tượng nghiên cứu

3


4

Phương pháp nghiên cứu

3

5

Phương pháp nghiên cứu

3

Phần II

NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

4

2.1

Cơ sở lý luận

4

2.2

Thực trạng của vấn đề nghiên cứu

4


a

Thuận lợi

4

b

Khó khăn

5

c

Số liệu điều khảo sát trẻ trước khi thực hiện

5

2.3

Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề

6

Biện pháp 1: Thay đổi hình thức gây hứng thú cho trẻ.

6

Biện pháp 2: Tổ chức tiết học nhẹ nhàng, linh hoạt


6

Biện pháp 3: Đồ dùng trực quan phong phú đa dạng

8

Biện phâp 4. Tổ chức mọi lúc mọi nơi

8

Biện pháp 5: Làm tốt công tác tuyên truyền với phụ
9
huynh.
2.4
Phần III

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
KẾT LUẬN

9
11
1


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất ở
trường mầm non. Hoạt động này không những nhằm giúp trẻ hình thành các năng
lực ngôn ngữ như nghe, nói, tiền đọc và tiền viết, mà con giúp trẻ phát triển khả
năng tư duy, nhận thức, tình cảm. Đó là chiếc cầu nối giúp trẻ bước vào thế giới

lung linh, huyền ảo, rực rỡ sắc màu của xã hội loài người.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi lại càng quan trọng trong
chương trình giáo dục nhà trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ được thực
hiện thông qua hoạt động học như: hoạt động làm quen văn học, hoạt động nhận
biết, hoạt động ở mọi lúc mọi nơi...Trong đó, hoạt động làm quen với văn học mà
đặc biệt là giờ kể chuyện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện nhất cả về
vốn từ và ngữ điệu, giọng điệu.
Ở lứa tuổi này, trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, được khám phá thế
giới xung quanh mình nhưng vốn từ nghèo nàn, kinh nghiệm sống ít. Trẻ cảm nhận,
tiếp thu ngôn ngữ theo lối tư duy trực quan cụ thể, tức là lời nói gắn liền với các
hình ảnh, đồ vật, hiện tượng cụ thể thì trẻ mới có thể hiểu được.
Thông qua hoạt động kể chuyện trẻ sẽ nhận thức được cái hay cái đẹp,
những hành vi đúng nên làm và những việc không nên làm. Từ đó, hình thành ở trẻ
thái độ: ngoan – hư, tốt – xấu. Mà cô là người trung gian đưa những khái niệm đó
đến với trẻ; không chỉ bồi đắp cảm xúc cho trẻ mà qua hoạt động kể chuyện vốn từ
của trẻ cũng được tăng lên, khả năng hiểu và biểu đạt lời nói tốt hơn. Nhờ đó, ngôn
ngữ trẻ phát triển.
Thực tế, trong giờ kể chuyện chưa thật sự có hiệu quả bởi trẻ nhà trẻ sự tập
trung chưa cao. Bên cạnh đó, cô giáo cũng chưa có sự chuẩn bị chu đáo. Đồ dùng
chưa bắt mắt lôi cuốn trẻ. Cô nói nhanh, hình thức tổ chức đơn điệu. Cô chưa chú
ý đến việc cung cấp vốn từ cũng như cách diễn đạt lời nói cho trẻ. Vì vậy, hiệu quả
phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện không cao.
Chính vì những lí do trên mà tôi đã mạnh dạn chọn để tài “Một số biện pháp
giúp trẻ 24- 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ qua giờ kể chuyện”
2. Mục đích nghiên cứu
Để nâng cao khả năng phát triển ngôn ngữ qua kể chuyện cho trẻ từ 24 - 36
tháng tuổi. Cung cấp thêm vốn từ cho trẻ, khả năng nghe, hiểu và diễn đạt bằng lời
nói cho trẻ.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Áp dụng đối với nhà trẻ B (24- 36 tháng tuổi) trường mầm non Định Tăng

- Nghiên cứu các biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận

2


- Phương pháp thực nghiệm
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp đàm thoại
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
V.I.Lênin đã từng nói “Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp quan trọng nhất của con
người”.(V.I.Lênin toàn tập, tập 25, trang 258).
Trong xã hội loài người mỗi cá thể giao lưu với nhau được là nhờ có ngôn ngữ.
Chính vì thế, việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngay từ tuổi nhà trẻ là vô cùng quan
trọng. Mỗi giai đoạn phát triển khác nhau thì ngôn ngữ cũng theo đó mà phát triển.
Đây chính là giai đoạn bắt đầu của ngôn ngữ chủ động và có sự ảnh hưởng lớn tới
toàn bộ sự phát triển ngôn ngữ lâu dài về sau của trẻ.
Trẻ từ 2 đến 3 tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ từ 22 tháng tuổi
và 30 tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại khác
như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được tăng dần theo độ tuổi của trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi này đã có thể hiểu nghĩa của từ tuy nhiên đang còn hạn chế . Trẻ nói
được những câu dài nhưng chưa trọn vẹn, chưa diễn đạt hết được ý muốn của mình
bằng những câu đơn giản. Trẻ sử dụng các câu từ, ngữ pháp còn chưa chính xác. Vì
thế, cần mở rộng vốn từ cho trẻ bằng cách trò chuyện với trẻ về những sự vật, hiện
tượng trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày gần gũi với trẻ thông qua những câu
chuyện mà cô thường kể cho trẻ nghe sẽ làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ.
Việc nắm vững được những đặc điểm này sẽ giúp cho bản thân tôi có thêm
những kiến thức và kĩ năng tốt nhất trong quá trình hỗ trợ trẻ phát triển ngôn ngữ

thông qua giờ kể chuyện. Từ đó, đưa ra những phương pháp phù hợp, linh hoạt để
đạt được hiệu quả cao trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt là những trẻ
gặp khó khăn trong giao tiếp.
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài và đã giúp tôi căn cứ vào đó để tìm ra
những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp .
2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
Năm học 2016 -2017, tôi được phân công chủ nhiệm nhóm lớp nhà trẻ 24-36
tháng tuổi B với số trẻ là 30. Thời gian đầu năm học trẻ mới bắt đầu đến trường
chưa quen với môi trường mới và phải xa bố mẹ, người thân trong gia đình nên trẻ
đang còn hay khóc và chưa chịu học, chịu chơi. Vì thế, việc cho trẻ phát triển vốn từ
đang còn hạn chế. Mặc dù ở tuổi 24- 36 tháng tuổi nhưng một số cháu chưa biết nói chỉ ê,
a, baba.. ra hiệu cho cô như cháu Minh Trang, Tuấn Hùng, Bảo Nam
Từ tình hình thực tế của lớp, tôi thấy những thuận lợi và khó khăn như sau:
a. Thuận lợi
Trường mầm non Định Tăng là trường nhiều năm đạt tập thể lao động tiên tiến,
chất lượng giảng dạy ngày càng được nâng cao. Nhà trường luôn được phụ huynh
học sinh tin tưởng, số lượng học sinh ra lớp ngày một đông.
3


Nhà trường luôn tạo điều kiện tốt nhất về cở sở vật chất, trang thiết dạy bị phục
vụ hoạt động dạy và học.
Hàng năm, giáo viên được dạy và tiếp thu chuyên đề do nhà trường tổ chức để
rút kinh nghiệm
Tất cả chương trình giáo dục đều được thực hiện theo chương trình giáo dục
mầm non mới, lấy trẻ làm trung tâm với phương châm “Học mà chơi, chơi mà học”
Bản thân các cô luôn yêu nghề mến trẻ, không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn, ham học hỏi.
b. Khó khăn
- Hình thức tổ chức giờ kể chuyện chưa phong phú, đa dạng

- Ngôn ngữ của cô mang nặng tiếng địa phương, chưa diễn đạt được ngữ điệu,
giọng điệu của câu chuyện.
- Khả năng ngôn ngữ của trẻ không đồng đểu, nhiều trẻ không tự tin trong giao
tiếp.
- Số trẻ đông so với quy định nên khó khăn cho cô trong việc tổ chức hoạt động
cũng như uốn nắn ngôn ngữ cho trẻ.
- Trang thiết bị, đồ dùng trực quan còn ít, chưa phong phú, đa dạng.
Với những khó khăn như thế tôi phải dần dần khắc phục, sửa đổi và hướng
dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất thông qua giờ kể chuyện
c. Số liệu điều khảo sát trẻ trước khi thực hiện
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2016 - 2017 tại lớp nhà trẻ B trường
mầm non Định Tăng như sau:
Đạt
Nội dung
Số trẻ Số trẻ Tỉ lệ
Hiểu nghĩa của từ
30
15
50%
Phát âm đúng, rõ lời
30
10
33%
Biết thể hiện giọng điệu, 30
5
17%
ngữ điệu

Chưa đạt
Số trẻ

Tỉ lệ
24
50%
20
67%
25
83%

Qua bảng khảo sát cho ta thấy số trẻ hiểu được nghĩa của từ và biết phát âm rõ
lời còn rất thấp, đặc biệt số trẻ có thể thể hiện được giọng điệu, ngữ điệu của ngôn
ngữ lại vô cùng ít. Đa số trẻ không thể hiện được. Tôi suy nghĩ làm thế nào để hoạt
động kể chuyện có thể lôi cuốn trẻ, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Với trẻ 24 đến 36 tháng tuổi rất thích nghe kể chuyện và rất hứng thú với
hoạt động này. Chính vì vậy mà tôi muốn thông qua giờ kể chuyện để phát triển
ngôn ngữ cho trẻ. Cụ thể các biện pháp thực hiện như sau:
Biện pháp 1: Đổi mới các hình thức tổ chức giờ kể chuyện

4


Có thể nói một hoạt động được tổ chức thành công hay không một phần lớn là
do hình thức tổ chức có phong phú, hấp dẫn hay không. Nếu một hoạt động tổ
chức một cách cứng nhắc, đơn điệu thì dễ gây cho trẻ cảm giác nhàm chán, mệt
mỏi dẫn đến hiệu quả giáo dục không cao. Đối với giờ kể chuyện mà lại là kể
chuyện cho trẻ nhà trẻ, lứa tuổi trẻ chưa có sự tập trung cao cho hoạt động học thì
đòi hỏi hình thức tổ chức lại càng phải phong phú, hấp dẫn.
Trong việc xác định hình thức tổ chức giờ kể chuyện, tôi vẫn phải đảm bảo
cấu trúc của tiết dạy theo quy định. Tuy nhiên, mỗi câu chuyện khác nhau, với từng
chủ đề, từng thời điểm tôi lại có hình thức tổ chức khác nhau cho phù hợp. Tôi

không thay đổi hình thức tổ chức quá nhiều. Tuy nhiên, ở mỗi câu chuyện khác
nhau tôi đưa vào trong đó một số điểm mới, điểm khác biệt, điều này đã khiến trẻ
hứng thú và hào hứng hơn với câu chuyện.
VD: Với truyện “Quả trứng”, tôi sử dụng mô hình với quả trứng thật để dẫn
dắt vào chuyện. Trong quá trình kể tôi tập trung vào giọng của mình cho hấp dẫn.
Đối với truyện “Chiếc áo mùa xuân”, tôi sử dụng hình thức đưa trẻ vào không
gian của mùa xuân với hoa cỏ do cô trang trí để giúp trẻ hòa nhịp vào câu chuyện.
Có thể nói việc thay đổi hình thức giờ học đa dạng, phong phú, hấp dẫn đã lôi
cuốn trẻ vào giờ học một cách nhẹ nhàng mà vẫn mang lại hiệu quả cao.
Trong giờ kể chuyện lâu nay chúng ta vẫn có thói quen cho trẻ ngồi thụ động
theo một kiểu ngồi từ đầu hoạt động cho đến lúc kết thúc. Điều này đối với trẻ nhà
trẻ ngồi lâu sẽ gây cho trẻ sự mệt mỏi, gò bó. Vì thế, tôi đã luôn thay đổi kiểu ngồi
học giúp cho trẻ luôn có cảm giác thoái mái nhất. Trẻ ngồi gần cô sao cho giữa cô
và trẻ luôn có sự gắn kết gần gũi. Cô bao quát được trẻ. Trẻ có thể quan sát được cử
chỉ, nét mặt của cô.
VD: Lúc đầu bước vào hoạt động kể chuyện, tôi sẽ cho trẻ ngồi vây quanh cô
để nghe cô kể chuyện. Sau đó, chuyển sang hoạt động đàm thoại, xem tranh tôi cho
trẻ ngồi về hình chữ U. Hoặc nếu kết hợp kể chuyện với mô hình truyện tôi có thể
cho trẻ đứng xung quanh mô hình để nghe cô kể chuyện
Khi chuyển tiếp từ hoạt động này sang một hoạt động khác tôi thường đưa các
thủ thuật, trò chơi đơn giản, nhẹ nhàng tạo ra một không gian mới xen kẽ giữa hoạt
động tĩnh và động
VD: Truyện “Quả trứng”, sau khi kết thúc hoạt động đàm thoại về câu chuyện.
Trước khi cho trẻ làm quen một lần nữa với câu chuyện bằng tranh chữ to, tôi cho
trẻ chơi trò chơi “Bắt chước tiếng kêu của các nhân vật trong truyện”. Kết thúc cho
trẻ hát bài: “Một con vịt”.
Do số lượng học sinh của lớp tôi đông so với quy định, rất khó khăn cho việc
tổ chức các hoạt động. Do đó trong quá trình tổ chức tôi rất ưu tiên cho hình thức tổ
chức theo nhóm nhỏ. Tôi chia học sinh thành hai nhóm luân phiên các hoạt động
của hai nhóm cho phù hợp. Điều này giúp tôi có thể bao quát và luyện nói cho trẻ

tốt hơn.
5


Có thể nói việc thay đổi hình thức giờ học đa dạng, phong phú, hấp dẫn đã lôi
cuốn trẻ vào giờ học một cách nhẹ nhàng. Trẻ sẽ tập trung chú ý nhiều hơn, học
được nhiều từ ngữ hơn, lắng nghe nhiều hơn đến cách phát âm của cô, chú ý đến sự
thể hiện giọng điệu của từng nhân vật. Từ đó giúp cô thực hiện được mục tiêu đặt
ra trong đó có mục tiêu về phát triển ngôn ngữ được thực hiện một cách dễ dàng.
Biện pháp 2: Làm tốt khâu chuẩn bị cho giờ học.
Để có một giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao, trước hết khâu chuẩn bị phải thực
sự chu đáo. Thực tế, trong quá trình tổ chức hoạt động kể chuyện bản thân tôi cũng
như một số giáo viên khác không thể hiện được giọng điệu, ngữ điệu của nhân vật.
Nguyên nhân phần lớn do chưa có sự chuẩn bị kĩ càng. Do đó, để giúp cô tự tin khi
thể hiện câu chuyện thì bản thân đã chú ý đến việc chuẩn bị trước khi vào giờ kể
chuyện.
Để có một giờ kể chuyện đạt hiệu quả cao, tôi chọn những tác phẩm chuyện
ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi với đời sống hàng ngày. Nội dung truyện mang tính giáo
dục cao, hướng trẻ tới những hành vi đẹp, biết yêu quý những sự vật, đồ vật xung
quanh mình.
VD: Truyện “Vịt con lông vàng”. Một hôm, vịt mẹ dẫn các chú vịt con đi sưởi
ấm. Vì quá tinh nghịch các chú vịt con đã chui vào ống khói làm cho toàn bộ mình
chuyển thành màu đen. Vịt mẹ đã nhẹ nhàng nhắc nhở vịt con “lần sau các con nhớ
không được nghịch bẩn nhé”. Câu chuyện diễn ra rất nhẹ nhàng nhưng lại mang ý
nghĩa giáo dục: phải biết giữ vệ sinh sạch sẽ rất phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ tò mò,
thích khám phá.
Những câu chuyện sẽ được tôi chọn lọc và đưa vào kế hoạch giáo dục cho phù
hợp với chủ đề và lên giáo án các bước thực hiện cụ thể, chuẩn bị đồ dùng phù hợp.
Khi đã lựa chọn được tác phẩm truyện, tôi nghiên cứu kĩ nội dung câu chuyện,
thậm chí đọc đi đọc lại nhiều lần để tìm ra giọng điệu phù hợp với nhân vật, diễn

biến câu chuyện. Nhiều câu chuyện đã được thể hiện trên mạng internet, tôi đã tìm
tòi và mở ra nghe tham khảo. Tôi đọc và ghi âm để chỉnh sửa giọng đọc cũng như
sửa tiếng địa phương cho chuẩn với tiếng phổ thông. Bởi một tác phẩm truyền tải
thành công tới trẻ đó là qua giọng kể của cô.
VD: Trong câu chuyện “ Hai chú dê con”. Tôi đã dựa vào tính cách và diễn
biến câu chuyện để xác định giọng cho các nhân vật như sau:
Nhân vật hai chú Dê: Khi tranh giành nhau. Giọng chua ngoa và vang xa.
Nhân vật bác Cò vàng: Tốt bụng. Giọng ân cần, đầm ấm, chậm rãi
Nhân vật hai chú Dê: Khi biết lỗi. Giọng nhẹ nhàng, nũng nịu.
Và đặc biệt giọng người dẫn chuyện phải khác với nhân vật. Tuy nhiên, cũng
sẽ thay đổi theo tình tiết chuyện lúc trầm lúc bổng. Nhằm kích thích sự tò mò, háo
hức của trẻ đối với câu chuyện. Khi đọc truyện cô đọc chậm, diễn cảm để trẻ cảm
nhận được nội dung tác phẩm.

6


Khi đã chuẩn bị đầy đủ cả về nội dung lẫn đồ dùng, dụng cụ cũng như tâm thế.
Tôi có thể chủ động tiến hành giờ học một cách tự tin. Do đã thuộc nội dung câu
chuyện cũng như các bước tiến hành, tôi có thể tập trung hóa thân vào nhân vật,
khắc phục được tiếng địa phương của mình.
Biện pháp 3: Quan tâm đến biện pháp luyện tập cá nhân trẻ.
Trong thực tế tổ chức giờ kể chuyện cho trẻ nhà trẻ ở lớp tôi. Một số cháu rất
tích cực tham gia hoạt động, thích được nói cùng cô, một số cháu khác lại thụ động,
rụt rè chỉ biết ngồi nghe cô và các bạn khác nói. Tìm hiểu nguyên nhân tôi nhận ra
các cháu này có vốn từ rất nghèo nàn, phát âm không rõ nên không tự tin trong giao
tiếp. Do đó, trong giờ kể chuyện tôi đã sử dụng các biện pháp khác nhau để kích
thích từng cá nhân trẻ luyện nói.
Trước hết, để trẻ tự tin tham gia trả lời câu hỏi của cô, trẻ phải hiểu nội dung
câu chuyện và hiểu câu hỏi của cô. Những câu hỏi mà tôi lựa chọn là những câu hỏi

ngắn gọn.
Để trẻ hiểu sâu hơn về nội dung câu chuyện, tôi đã đưa hệ thống câu hỏi ngắn
gọn, phù hợp để trẻ có thể trả lời được. Câu hỏi mang tính chất mở từ dễ đến khó,
sát với nội dung truyện. Câu hỏi phải đạt được những tiêu chí: Ai đây? Cái gì
đây?..Làm gì?... Thế nào?
VD: Truyện “Quả trứng”, tôi sẽ đưa ra những câu hỏi như sau:
- Câu chuyện nói về cái gì?
- Quả trứng như thế nào?
- Ai đã nhìn thấy quả trứng?
- Gà trống đã nói gì?
- Lợn con đã nói gì?
- Sau khi nghe các bạn nói thì quả trứng làm gì?
Sau mỗi câu trả lời của trẻ, cô khái quát và cho trẻ nhắc lại. Đặc biệt là những
câu có đoạn hội thoại “Ò ó oo..quả trứng gì to to?” hay “ụt ịt, ụt ịt.. trứng gà, trứng
vịt”.
Giải thích từ khó “to to” là rất to
Mỗi lần cho trẻ nhắc lại đoạn hội thoại, đọc và phát âm các từ khó. Nếu trẻ
phát âm chưa chuẩn, sử dụng câu chưa đúng tôi trực tiếp uốn nắn, sửa sai cho trẻ.
Tôi thường ưu tiên gọi những trẻ nhút nhát, những trẻ đang còn chậm về cách phát
âm và diễn đạt. Tôi động viên, khuyến khích, hướng lái trẻ trả lời diễn đạt bằng
ngôn ngữ lời nói.
Trong khi trả lời các câu hỏi của cô vốn từ của trẻ tăng lên rất nhiều, đồng thời
trẻ biết sử dụng các câu dài phong phú và đa dạng hơn. Trẻ hiểu được nghĩa của từ.
Cái mà trẻ đạt được hơn thế nữa đó là sự mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.
Khi trẻ đã hiểu được nội dung câu chuyện. Tôi khuyến khích trẻ làm động tác
và tập kể lại câu chuyện kết hợp với tranh chữ to bằng cách mớm lời cho trẻ.

7



Sau mỗi một ngày tôi thường dành riêng ra 15 phút để đánh giá, ghi nhật kí
của trẻ. Thông qua, sổ nhật kí tôi có thể theo dõi được mức độ phát triển ngôn ngữ
của từng trẻ, đặc biệt là những trẻ yếu, trẻ nhút nhát. Từ đó, đề ra các giải pháp cho
các giờ học sau.
Với cách thức như vậy, mỗi ngày với sự kiên trì của mình khoảng cách về khả
năng ngôn ngữ giữa các trẻ dần dần được thu hẹp lại. Trẻ tự tin, mạnh dạn hơn và
chủ động hơn trong giờ kể chuyện.
Biện pháp 4: Đồ dùng trực quan phong phú đa dạng.
Trẻ nhà trẻ tư duy trực quan cụ thể là chủ yếu. Tức là lời nói luôn gắn liền với
đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được. Trong giờ hoạt động kể chuyện, đồ dùng càng
đẹp, càng hấp dẫn sẽ kích thích lôi cuốn trẻ. Chính vì vậy, tôi luôn chuẩn bị chu đáo
các loại đồ dùng mới lạ, sáng tạo, đẹp mắt phục vụ cho giờ kể chuyện.
+ Tôi tận dụng các nguyên liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như: sách báo,
lịch cũ, ống lon, chai nhựa, xốp, vải vụn làm ra những con rối, đồ vật thật xinh xắn,
sáng tạo phục vụ cho các câu chuyện mà tôi sẽ kể.
VD: Truyện "Thỏ con không vâng lời” tôi kể chuyện bằng mô hình sân khấu
với các nhân vật bằng rối: Rối Gấu, rối Thỏ mẹ, rối Thỏ con đã gây được sự chú ý
cho trẻ.
.+ Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh với màu sắc đẹp để gây hứng thú
cho trẻ nghe. Trẻ cũng có thể kể lại truyện với các hình ảnh trong tranh theo lời nói,
cách diễn đạt của trẻ. Từ đó, cung cấp thêm vốn từ cho trẻ.
Ngoài việc sử dụng tranh minh họa, tôi còn đưa công nghệ thông tin vào hoạt
động kể chuyện. Lâu nay với việc quan sát tranh đã theo lối mòi, việc tôi kết hợp
kể chuyện với những hình ảnh power ponit với những nhân vật đang chuyển động
làm trẻ thích thú hơn nhiều. Trẻ say mê hơn với giờ kể chuyện, không còn tình
trạng mất tập trung.
Kể chuyện kết hợp với mô hình truyện cũng được tôi sử dụng.
VD: Câu chuyện “Đôi bạn tốt”. Khi trích dẫn nội dung truyện tôi đưa mô hình
vào để giờ học thêm sinh động. Các nhân vật Cáo, Gà con và Vịt con.. được tôi tận
dụng làm từ các bìa cứng.

Có một số câu chuyện có hình ảnh phức tạp, để đảm bảo tính thẩm mĩ tôi đã
sưu tầm trên internet. Sau đó, in mầu hoặc đem đi phun mầu. Nhờ đó, những hình
ảnh truyện chân thực và sống động tạo sự thích thú cho trẻ khi tham gia hoạt động.
Biện phâp 5. Tổ chức mọi lúc mọi nơi.
Đối với trẻ nhà trẻ hoạt động chơi nhiều hơn hoạt động học nên tôi đã lồng
ghép, đan xen hoạt động kể chuyện vào mọi lúc mọi nơi "học mà chơi, chơi mà
học" nhằm củng cố thêm kiến thức đã học và cung cấp thêm vốn từ vốn, cách sử
dụng câu từ đang còn nghèo nàn của trẻ
Trong giờ đón, trả trẻ tôi cho trẻ quan sát, trò chuyện về một câu chuyện tranh
đã học. Tôi nhận thấy có những trẻ lâu nay luôn thụ động trong các hoạt động
8


nhưng khi nhìn vào bức tranh tôi đưa ra, trẻ nhận ra và nói đúng tên nhân vật trong
truyện là những vật nào. Sau đó, tôi gợi mở, khuyến khích trẻ nói đó là nhân vật
nào? Trong câu chuyện nào?
Tôi trò chuyện với trẻ về diễn biến sảy ra trong câu chuyện. Tôi luôn khuyến
khích trẻ kể dưới sự gợi ý của cô. Ngoài cho trẻ xem tranh tôi còn cho trẻ phim
hoạt hình về các câu chuyện kể. Trẻ rất thích thú với loại hình này. Qua hình thức
này, trẻ được nói và diễn đạt theo ý của mình. Tôi thấy trẻ tự tin hơn, không còn
khoảng cách rụt rè. Trẻ dễ khắc sâu vào tâm trí trẻ về nội dung câu chuyện. Theo
đó, ngôn ngữ cũng phát triển.
Tôi lồng ghép kể chuyện cho trẻ nghe vào mỗi giờ đi ngủ của trẻ. Trước khi
trẻ đi ngủ, tôi sẽ đọc cho trẻ nghe những câu chuyện cổ tích, những câu chuyện
ngắn gọn, dễ nghe, dễ đi vào giấc ngủ trẻ. Nó giống như một thói quen trước khi
ngủ của trẻ.
Trẻ nhà trẻ học và chơi đan xen nhau, sau những hoạt động học, tôi cho trẻ
hoạt động góc, hoạt động ngoài trời.
Ở góc sách, tôi sẽ trang bị cho các cháu sách truyện, tranh truyện kèm với chữ
to gắn liền. Mặc dù trẻ chưa biết chữ nhưng tôi vẫn khuyến khích cho trẻ cách giở

sách và xem sách nhằm kích thích sự ham hiểu biết của trẻ.
Thuận lợi của trường tôi, đó là khu vườn cổ tích với con vật, nhân vật, hình
ảnh gắn liền với những câu chuyện cổ tích: Tấm Cám, Dê đen và dê trắng, thỏ và
rùa.... Vào những giờ hoạt động ngoài trời, tôi thường cho trẻ tham quan khu vườn
cổ tích. Và kết hợp trò chuyện với trẻ về những hình ảnh, con vật gắn liền với các
câu chuyện đó. Những hoạt động như thế rất sôi nổi lại mang tính giáo dục cao.Trẻ
vừa được nghe truyện, được tri giác, phát triển ghi nhớ có chủ đinh. Ngôn từ của trẻ
cũng phát triển
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau khi áp dụng các biện pháp trên vào thực tế giảng dạy, tôi thấy các cháu
rất hứng thú, rất thích nghe kể chuyện. Qua đó mà việc phát triển ngôn ngữ đạt hiệu
quả cao.
Trong khi nghe kể chuyện, kể lại chuyện và trả lời các câu hỏi của cô. Vốn từ
của trẻ được tăng lên rất nhiều đồng thời trẻ biết sử dụng các loại câu phong phú và
đa dạng. Biết thể hiện ngữ điệu và thái độ khi nói.
Một số trẻ đầu năm đang còn chậm nói thì nay đã có thể nói được những câu
đơn giản.
Sau một năm áp dụng phương pháp mới này kết quả giảng dạy của tôi đã được
nâng lên rõ rệt, cụ thể như sau:

9


Đạt
Nội dung
Số Số trẻ
trẻ
Hiểu nghĩa của từ
30 25
Phát âm đúng, rõ lời

30 21
Biết thể hiện giọng điệu, 30 13
ngữ điệu

Tỉ lệ

Chưa đạt
Số trẻ
Tỉ lệ

83%
70%
43%

5
9
17

17%
30%
57%

Sau khi áp dụng “biện pháp cho trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua hoạt động
kể chuyện” tôi thấy đa số trẻ hiểu nghĩa của từ, nhiều trẻ có khả năng phát âm
đúng, rõ lời. Tỉ lệ trẻ thể hiện được ngữ điệu, giọng điệu khi giao tiếp tăng hơn so
với trước, cụ thể:
Trẻ hiểu nghĩa của từ tăng từ 50% lên 83% ( tăng 33%). Số trẻ chưa hiểu
nghĩa của từ giảm từ 50% xuống còn 17% (giảm 33%). Số trẻ phát âm đúng, rõ lời
tăng từ 33% lên 70% (tăng 34%). Số trẻ phát âm chưa rõ lời, chưa đúng giảm từ
67% xuống còn 30% (giảm 37%). Trẻ biết thể hiện giọng điệu tăng từ 17% lên 43%

(tăng 26%). Số trẻ chưa biết thể hiện giọng điệu, ngữ điệu giảm từ 83% xuống còn
57% (giảm 26%).
Nhìn thấy nhìn kết quả trên tôi thấy rất vui mừng và cảm thấy tự tin hơn trong
quá trình giảng dạy và đúc kết ra nhiều bài học bổ ích. Học sinh lớp tôi cũng mạnh
dạn hơn trong giao tiếp, phụ huynh tin tưởng khi cho trẻ đến lớp.
III. KẾT LUẬN
Muốn giúp trẻ từ 24 tháng đến 36 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua
giờ kể chuyện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
1. Luôn luôn nắm vững đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của trẻ để có biện pháp
giáo dục phù hợp. Vận dụng các biện pháp giáo dục mọi lúc, mọi nơi. Chú ý đến
các trẻ nhút nhát, rụt rè.
2. Dạy học luôn “lấy trẻ làm trung tâm” để phát huy tính tích cực của trẻ cô
cần gây hứng thú cho trẻ vào hoạt động kể chuyện bằng các thủ thuật đơn giản như
trò chơi, câu đố, thơ, hát, tình huống có vấn đề.
3. Trong quá trình tổ chức cô cần chú ý đến hệ thống câu hỏi ngắn gọn, có tính
mở giúp trẻ được tư duy và phát triển ngôn ngữ. Cô động viên, khích lệ trẻ diễn đạt
bằng lời nói, quan tâm đến từng cá nhân trẻ.
4. Đầu tư thời gian để nghiên cứu kĩ đề tài để có các phương pháp dạy học cụ
thể, phù hợp và đạt hiệu quả tốt nhất. Chuẩn bị chu đáo đồ dùng trực quan đẹp mắt,
mới lạ, phong phú hấp dẫn trẻ .
Trên đây là một số kinh nghiệm được rút ra trong quá trình học tập và công tác
của bản thân tôi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24- 36 tháng tuổi thông qua giờ
kể chuyện. Trong quá trình thực hiện đề tài này không tránh khỏi những
hạn chế. Tôi rất mong được sự quan tâm đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp và
10


của các cấp lãnh đạo. Để từ đó bản thân tôi rút ra được các kinh nghiệm và bản
SKKN được hoàn thiện hơn.


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
2017

Định Tăng, ngày 12 tháng 4 năm
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết không sao chép
nội dung của người khác
Người viết sáng kiến
Trịnh Thị Thủy

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
STT
1.
2.
3
4
5
6.

TÊN TÀI LIỆU

NHÀ XUẤT BẢN

NĂM XUẤT
BẢN
Hướng dẫn thực hiện chương trình NXB Giáo dục Việt 2009

GDMN cho trẻ 24- 36 tháng tuổi
Nam
Tuyển tập trò chơi, bài hát, thơ ca, NXB giáo dục Việt 2009
truyện, câu đố theo chủ đề cho trẻ Nam
nhà trẻ
Giáo trình học mầm non
NXB Đại học SP Hà 2006
Nội
Tạp chí giáo dục mầm non
Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non NXB Đại học quốc
gia Hà Nội
Tổ chức hoạt động phát triển ngôn NXB giáo dục
ngũ cho trẻ mầm non theo hướng
tích hợp

Các sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cấp huyện:
- Một số biện pháp giúp trẻ 3-4 tuổi học tốt môn văn học qua giờ kể chuyện
(Năm học: 2013 – 2014, đạt giải c)
- Một số biện pháp giúp trẻ 4 - 5 tuổi phát triển vận động qua giờ thể dục
(Năm học: 2015 – 2016, đạt giải c)

12



×