I.
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người
có ích, thành những con người mới. Một trong ba mục tiêu của cải cách giáo dục
của nước ta là: Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời thơ ấu
nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, người lao động làm
chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. Giáo dục mầm non đã góp phần thực
hiện mục tiêu trên.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới
chương trình giáo dục trẻ mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các
hoạt động phù hợp sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động
một cách chủ động tích cực, hồn nhiên vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo
viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động
chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt, thực hiện phương châm “Học mà
chơi - Chơi mà học” Đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện về
mọi mặt. Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách con người nói chung và
trẻ mầm non nói riêng thì ngôn ngữ có một vai trò rất quan trọng đặc biệt không
thể thiếu được. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là
đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những người
xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ
hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng đồng.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 24 - 36 tháng tuổi nói riêng qua quan
sát những giờ hoạt động học và những giờ hoạt động vui chơi, tôi thấy các cháu
rất thích được giao tiếp, thích được trò chuyện, thích được nói, nhưng vì ngôn
ngữ của trẻ còn hạn chế, các cháu còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều, nên tôi
thấy mình cần tìm nhiều biện pháp tác động để kích thích ngôn ngữ của trẻ phát
triển.
Việc phát triển vốn từ, luyện phát âm và dạy trẻ nói đúng ngữ pháp .....
không thể tách rời giữa các môn học cũng như các hoạt động của trẻ. Mỗi từ
cung cấp cho trẻ phải dựa trên một biểu tượng cụ thể, có nghĩa, gắn liền với âm
thanh và tình huống sử dụng chúng Nội dung vốn từ cung cấp cho trẻ cũng như
hình thức ngữ pháp phải phụ thuộc vào khả năng tiếp xúc, hoạt động và nhận
thức của trẻ.
Tuy trẻ còn nhỏ nhưng trẻ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá mọi thứ
xung quanh. Trẻ thường có nhiều thắc mắc trước những đồ vật, hiện tượng mà trẻ
1
nhìn thấy, nghe thấy. Trẻ luôn đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đấy? Cái gì? Con
gì?......[1]
Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày, người lớn cần trả lời những
câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ mnhững hiểu
biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy mà
mỗi giáo viên khi chăm sóc giáo dục cho trẻ cần chú trọng đến việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Chính vì ngôn ngữ có tầm quan trọng rất lớn đối với trẻ nên là một cô giáo
mầm non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng tuổi tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở
làm sao để dạy các con phát âm chuẩn, chính xác đúng tiếng việt.[3]. Vì thế tôi
đã dạy các con thông qua các môn học khác nhau và dạy các con ở mọi lúc mọi
nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện
tượng, về thế giới xung quanh trẻ, phát triển tư duy. Tôi thấy mình cần phải đi
sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với
yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy nên tôi đã chọn đề tài: “Một số giải
pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24-36 tháng tuổi ở trường mầm non
Thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu Hóa.” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo
dục trẻ, giúp trẻ phát triển toàn diện.
2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra một số giải pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24-36 tháng
tuổi.
Làm phong phú vốn từ cho trẻ.
Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người.
Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
3. Đối tượng nghiên cứu:
Tập trung nghiên cứu một số kinh nghiệm, giải pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ nhà trẻ lớp D2 trường mầm non Thị trấn Vạn Hà, năm học 2016 – 2017
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp thống kê toán học, xử lý thông tin, tổng kết kinh nghiệm.
II. NỘI DUNG
1- Cơ sở lý luận:
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó ra đời và tồn tại cùng
với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ dùng để phục vụ
2
mọi thành viên trong xã hội từ việc học tập, lao động đến việc vui chơi giải trí.
Có thể nói rằng trong bất kì lĩnh vực hoạt động nào của con người cũng cần đến
ngôn ngữ.[4]
Quá trình phát triển ngôn ngữ là quá trình cung cấp từ ngữ cho trẻ, góp
phần làm phong phú ngôn ngữ đẩy mạnh quá trình phát triển trí tuệ và tình cảm
đạo đức cho trẻ. Có thể nói rằng rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm
non là góp phần tích cực vào việc trang bị cho thế hệ mầm non một phương tiện
mạnh mẽ để tiếp thu kinh nghiệm quý báu của thế hệ cha anh, đồng thời tạo điều
kiện cho các cháu lĩnh hội các kiến thức, những hiểu biết mới lạ về thế giới xung
quanh.[4]
Ngôn ngữ luôn có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ. Trong giáo dục trẻ mầm non hiện nay, chúng ta càng thấy rõ vai trò
của ngôn ngữ đối với việc giúp trẻ trở thành những con người phát triển về mọi
mặt: đức, trí, thể, mỹ và hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con
người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là
nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Rất nhiều phụ huynh khi đưa con tới trường nhập học ở lứa tuổi nhà trẻ
thường nói với các cô giáo: “Con chưa biết nói cô ạ! Bạn này nói ít lắm! Phải
làm sao để con nói được nhiều hơn nữa hả cô?”
Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phần lớn các bố mẹ đều bận rộn lo
toan cho cuộc sống, thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ còn
ít. Một số cha mẹ của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngôn ngữ còn hạn chế.
Do vậy vốn từ của trẻ em ngày nay phát triển chậm và ít, chủ yếu trẻ được tiếp
xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, phim ảnh… trẻ nhận được sự chỉ bảo
uốn nắn của người lớn chưa nhiều.
Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan, khả năng tri giác về
các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện, trẻ hay bắt chước những cử chỉ
và lời nói của người khác. Do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải rõ ràng và chính
xác và ngay cả người lớn trong nhà cũng là tấm gương để trẻ noi theo[1]. Trong
thực tế sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một độ tuổi trong lớp là khá lớn.
Qua đó vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế của gia
đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thời gian người thân trò chuyện với trẻ
như thế nào? Bố mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về các hoạt động của trẻ ở trường
hay những thắc mắc của trẻ về cuộc sống xung quanh? có thường xuyên kể
chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không? ngày nghỉ có đưa bé đi chơi
công viên hay đi thăm họ hàng hay không? tất cả những điều đó không chỉ làm
tăng số lượng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà
3
còn làm phong phú hiểu biết về thế giới xung quanh và bồi dưỡng xúc cảm cho
trẻ.
Bác Hồ đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý
báu của dân tộc, chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó.” Việc rèn luyện và
phát triển ngôn ngữ nói cho trẻ đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ là viên gạch đầu tiên
của nền móng giáo dục mầm non là cả một quá trình liên tục và có hệ thống đòi
hỏi phải kiên trì, cô giáo, bố mẹ là người gương mẫu để trẻ noi theo.
2. Thực trạng:
a. Đặc điểm chung:
Năm học 2016 – 2017 tôi được Ban Giám hiệu phân công phụ trách nhóm
trẻ 24-36 tháng tuổi cùng với 1 cô giáo đều có trình độ trên chuẩn thực hiện
nhiệm vụ chăm sóc giáo dục cho 37 trẻ. Trong đó: nữ: 15 cháu; nam: 22 cháu
- 100% trẻ ăn bán trú tại trường.
Trước thực trạng dạy trẻ hoạt động ở lớp tôi có những thuận lợi và khó
khăn sau
b. Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm, chỉ đạo, giám sát việc giáo viên
tổ chức hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ, luôn tạo điều kiện về cơ sở vật chất
trang thiết bị giảng dạy cho giáo viên. Nhà trường đã đầu tư mua sắm trang thiết
bị, đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho hoạt động học tập và vui chơi của trẻ.
Bản thân tôi được giảng dạy trong môi trường tương đối đầy đủ về cơ sở
vật chất về đồ dùng học tập. Bản thân luôn nhiệt tình, tâm huyết với nghề, học
hỏi nâng cao tình độ về chuyên môn nghiệp vụ.
Thường xuyên được tham gia các lớp chuyên đề của phòng và trường tổ
chức và được tham dự các tiết dạy của các bạn đồng nghiệp trong cũng như
ngoài trường tổ chức
- Nhóm trẻ được chia theo đúng độ tuổi quy định
- Trẻ đi học chuyên cần
- Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú về hình
ảnh, màu sắc hấp dẫn (tranh ảnh, vật thật)
c. Khó khăn:
Trẻ 24 - 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt các cháu bắt
đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn, chưa thích nghi với
điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi mỗi
cháu đều có sở thích và cá tính khác nhau.
Ở lớp nhà trẻ thời gian chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú ý
phát triển vốn từ cho trẻ đôi khi còn gặp nhiều khó khăn.
4
Đa số phụ huynh đều bận với công việc nên ít dành thời gian trò chuyện
với trẻ và nghe trẻ nói.
Kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, trí nhớ còn hạn chế dẫn đến trẻ
thường dùng từ không chính xác, hay bỏ bớt từ khi nói.
Trước khi áp dụng các giải pháp, tôi đã làm một số khảo sát đối với trẻ:
Bảng khảo sát trẻ (tháng 9)
Nội dung
Đạt
Chưa đạt
Tốt
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%
SL
%
SL %
Vốn từ của trẻ
9/37
24
12/37 33 16/37
43
0
0
Khả năng nghe hiểu 9/37
24
12/37 33 16/37
43
0
0
ngôn ngữ và phát âm
Trẻ mạnh dạn tự tin 7/37
19
10/37 27 15/37
41
5/37
13
trong giao tiếp
Qua kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn
chế về câu từ, về cách phát âm. Trẻ lần đầu đến trường nên trẻ còn nhút nhát rụt
rè, trầm lắng ít chan hòa với tập thể, trẻ bị chấn thương tâm lý vì thế khi trẻ nói
hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp không đủ câu cho nên nhiều khi giáo
viên không hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn hạn chế khi nói
trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân của việc ngôn ngữ của trẻ còn nghèo nàn.
Chính vì vậy tôi đã đưa ra và áp dụng các giải pháp để phát triển ngôn
ngữ cho trẻ độ tuổi 24-36 tháng tuổi ở trường mầm non Thị trấn Vạn Hà, huyện
Thiệu Hóa.”
3. Giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
- Giải pháp 1: Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ.
* Đặc điểm phát âm:
Trẻ đã phát âm được các âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói
nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2- 3 âm tiết
như: Lựu - lịu, hươu - hiu, hoa sen - hoa xem, thuyền buồm- thiền bồm....
* Đặc điểm vốn từ:
Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế. Trẻ đã sử dụng
chính xác các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng
ngày. Những từ chỉ khái niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai...trẻ
sử dụng chưa chính xác. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: màu
xanh, màu đỏ, màu vàng.... Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người
lớn trong giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng, dạ....[3]
5
* Sắp xếp cấu trúc lời nói: Cách diễn đạt nội dung, sự liên kết các câu nói lại
với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung ngắn
gọn nào đó để giúp người nghe hiểu được, đối với một số trẻ là đơn giản. Nhưng
đối với một số trẻ khác nhỏ tháng hơn lại là rất khó, nếu yêu cầu trẻ kể lại một
câu chuyện hay tả lại một sự kiện, hiện tượng xảy ra đối với trẻ thì trẻ gặp khó
khăn. Nên cần phải tập luyện dần dần.
*Diễn đạt nội dung nói:
Cách diễn đạt nội dung của trẻ ở lứa tuổi này còn ê a, ậm ừ. Đôi khi chưa
diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản.
Còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp.
* Đặc điểm ngữ pháp:
Trẻ nói được 1 số câu đơn giản, biết thể hiện nhu cầu mong muốn và hiểu
biết của mình bằng 1 hay 2 câu.
Ví dụ: Cô ơi! Con uống nước, con ăn kẹo...
Trẻ đọc được các bài thơ, hát được các bài hát có 3 đến 5 câu ngắn. Trẻ có
thể kể lại một đoạn truyện được nghe nhiều lần, có sự gợi ý. Tuy nhiên đôi khi sự
sắp xếp các từ trong câu còn chưa hợp lý. Trẻ thường sử dụng câu cụt.
Ví dụ: Nước, uống nước...trong một số trường hợp trẻ dùng từ trong câu còn
chưa chính xác, chủ yếu trẻ sử dụng câu đơn mở rộng.
Giải pháp 2: Xây dựng kế hoạch phát triển ngôn ngữ cho trẻ theo từng
tháng xuyên suốt trong năm học:
Tháng
Nội dung
Tháng 9, 10
* Phát triển khả năng nghe hiểu cho trẻ:
Chọn những bài tập luyện tai nghe cho trẻ nhằm phát triển
thính giác, cho trẻ nghe những bài hát, những câu truyện,
những bài đồng dao,... tạo điều kiện để trẻ tập trung chú ý
luyện khả năng chú ý thính giác cho trẻ thông qua các bài tập,
trò chơi: Tai ai thính ? Ai đoán giỏi?... Cố gắng phát âm đúng
không phát âm sai vì trẻ hay bắt trước. Sửa lỗi phát âm cho trẻ
khi trẻ phát âm sai ở mọi lúc mọi nơi trong cái hoạt động
hàng ngày.
Tháng 11, 12
* Nghe, nhắc lại các âm, tiếng và câu nhằm phong phú vốn từ
cho trẻ:
Giáo viên cần nói diễn cảm, rõ ràng, giải thích nghĩa của
từ khó giúp cho trẻ hiểu, nhớ và vận dụng được các từ để đặt
câu. Để đẩy mạnh sự phát triển, khả năng vận động của cơ
quan phát âm, cần tập cho trẻ các bài tập luyện cơ quan phát
6
âm thích hợp:
Ví dụ: Con có cái ca, cô cắt quả cà, con cầm cái ca, cùng cười
ha ha…
Có con Ba Ba, đội nhà đi trốn, bì bà bì bõm, bé bắt Ba Ba.
Bà bảo bé, bé bế búp bê, bé bồng, bé bế, búp bê ngoan ngoan
Cô tổ chức những trò chơi phát triển vốn từ cho trẻ:
Ví dụ: trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật, ai nhanh
hơn, thi xem ai giỏi hơn.
Tháng 1, 2
Vẫn xuyên suốt 2 nhiệm vụ trên nhưng đi sâu vào vấn đề
luyện trí nhớ cho trẻ qua các bài thơ, đồng dao, bài đồng dao
được phổ nhạc như bài: “Con kiến mà leo cành đa, leo phải
cành cụt, leo vào leo ra” ...., đặc biệt là những câu chuyện kể
đầy hấp dẫn và lôi cuốn. Gợi ý cho trẻ sử dụng những loại câu
đơn giản đủ nghĩa.
Tháng 3, 4, 5
Xây dựng những trò chơi giúp trẻ nói đúng ngữ pháp, nói
mạch lạc:
Ví dụ: Trẻ nói theo mẫu câu của 1 câu truyện nào đó: “Chiếp
chiếp, cứu tôi với….con xin lỗi mẹ”… cho trẻ chơi từ dễ đến
khó, các mẫu câu phức tạp dần lên. Để củng cố kỹ năng nói
đúng ngữ pháp, pháp triển trí tưởng tượng, sáng tạo của trẻ.
Khi đã có một số lượng vốn từ phong phú trẻ sẽ tự tin giao
tiếp với mọi người một cách hứng thú hơn.
Giải pháp 3: Giáo viên cần giúp trẻ phát triển vốn từ, mạnh dạn, tự tin
thông qua các hoạt động học:
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ chính là phát triển khả năng nghe, hiểu ngôn
ngữ, khả năng trình bày có logic có trình tự, chính xác một nội dung nhất định.
Để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp với mọi người với ngôn ngữ mạch
lạc, giúp người nghe dễ hiểu thì trước hết cần:
*Thông qua hoạt động “Nhận biết tập nói”
Ở hoạt động nhận biết, trẻ được quan sát hình ảnh mà cô giáo cung cấp. Đối
tượng này đã được cô giáo chuẩn bị trước, sắp xếp chúng từ đơn giản đến phức
tạp dần, khi quan sát cô gợi mở để trẻ nói được điều trẻ đang quan sát, trong khi
trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói lắp.[3]
Ví dụ: Ở đề tài: “Nhận biết con gà trống”
Mục đích yêu cầu cần đạt được ở đề tài này là:
- Rèn khả năng phát âm, phát triển lời nói cho trẻ.
- Trẻ biết và gọi được tên con gà trống
7
- Biết được một số bộ phận của con gà trống: Đầu, mình, chân, đuôi.
- Biết và bắt chước được tiếng gáy của con gà trống
- Giáo dục trẻ yêu thương chăm sóc các con vật nuôi trong gia đình
Đồ dùng dạy học cho đề tài này là: hình ảnh về con gà trống, ghi hình các
vận động: đi, chạy, gáy, kiếm mồi để trẻ được quan sát cùng với từng vận động là
kèm theo từ để trẻ hiểu và biết cách sử dụng chúng sau này.
Ví dụ: “Gà gáy” trẻ vừa quan sát vừa phát âm được từ “ò ó o”. Tôi cho những trẻ
phát âm rõ lời phát âm trước sau đó tập cho những trẻ phát âm chưa rõ, những
cháu chậm nói được phát âm nhiều lần, luân phiên nhau.
Hình ảnh trẻ làm gà gáy
Ở hoạt động nhận biết, trẻ được phát âm nhiều, được nói nhiều và cũng dễ
bộc lộ ý tưởng của mình muốn nói, cũng chính trong hoạt động này cô giáo phát
hiện ra những cháu phát âm chuẩn, những cháu phát âm chưa chuẩn để sửa sai
kịp thời.
* Thông qua hoạt động kể chuyện, đọc thơ:
Những bài đồng dao, ca dao rất gần gũi, quen thuộc với trẻ, những động
tác kết hợp với lời thơ (lời ca) trẻ vừa đọc, vừa vận động sẽ là cơ hội để bộ máy
phát âm được làm việc
Ví dụ: Bài “Kéo cưa lừa xẻ”
Kéo cưa lừa xẻ
Ông thợ nào khỏe
8
Thì ăn cơm vua
Ông thợ nào thua
Thì về bú mẹ
Hai trẻ ngồi đối mặt nhau, chạm chân vào nhau, nắm tay nhau vừa đọc vừa
làm động tác kéo cưa, kéo qua kéo lại. Trẻ rất thích thú, đang học mà như đang
chơi vậy.
(Hình ảnh trẻ chơi kéo cưa lừa xẻ)
Bên cạnh hoạt động làm quen các bài thơ, đồng dao, ca dao, giờ kể chuyện
là hoạt động thu hút trẻ vào nội dung câu chuyện, với đồ dùng sinh động, tranh
truyện, rối tay, đặc biệt là một số hình ảnh động của các nhân vật trong giáo án
điện tử cùng với lời kể diễn cảm của cô giáo đã gây hứng thú cho trẻ ngay từ đầu
tiết học.
Ví dụ: Câu chuyện: Thỏ con không vâng lời
Chuẩn bị:
- Rối tay các nhân vật: Thỏ mẹ, thỏ con, bướm, bác gấu
- Mũ các nhân vật trên để trẻ tham gia diễn kịch
- Giáo án điện tử
Tôi tiến hành như sau:
Tôi kể chuyện lần một, cho trẻ xem qua màn hình.
Một hôm thỏ mẹ dặn thỏ con: “Thỏ con của mẹ! con ở nhà chớ đi chơi xa
con nhé” . “Vâng ạ! Con ở nhà không đi chơi xa.”
Nhưng bươm bướm bay đến, bươm bướm gọi: Thỏ con ơi! Ra vườn chơi
9
đi! ở đây có cỏ , ở đây có hoa thích lắm. Thế là thỏ con đi chơi mãi … chơi mãi,
xa thật xa…
Thế rồi thỏ con quên cả lối về nhà, thỏ con khóc hu hu và gọi mẹ ơi, mẹ ơi
Bác gấu đi ngang qua thấy thỏ con khóc. Bác dắt thỏ về nhà.
Thỏ mẹ chạy ra ôm thỏ con, thỏ con nói với mẹ: “Mẹ, mẹ dặn con ở nhà
con lại đi chơi xa, con xin lỗi mẹ”
- Tôi kể lần 2 (kết hợp xem sa bàn)
Hình ảnh mô hình sa bàn
- Kể lần 3 (kể trích dẫn) trẻ xem hình ảnh minh họa trên màn hình
Như vậy, qua các lần kể chuyện cháu đã hiểu được nội dung câu chuyện
* Đàm thoại: Trong quá trình đàm thoại, tôi tập cho trẻ trả lời trọn câu, đủ ý
không nói thiếu câu.
Ví dụ: + Cô vừa kể câu chuyện gì?
+ Tập cho trẻ trả lời: Thưa cô, cô vừa kể chuyện: Thỏ con không vâng
lời”.
+ Trong câu chuyện Thỏ con không vâng lời có những ai?
+ Thỏ mẹ đã dặn Thỏ con điều gì? (không đi chơi xa)
+ Ai đã gọi Thỏ con đi chơi? (bạn bươm bướm)
+ Bạn Thỏ con đã xảy ra chuyện gì khi đi chơi xa? (bị lạc đường)
+ Khi bị lạc thỏ con khóc như thế nào? (Hu hu! gọi Mẹ ơi! Mẹ ơi!). Cho
trẻ bắt chước thỏ khóc.
10
+ Ai đã giúp Thỏ con về nhà? (bác Gấu)
+ Về đến nhà thỏ con đã nói gì với mẹ (Thỏ xin lỗi mẹ)
Tất cả các câu hỏi đều tập cho trẻ trả lời trọn câu, đủ ý và cho nhiều trẻ
được trả lời. Sau đó tập cho trẻ kể lại từng đoạn truyện theo tranh. Ở đây cô giáo
gợi ý để trẻ nhớ và kể theo ngôn ngữ diễn đạt của từng trẻ. Như vậy khả năng
hiểu ý nghĩa lời nói, nắm vững từ và sử dụng chúng theo theo ý mình được hình
thành.
Cuối cùng trẻ tái hiện lại câu chuyện dưới hình thức đóng kịch, tôi cho trẻ
tự phân vai, chọn mũ nhân vật đội vào đầu. Cô giáo là người dẫn chuyện, ở
những đoạn đối thoại, tôi cho trẻ tự đối thoại với nhau theo lời thoại của
các nhân vật trong truyện (có thể trẻ nói không đúng nguyên văn lời thoại trong
câu chuyện) qua ngôn ngữ diễn đạt, khi trẻ đã biết đối thoại theo nội dung câu
chuyện điều đó chứng tỏ trẻ đã biết ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng ngôn ngữ
nói, là phương tiện, lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều
từ mới thể hiện sự tương ứng với nội dung câu chuyện. Đây cũng là cơ hội để
ngôn ngữ giao tiếp được phát triển
* Qua hoạt động âm nhạc
Ở hoạt động âm nhạc trẻ được tiếp xúc với nhiều loại nhạc cụ như: xắc xô
trống, phách tre, sáo... và các vật dụng: mũ múa, khăn voan, quạt giấy... trẻ được
nghe những giai điệu vui tươi kết hợp với các hình thức hoạt động (vận động
theo nhạc một cách nhịp nhàng, vận động minh họa theo lời ca). Để làm được
như vậy là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, vốn từ, kỹ năng, đặc biệt là sự giao tiếp
bằng ngôn ngữ của trẻ được tích lũy và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp
trẻ yêu âm nhạc.
Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ biết sử dụng những hình
ảnh đẹp của bài hát.
Ví dụ: Hát và vận động bài “Đưa tay lên cao với lấy ông mặt trời”, trẻ biết sử
dụng động tác minh hoạ đơn giản như sau:
Đưa tay lên cao với lấy ông mặt trời (trẻ đưa tay lên cao và vẫy cổ tay).
Hai bàn tay chạm vai (trẻ đưa tay chạm vai và lắc hông).
Chân bé nâng thật cao bước đều bước….. rồi bé xoay một vòng (trẻ làm
động tác nâng chân và xoay vòng tròn) .
11
Hình ảnh mô phỏng giúp trẻ hiểu nghĩa của từ một cách tự nhiên
Giải pháp 4: Thường xuyên cho trẻ chơi với các vật liệu từ thiên nhiên
Bản chất của trò chơi là một hoạt động tự do thoải mái, khác với các hoạt
động có tính tổ chức khác như lao động hay thể thao, vui chơi không chỉ đầy sự
ngẫu hứng mà đôi khi trông bừa bộn, thiếu ngăn nắp
Trò chơi thường gắn với cuộc sống của trẻ nhỏ và liên quan đến việc sử
dụng các nguyên vật liệu từ thiên nhiên như: cát, nước, đất sét, lá cây, cỏ khô hoa
khô … càng nhỏ trẻ càng thích tiếp xúc trực tiếp với chúng như: khuấy trộn,
nhào nặn, ấn, đập… bằng tay thay vì dùng dụng cụ như thìa, dao, xẻng để chơi.
Kiểu chơi có vẻ “nghịch bẩn” này làm người lớn cảm thấy mệt nhọc hơn khi phải
trông coi, giám sát chặt chẽ đến quần áo có thể bị ẩm ướt, dính bẩn, ngoài ra còn
phải dọn dẹp “hiện trường” bừa bộn sau khi trẻ chơi.
Tuy vậy, các cô giáo chúng tôi thì luôn chấp nhận những phiền toái đó để
khuyến khích, tạo cơ hội cho trẻ “nghịch” vì chúng tôi hiểu rằng, nó thực sự cần
thiết cho sự phát triển của trẻ và nhất là phát triển ngôn ngữ. Các vật liệu thiên
nhiên này mở rộng tính đa dạng của trò chơi, chúng chỉ cung cấp những gợi ý cơ
bản để trẻ tự mày mò ra cách chơi và trò chơi cho mình, không bao giờ chỉ có
12
một trò chơi đúng, duy nhất cho các vật liệu có sẵn, chơi với cát hay đất sét như
thế nào là tùy trẻ, chúng phải luôn tự nghĩ và tưởng tượng khi chơi
Một khi vật liệu chơi uyển chuyển, sinh động không có khuôn mẫu sẵn như
vậy, các ý tưởng về trò chơi sẽ hết sức sinh động và được mở rộng trong quá
trình hình thành trò chơi, chúng thực hiện ngay các ý tưởng chợt xuất hiện, biến
đổi liên tục về hình dạng, vật liệu theo sáng kiến nảy sinh bất ngờ
Chẳng hạn khi chơi với nước lúc đầu trẻ chỉ nghĩ sẽ đào một cái rãnh để cho
nước chảy qua, sau đó chúng lại nghĩ ra ý tưởng mới đó là đào một con sông với
những chiếc cầu bằng que bắc qua, hay khi chơi với đất sét lúc đầu chúng chỉ
định nặn đôi đũa nhưng sau đó chúng lại muốn nặn cái bút chì.
Tư duy của trẻ mang tính trực quan hành động, khi chơi với các vật liệu thiên
nhiên chúng suy nghĩ bằng đôi tay, như vậy qua chơi với các vật liệu từ thiên
nhiên sẽ tích lũy được vốn kinh nghiệm hoạt động tạo hình, từ những sản phẩm
mới tạo ra, trẻ tự đặt tên cho chúng và chính lúc này đây ngôn ngữ của trẻ cũng
phát triển
Giải pháp 5: Phát triển ngôn ngữ thông qua sinh hoạt hằng ngày
* Qua giờ đón, trả trẻ
Sự ân cần niềm nở của cô giáo khi đón trẻ sẽ là niềm tin, sự an tâm từ phía
phụ huynh và cũng là chỗ dự an toàn khi trẻ vào lớp, cũng ngay lúc này đây cô
giáo hướng dẫn trẻ để cặp, xếp dép ngăn nắp đúng nơi qui định vừa trò chuyện
cùng trẻ.
Sáng nay mẹ đưa con đi học bằng xe gì?
Xe máy kêu như thế nào?
Xe máy có mấy bánh?
Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ và phát
triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc, bởi qua trò
chuyện cô cung cấp và mở rộng vốn từ cho trẻ, khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng
với cô có nghĩa là trẻ đã tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà
được mở rộng và phát triển hơn
* Qua chơi tự do ở các góc:
Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một
cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt
động góc. Đây có thể coi là một hình thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác
dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hoá vốn từ cho
trẻ.Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời
gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình trẻ chơi sử dụng các loại từ có
nội dung khác nhau.
13
Hình ảnh trẻ đang chơi ở góc xây dựng
*Qua giờ ăn
Trước khi ăn, cô và trẻ cùng hát bài “Mời bạn ăn”, để mau lớn các con
phải ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, thế trong bài hát có những loại thức ăn nào?
(cho trẻ kể: thịt, rau, trứng, đậu, cá, tôm), bữa trưa hôm nay các con được ăn cơm
với món gì nhỉ?, thế là tôi chia cơm và giới thiệu món ăn
Ví dụ: Hôm nay các con được ăn cơm với món ăn mặn là: “Tôm rim thịt”, món
canh “Canh tôm mồng tơi”
Thịt, trứng cung cấp cho chúng ta chất dinh dưỡng gì? (chất đạm), canh
rau cung cấp cho chúng ta chất gì? (vi ta min, chất xơ), tôi luôn trò chuyện với
trẻ trước khi ăn để tạo không khí vui vẻ, giúp trẻ ăn ngon miệng vừa cung cố vốn
từ cho trẻ.
*Qua giờ ngủ
Khi trẻ đã vào sạp tôi mở những ca khúc nhẹ nhàng, có lời ru êm ái, có nội
dung nhắc nhở trẻ những quy tắc trong giờ ngủ để trẻ nghe.
Ví dụ: Bài hát “Giờ đi ngủ” trẻ nghe và nằm đúng tư thế, không nằm sấp, không
nói chuyện.
Giải pháp 6: Một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ
14
Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một
biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích luỹ được
nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử
dụng “số vốn từ ”đó một cách thành thạo.[3]
Qua trò chơi trẻ sẽ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát
hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Và tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò
chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài
một cách nhẹ nhàng và thoải mái
Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng
trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ
của trẻ ngày càng phong phú.
*Trò chơi 1: “Cái gì? Dùng để làm gì”?
Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng
quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được
phát triển :
*Chuẩn bị:
+ Đồ dùng để ăn uống (bát , thìa, cốc, ca..)
+ Đồ dùng để mặc (quần, áo, khăn, mũ…)
+ Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau.
*Tiến hành:
Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô, khi cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải
nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì.[2]
Cô nói:
+ Cái bát dùng để làm gì? (cái bát đựng cơm)
+ Cái cốc dùng để làm gì? (dùng để uống nước)
+ Cái mũ để làm gì? (cái mũ để đội)
+ Cái áo để làm gì? (cái áo để mặc)
Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn sự nhanh nhẹn và tư
duy của trẻ. Tôi phát cho mỗi trẻ một lô tô đồ dùng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ
gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1, 2, 3
yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng.
* Trò chơi 2: “Con muỗi ”
* Cách chơi:[2]
- Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô.
15
- Cô cho trẻ đọc từng lời một có kèm theo động tác:
+ Có con muỗi vo ve, vo ve (trẻ giơ ngón tay trỏ ra trước mặt vẫy qua vẫy lại
theo nhịp đọc)
+ Đốt cái tay, đốt cái chân, rồi bay đi xa. (lấy ngón tay trỏ vào cánh tay đối diện
chỉ xuống đùi rồi dang 2 tay sang ngang).
+ Úi chà! úi chà! Dang tay ra đánh cái bép, con muỗi xẹp. Rửa tay (nhún vai 2
lần, dang 2 tay sang ngang, vỗ tay một cái rồi chỉ vào chóp mũi. Sau đó xoa 2 tay
vào nhau vờ rửa tay)
Tuỳ theo sự hứng thú của trẻ mà cho trẻ chơi 3-4 lần. Khi trẻ chơi tôi nhận
thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập
bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình
thành trọn vẹn hơn .
*Trò chơi 3: “Trò chuyện về các phương tiện giao thông quen thuộc ”.
Qua trò chơi này trẻ sẽ kể được một số phương tiện giao thông (PTGT)
quen thuộc như: ô tô, xe đạp, xe máy, tàu hoả….
* Chuẩn bị:
+ Mô hình các PTGT: ô tô, xe máy, xe đạp….
+ Tranh, ảnh các loại PTGT.
+ Đàn, đài có thu âm thanh tiếng kêu của các PTGT cho trẻ đoán
* Tiến hành:
Trong trò chơi này tuỳ thuộc vào thời gian rảnh rỗi tôi có thể cho trẻ chơi.
Có thể là giờ đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi buổi chiều…tôi có thể đàm thoại với trẻ
về các loại PTGT mà trẻ biết như :
+ Hôm nay, ai đưa con đến trường?
+ Mẹ con đưa đến trường bằng phương tiện gì?
+ Cô nào đón con vào lớp?
+ Hôm qua chủ nhật, bố mẹ có đưa con đi chơi không?
+ Con đi với ai?
+ Con đi bằng phương tiện gì?
+ Khi đi đường con nhìn thấy gì ?
+ Bạn nào đã được đi ô tô rồi ?
+ Ô tô kêu như thế nào ?
+ Khi ngồi trên xe máy phải như thế nào để đảm bảo an toàn giao thông?
16
Sau khi đặt những câu hỏi như vậy tôi khuyến khích trẻ kể tên những loại
phương tiện giao thông khác mà trẻ biết.
Tiếp tục cho trẻ quan sát mô hình phương tiện giao thông, cho trẻ nghe âm
thanh và yêu cầu trẻ đoán đó là phương tiện giao thông nào.
Giải pháp 7: Làm tốt công tác tuyên truyền, kết hợp với phụ huynh.
Như chúng ta đã biết môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình và
nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong công tác
chăm sóc, giáo dục trẻ là một biện pháp đưa lại hiệu quả cao nhất.
Gia đình chính là một trong các nhân tố quyết định trong việc hình thành
phát triển toàn diện của trẻ
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự đóng góp của
gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt chẽ với
phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế hoạch, lịch
sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt được.
Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói nên giáo viên cần trao đổi với phụ
huynh về ý nghĩa phát triển vốn từ cho trẻ và yêu cầu phụ huynh cùng phối hợp
với cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Hàng ngày phụ huynh phải
dành nhiều thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ, cho trẻ được tiếp xúc
nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi
của trẻ.
Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ
rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô
giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng
những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm
sửa nói ngọng.
Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển tranh
truyện; truyện có chữ, hình ảnh to, rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ
để cho trẻ làm quen và để xây dựng góc thư viện sách truyện của lớp.
Qua đó phụ huynh thấy được ngôn ngữ của trẻ phát triển như thế nào và
biện pháp kích thích sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình một cách phù hợp
và hiệu quả nhất
Cô trao đổi với phụ huynh về những câu chuyện mà trẻ đã nghe cô kể; yêu
cầu phụ huynh về nhà nếu thuộc câu chuyện đó thì kể lại cho trẻ nghe hoặc kích
thích trẻ kể các câu chuyện khác. Như vậy ngôn ngữ của trẻ được phát triển một
17
cách phong phú và đa dạng. Huy động phụ huynh đóng góp kinh phí mua sắm
một số hình ảnh; tranh truyện; hoặc thu gom phế liệu; nguyên vật liệu sẵn có; dễ
tìm như: Vải vụn; len vụn; các vỏ hộp; mút; xốp…kết hợp trong và ngoài giờ
đón trả trẻ để trao đổi với phụ huynh.?
Hình ảnh giáo viên tuyên truyền với phụ huynh giờ đón trẻ.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
a.Về phía giáo viên
Là một giáo viên tôi đã hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn
ngữ từ đó có kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và
phát triển nhân cách cho trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên
môn, rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn.
Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ, luôn
tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động
b. Về phía phụ huynh:
Phụ huynh đã hài lòng và kết hợp với cô giáo chặt chẽ hơn trong việc
chăm sóc, nuôi dạy trẻ nhất là nâng cao sự phát triển ngôn ngữ. Đó là một thành
công trong việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Các bậc phụ huynh
đã phấn khởi trước sự thay đổi và phát triển toàn diện của trẻ.
18
c. Về phía trẻ
90 % số trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn trong
lớp và mọi người xung quanh.
Cách sử dụng ngôn ngữ của trẻ phong phú hơn nhiều so với đầu năm học
trẻ đã có thể đọc được bài thơ ngắn, trả lời câu hỏi của cô một cách rõ ràng.
Trẻ biết sắp xếp trật tự của các từ trong câu nên khi trẻ nói trẻ không còn
bớt từ, trẻ đã phát âm được trọn vẹn cả câu.
Bằng một số kinh nghiệm của mình mà tôi đã áp dụng trong việc phát
triển ngôn ngữ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong năm học vừa qua và kết quả đạt
được như sau:
Bảng khảo sát sau khi áp dụng các giải pháp
Nội dung
Đạt
Chưa đạt
Tốt
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
Vốn từ của trẻ
13/37
35
18/37 49
6/37
16
0
0
Khả năng nghe hiểu 15/37
41
17/37 46
5/37
13
0
0
ngôn ngữ và phát âm
Trẻ nạnh dạn tự tin 14/37
37
17/37 45
6/37
16
0
0
trong giao tiếp
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua nghiên cứu đề tài “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi” tôi
đã rút ra được kết luận như sau:
Phát triển ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng trong cuộc sống hàng ngày và
hoạt động nhận thức của con người nói chung, sự phát triển nhận thức của trẻ nói
riêng đặc biệt là trẻ 24-36 tháng tuổi khả năng ngôn ngữ phát triển rất nhanh.
Muốn có được kết quả trong việc phát triển vốn từ cho trẻ qua quá trình
thực hiện bản thân cô giáo là tấm gương sáng mẫu mực, có cách ứng xử, lời nói
chuẩn xác, không phân biệt giữa trẻ.
Yêu nghề, mến trẻ, tận tụy với công việc của mình, luôn kiên trì tìm tòi
nghiên cứu các phương pháp hình thức dạy trẻ phù hợp, có kết quả cao.
Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và
phát triển nhân cách trẻ. Không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn tiếng việt.
Cô luôn dành thời gian gần gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn tự tin
tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn, tạo điều kiện
19
cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ, luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử
dụng ngôn ngữ một cách chủ động, tạo cơ hội để trẻ bày tỏ ý kiến của mình.
Tóm lại, trong tất cả các hoạt động trong ngày của trẻ ở trường cô phải
tích cực trò chuyện với trẻ, hỏi trẻ để trẻ trả lời, nếu trẻ không trả lời được cô
phải nhắc nhở trẻ. Có như vậy, ngôn ngữ của trẻ mới phát triển, trẻ mới hiểu
được nghĩa của từ, biết sử dụng từ trong các tình huống giao tiếp.
2. Kiến nghị đề xuất.
Do đề tài được áp dụng trong phạm vi hẹp ở một nhóm trẻ, vì thế một số
kinh nghiệm tôi đưa ra không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Qua đây, tôi rất mong
được cán bộ chuyên môn Phòng Giáo dục, Ban giám hiệu nhà trường và bạn
đồng nghiệp đọc, góp ý, xây dựng bổ sung thêm để giúp tôi có được những kinh
nghiệm tốt hơn để áp dụng trong quá trình công tác của bản thân, đặc biệt nâng
cao chất lượng của việc giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non nói
chung, trẻ 24 – 36 tháng tuổi nói riêng.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 14 tháng 4 năm 2017
……………………………………………….............................................
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
……………………………………………………………………………
viết, không sao chép nội dung của người
……………………………………………………………………………
khác
(Ký và ghi rõ họ tên)
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………
Lê Thị Hằng
Tài liệu tham khảo
20
[1]. Một số đặc điểm phát triển ngôn ngữ của trẻ (Đề tài nghiên cứu khoa
học của Đại học Sư Phạm Hà Nội - 2007).
[2]. Tuyển chọn trò chơi thơ ca, câu đố, bài hát theo chủ đề (TS Lê Thu
Hương) Trang 5, trang 21, trang107 (2009)
[3]. Đặc điểm vốn từ của trẻ 24 - 36 tháng tuổi (Thạc sỹ Nguyễn Thị Trà
My, Vi Thị Diệp) Đại học Khoa học Thái nguyên (Trang 2 - 2010).
[4]. . Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ - (Biên soạn Trịnh Thị Hà
Bắc – NXB Đại học Huế - 2009 - Trang 6, 7, 8)
DANH MỤC ĐỀ TÀI SKKN
21
TT
1
2
Tên đề tài
Một số giải pháp phát triển thể
chất cho trẻ 3 - 4 tuổi ở trường
mầm non Thị trấn Vạn Hà,
Thiệu Hóa.
Một số giải pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ độ tuổi 24-36
tháng tuổi ở trường mầm non
Thị trấn Vạn Hà, huyện Thiệu
Hóa.
Xếp loại
Cấp
Cấp
trường huyện
A
C
A
A
Năm học
Cấp
tỉnh
2015 - 2016
2016 - 2017
22