I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Công cuộc đổi mới kinh tế xã hội đang diễn ra từng ngày, từng giờ
trên khắp đất nước. Nó đòi hỏi phải có những lớp người lao động mới, có bản
lĩnh, có năng lực, chủ động sáng tạo. Dám nghĩ, dám làm thích ứng được với
thực tiễn xã hội luôn thay đổi và phát triển. Nhu cầu này đòi hỏi phải có ngành
giáo dục phải có sự thay đổi cho phù hợp với tình hình đất nước. Và thực sự
ngành giáo dục đã từng bước thay đổi, thể hiện qua sự xác định mục đích giáo
dục đào tạo, hay nói đúng hơn là phát triển toàn diện về nhân cách con người thể
hiện qua hai mặt là: “Tài và Đức”. Muốn làm được điều này, ngành giáo dục
phải tạo điều kiện để học sinh phát huy năng lực về văn hóa cũng như về phẩm
chất đạo đức ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường. Nhân cách trẻ được hình
thành và phát triển thông qua các hoạt động có ý thức. Chính trong quá trình
sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi giải trí…các em đã hình thành và phát
triển nhân cách của mình. Bác Hồ đã từng nói:
“Ngày nay chúng ta là Nhi đồng, ít năm sau chúng ta sẽ là công nhân,
cán bộ. Vì vậy chính phủ, các đoàn thể và tất cả các đồng bào có trách nhiệm
giúp sức vào việc giáo dục nhi đồng…” Để mai sau xã hội có những người chủ
xứng đáng, có những người công dân tốt thì hôm nay thế hệ đi trước phải có
trách nhiệm dạy dỗ, định hướng cho các em con đường đúng đắn. Không nơi
nào khác trường học chính là nơi kết tinh trình độ văn minh của xã hội trong
công tác giáo dục trẻ em. Trong giáo dục đào tạo con người mới con người phát
triển toàn diện, chúng ta không chỉ dạy cho các em giỏi về văn hóa mà còn phải
làm tốt công tác giáo dục hành vi, phẩm chất đạo đức cho các em ở lứa tuổi tiểu
học. Đặc biệt là giáo dục các em học sinh trong giai đoạn đầu cấp (học sinh lớp
1). Người xưa đã dạy: “Dạy con từ thuở còn thơ”. Qua nhiều năm giảng dạy ở
trường Tiểu học, tôi nhận thấy việc giáo dục hành vi, phẩm chất đạo đức cho các
em là vô cùng cần thiết. Thông qua môn học Đạo đức các em có những hiểu biết
ban đầu về một số những chuẩn mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với
lứa tuổi tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, từng bước hình thành
cho học sinh những kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi ứng xử phù hợp của bản
thân và những người xung quanh theo chuẩn mực trong các mối quan hệ và tình
huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống. Từng bước hình thành cho các em thái độ
tự trọng, tự tin vào khả năng của bản thân, có trách nhiệm với hành động của
mình, biết yêu thương tôn trọng mọi người; luôn mong muốn đem lại niềm vui,
hạnh phúc cho mọi người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt; không đồng tình với
hành vi, việc làm sai.
Thực tiễn cho thấy kết quả giáo dục đạo đức đang có sự giảm sút nghiêm
trọng. Hiện nay, trong điều kiện của kinh tế thị trường và cạnh tranh. Do bị xoáy
vào vòng xoáy của cơ chế thị trường mà nhiều phụ huynh ít còn thời gian, sức
lực dành cho việc kiểm tra, giáo dục con cái. Hoặc không ít phụ huynh chiều
chuộng con quá mức, muốn gì được đó... Ngoài ra, sự bùng nổ của công nghệ
thông tin (cả tích cực lẫn tiêu cực), các trò chơi bạo lực trên mạng Internet ... đã
ảnh hưởng rất lớn đến học sinh. Mà tâm lí học sinh tiểu học thích “bắt chước”
1
nên hành vi đạo đức của các em có thể thu nhận qua việc giao tiếp, tranh ảnh,
sách báo, phim, truyện ... nhưng các em chưa biết phân biệt để tự lựa chọn hành
vi đạo đức phù hợp cho mình. Chính vì vậy, những chuẩn mực hành vi đạo đức
giáo dục trẻ phải được gia đình, nhà trường, xã hội cung cấp và uốn nắn ngay từ
nhỏ. Từ lớp 1 các em đã được thầy cô xây dựng những hành vi, chuẩn mực đạo
đức phù hợp với lứa tuổi của các em thông qua môn Đạo đức. Đây cũng là điểm
tựa định hướng cho việc hình thành thái độ và kỹ năng, hành vi đạo đức cho các
em.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, trong quá trình giảng dạy, đặc biệt là
giảng dạy môn Đạo đức ở lớp 1. Vậy làm thế nào để học sinh tiếp thu kiến thức
đã học một cách nhẹ nhàng, sinh động, không nhàm chán, không bị áp đặt, gò bó
hay gượng ép? Chuyển tải đến các em cảm giác “Học mà chơi, chơi mà học”
Tôi đã áp dụng một số biện pháp trong quá trình giảng dạy và đạt được một số
hiệu quả nhất định với sáng kiến: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn
Đạo đức ở lớp 1” để cùng chia sẻ với đồng nghiệp nhằm nâng cao chất lượng
môn đạo đức.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao hơn nữa về chất lượng
môn Đạo đức cho học sinh lớp1- Trường Tiểu học Đông vệ 2- Thành phố Thanh
Hóa.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn Đạo đức.
- Học sinh lớp 1B – Trường Tiểu học Đông Vệ 2.
4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp quan sát trực quan :
Quan sát cách tiến hành, tổ chức lên lớp của giáo viên khối 1. Quan sát
mức độ tiếp thu của học sinh, khả năng hiểu bài và kiến thức, kỹ năng học sinh
đạt được qua tiết học. Quan sát kỹ năng từng thao tác của giáo viên, từng hành
vi của học sinh khi học môn Đạo đức. Phạm vi quan sát chủ yếu là học sinh khối
1.
4.2. Phương pháp đọc sách, tài liệu:
- Sử dụng giáo trình “ Phương pháp dạy học môn Đạo đức”.
- Đọc tài liệu tập huấn đối với phương pháp dạy lớp 1.
- Xem sách giáo viên Đạo đức1, Vở bài tập Đạo đức1, xem lại một số giáo
án dạy môn Đạo đức.
- Xem băng đĩa, các bài giảng điện tử có liên quan đến môn Đạo đức.
4.3. Phương pháp thống kê, so sánh:
Thống kê lại tất cả những gì quan sát, đã tìm hiểu khi thực hiện đề tài rồi
sắp xếp một cách có hệ thống. So sánh kết quả sau khi đã thống kê trước đây với
kết quả đã áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận:
1.1 Mục tiêu môn đạo đức lớp 1
- Có hiểu biết ban đầu về một số hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với
lứa tuổi trong mối quan hệ của các em đối với bản thân, gia đình, nhà trường,
cộng đồng và ý nghĩa của việc thực hiện theo chuẩn mực đó.
- Từng bước hình thành kĩ năng nhận xét, đánh giá hành vi của bản thân
và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học, kĩ năng lưa chọn và thực
hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các quan hệ và tình huống
đơn giản, cụ thể của cuộc sống, biết nhắc nhở bạn bè cùng thực hiện.
- Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu thương, tôn trọng con
người, yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt, không đồng tình với cái ác, cái sai và cái
xấu.
1.2. Cấu trúc chương trình môn Đạo đức lớp 1.
- Chương trình Đạo đức lớp 1 được thiết kế theo hướng xác định quyền
trách nhiệm, bổn phận đối với học sinh. Bao gồm 14 chuẩn mực hành vi đạo đức
phù hợp với lứa tuổi học sinh theo năm mối quan hệ trong cuộc sống như:
+ Quan hệ của các em với bản thân ở các bài: Em là học sinh lớp Một;
Gọn gàng, sạch sẽ.
+ Quan hệ của các em với gia đình ở các bài: Gia đình em; Lễ phép với
anh chị, nhường nhịn em nhỏ.
+ Quan hệ của các em với nhà trường ở các bài: Nghiêm trang khi chào
cờ; Đi học đều và đúng giờ; Trật tự trong giờ học; Lễ phép vâng lời thầy giáo, cô
giáo; Em và các bạn.
+ Quan hệ của các em với cộng đồng xã hội ở các bài: Đi bộ đúng quy
định; Cảm ơn và xin lỗi; Chào hỏi và tạm biệt.
+ Quan hệ của các em với môi trường tự nhiên ở các bài: Bảo vệ hoa và
cây nơi công cộng.
- Chương trình gồm 35 tuần, mỗi tuần 1 tiết. Mỗi bài của chương trình
được dạy trong 2 tiết:
+ 14 bài x 2 tiết
= 28 tiết
+ Dành cho địa phương: 3 tiết
+ Ôn tập học kì I:
1 tiết
+ Kiểm tra học kì I:
1 tiết
+ Ôn tập cuối năm:
1 tiết
+ Kiểm tra cuối năm:
1 tiết
Tổng cộng:
35 tiết
+ Thời gian 1 tiết: 40 phút.
- Dạy – học môn Đạo đức là dạy học sinh những hành vi ứng xử phù hợp
với các chuẩn mực đạo đức xã hội và quyền của trẻ em trong các tình huống đơn
giản, cụ thể của cuộc sống hằng ngày. Nội dung môn Đạo đức kết hợp giữa giáo
dục quyền với giáo dục trách nhiệm, bổn phận của học sinh. Hơn nữa, môn Đạo
đức không chỉ giáo dục bổn phận, trách nhiệm của học sinh đối với gia đình, nhà
trường, xã hội và môi trường tự nhiên, mà còn giáo dục trách nhiệm của các em
đối với chính bản thân mình.
3
1.3. Giới thiệu vở bài tập Đạo đức 1.
a. Về cấu trúc nội dung: Môn Đạo đức lớp Một không có sách giáo khoa mà chỉ
có vở bài tập đạo đức. Vở bài tập đạo đức 1 có các dạng bài tập chính sau:
- Quan sát tranh và kể chuyện theo tranh.
- Nhận xét về các hành vi của các nhân vật trong tranh.
- Xử lí tình huống.
- Đóng vai.
- Liên hệ tự liên hệ.
- Múa hát, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch, tô màu tranh, vẽ tranh, … về chủ
đề bài học.
b. Về cách trình bày.
- Vở bài tập đạo đức 1 chủ yếu được trình bày rất nhiều tranh ảnh nhưng
tất cả đều là tranh vẽ, màu sắc còn đơn điệu, chủ yếu sử dụng màu xanh, màu
đen.
1.4. Một số phương pháp dạy – học môn Đạo đức ở lớp Một
Như đã trình bày ở trên, phương pháp dạy – học môn Đạo đức ở lớp Một
rất phong phú, đa dạng. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp động não: Là phương pháp giúp cho học sinh, trong một
thời gian ngắn, nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào
đó.
- Phương pháp đóng vai: Là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành
một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định.
- Phương pháp trò chơi: Là phương pháp giúp học sinh phát hiện và chiếm
lĩnh những nội dung học tập thông qua việc chơi một trò chơi nào đó.
- Phương pháp thảo luận nhóm: Là phương pháp nhằm giúp học sinh tham
gia một cách chủ động, tích cực vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em
có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
- Phương pháp kể chuyện: Dạy – học Đạo đức ở lớp Một có thể bắt đầu
bằng một truyện kể đạo đức, truyện kể về cách ứng xử của nhân vật trong một
tình huống cụ thể (thường là gương tốt), để từ đó giáo viên hướng dẫn học sinh
phân tích, khái quát thành chuẩn mực hành vi đạo đức các em cần nắm và thực
hiện. Phương pháp kể chuyện rất phù hợp với học sinh lớp Một. Nó giúp cho bài
đạo đức đến với trẻ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, sống động. Hiệu quả của
phương pháp kể chuyện phụ thuộc vào chất lượng truyện và nghệ thuật kể của
giáo viên.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thuận lợi:
- Dạy – học môn Đạo đức theo phân phối chương trình mỗi tuần 1 tiết và
mỗi bài được dạy trong 2 tiết.
- Lớp tôi đang chủ nhiệm là lớp học 2 buổi/ ngày.
- Lớp học khang trang, thoáng mát, trang trí thân thiện với môi trường.
- Cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học trang bị đẹp, sinh động.
a. Giáo viên:
4
- Trong khối được sự quan tâm chỉ đạo, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà
trường. Tất cả giáo viên trong khối đã được tập huấn về Chuẩn kiến thức kỹ
năng; Rèn kỹ năng sống; Giáo dục Bảo vệ môi trường.
- Đa số giáo viên nhiệt tình trong công tác giảng dạy, yêu nghề, có năng
lực sư phạm. Luôn khắc phục mọi khó khăn, học hỏi kinh nghiệm, trau dồi kiến
thức để phục vụ cho công tác dạy – học đạt kết quả tốt.
b. Học sinh:
- Đa số học sinh chăm ngoan, biết vâng lời, lễ phép với thầy cô giáo và
người lớn tuổi. Học sinh có ý thức trong học tập, biết đoàn kết giúp đỡ bạn bè.
- Đa số gia đình có quan tâm đến việc học của con em, tạo điều kiện mua
sắm đầy đủ đồ dùng học tập.
- Được sự quan tâm, hỗ trợ kịp thời từ quỹ của Ban chấp hành Cha mẹ học
sinh và các Ban ngành trong trường với những em có hoàn cảnh gia đình khó
khăn, hộ nghèo, mồ côi…
- Học sinh lớp 1 rất thích học môn Đạo đức, đây là môn học gắn với thực
tế, sử dụng nhiều ví dụ thực tế để liên hệ trong học tập. Các em rất thích hoạt
động của môn học như sắm vai, trò chơi, kể chuyện, múa hát, quan sát tranh ...
2.2. Khó khăn:
a. Giáo viên:
- Ở tiết đạo đức do sử dụng nhiều hoạt động như sắm vai, trò chơi, thảo
luận, … nên giáo viên rất ngại vì sợ mất nhiều thời gian. Do vậy, học sinh phải
đóng vai trò thụ động hoặc áp đặt khi lĩnh hội kiến thức, dẫn đến hiệu quả tiết
đạo đức chưa cao.
b. Học sinh:
- Địa bàn học sinh nằm rải rác ở các khu phố, các phường, xã lân cận. Đời
sống kinh tế của một số gia đình học sinh còn gặp nhiều khó khăn, phần nào ảnh
hưởng đến việc học tập của các em.
- Một số em tiếp thu bài còn chậm, còn thụ động, chưa tập trung chú ý học
tập, chưa mạnh dạn phát biểu xây dựng bài. Một số học sinh gia đình chưa quan
tâm, nhắc nhở không kịp thời còn khoán trắng cho nhà trường.
- Bước vào lớp Một, các em phải làm quen với môi trường mới: môi
trường học tập. Các em còn bỡ ngỡ với những kiến thức mới lạ của nhiều môn
học khác nhau, trong đó có môn Đạo đức. Học sinh lớp Một thì: Chơi vừa học –
Học vừa chơi.
- Với các cách học như: Thảo luận nhóm, trình bày kết quả thảo luận của
mình, tự đặt câu hỏi, trả lời câu hỏi của bạn,... Tất cả hoàn toàn mới lạ đối với
các em.
- Hơn nữa đa số cha mẹ học sinh thường chú ý cho con em mình tập trung
vào các môn Toán, Tiếng Việt ít để ý đến môn Đạo đức.
2.3. Nguyên nhân
a/ Về phía giáo viên:
- Mặc dù đã đổi mới phương pháp dạy học nhưng đa số giáo viên chưa
chú trọng đến các tư liệu dạy học như sưu tầm tranh ảnh, các bài thơ, bài hát,
câu ca dao, tục ngữ…… có liên quan đến các chuẩn mực đạo đức mà các sẽ học
trong chương trình. Các tư liệu ấy sẽ giúp học sinh sau khi học kiến thức mới sẽ
5
dễ nhớ, dễ ghi nhận, có như vậy các em mới có ý thức cao trong việc được rèn
luyện chuyển hóa thành tự rèn luyện các phẩm chất đạo đức của bản thân.
b/ Về phía học sinh:
- Học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 1 nói riêng, ghi nhớ máy
móc rất tốt, đó là sự ghi nhớ dựa chủ yếu vào học thuộc tài liệu cần ghi nhớ mà
không cần có sự cải biến làm thay đổi tài liệu đó.Với kiểu ghi nhớ này nếu
không được giáo viên nhắc lại thường xuyên thì các em sẽ chóng quên và sẽ
không nhớ gì nữa trong thời gian vài tuần sau.
Sự chú ý của các em kém bền vững dẫn đến việc tiếp thu kiến thức mới sẽ
không được liên tục.
3. Các biện pháp đã sử dụng để nâng cao chất lượng môn Đạo đức ở lớp 1B.
3.1. Chuẩn bị tốt các tư liệu, phương tiện hỗ trợ cho bài học:
Sự chuẩn bị chu đáo và triển khai có hiệu quả, đúng lúc, kịp thời các
phương tiện dạy học như sưu tầm tranh ảnh, các bài thơ, bài hát, câu ca dao, tục
ngữ …… cũng đã góp phần rất lớn trong sự thành công của tiết học.
Ví dụ:
+ Khi dạy bài “Gọn gàng, sạch sẽ” trước khi vào tiết học giáo viên có
thể hát hoặc cho HS nghe, hoặc GV chuẩn bị băng đĩa cho HS nghe bài hát:
“Rửa mặt như mèo” hoặc bài “Mèo con ra vại nước”. Sau khi giáo viên cho các
em nhận biết “thế nào là gọn gàng sạch sẽ” qua các hình ảnh trong bài tập 1.
Giáo viên sẽ phải liên hệ thực tế bằng câu hỏi “Em cảm thấy như thế nào khi
được mặc bộ quần áo sạch sẽ, gọn gàng, vì sao?”. Trả lời được câu hỏi này học
sinh sẽ thấy thật là hạnh phúc khi được mọi người ngắm nhìn mình và khen ngợi
(các em đã hiểu được ích lợi của việc ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ). Từ đó các em
sẽ có ý thức ăn mặc sạch sẽ gọn gàng để làm đẹp cho bản thân và cho xã hội.
Giáo viên có thể sưu tầm nội dung bài đồng dao “Xỉa cá mè” (Xỉa cá mè
đè cá chép, Tay nào đẹp thì đi bẻ ngô,Tay nào to thì đi dỡ củ,Tay nào nhỏ thì hái
đậu đen,Tay lọ lem ê xấu xấu xấu, Mau đi về ngay rửa tay cho sạch.” để đưa vào
phần củng cố cuối bài học, với bài đồng dao này các em sẽ hiểu được khi chưa
sạch sẽ ta có thể tắm, rửa, quần áo chưa sạch ta có thể giặt cho sạch. Bài đồng
dao có vần điệu dễ thuộc, dễ nhớ nên các em nhớ rất nhanh và GV khuyến khích
các em ghi nhớ để sử dụng thành trò chơi hằng ngày.
+ Khi dạy bài: “Đi học đều và đúng giờ” ngoài việc sử dụng các tranh ảnh
trong SGK phóng to, GV cần sưu tầm thêm các tư liệu để giờ dạy đạt hiệu quả
như: điều 28 công ước QT về QTE và bài hát “ Tới lớp, tới trường ” (Hoàng
Vân). Trước khi vào bài học, GV cho HS nghe bài hát: “ Tới lớp, tới trường”.
Sau khi nghe bài hát xong, GV hỏi HS: Em có thích đi học không? Em có yêu
ngôi trường của mình không? Vì sao? Sau đó GV giới thiệu vào bài học.
Phần tự liên hệ: Giáo viên hỏi: Bạn nào ở lớp mình luôn đi học đúng giờ?
- Học sinh suy nghĩ, trả lời.
- Em cần làm gì để đi học đúng giờ ?
Sau khi HS trả lời, Giáo viên kết luận:
Được đi học là quyền lợi của trẻ em. Đi học đúng giờ giúp em thực hiện
tốt quyền được đi học của mình. Để đi học đúng giờ, cần phải:
+ Chuẩn bị đầy đủ quần áo, sách vở từ tối hôm trước, không thức khuya.
6
+ Để đồng hồ báo thức hoặc nhờ bố mẹ gọi dậy cho đúng giờ.
+ Tập thói quen dậy sớm, đúng giờ.
3.2. Sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy – học môn Đạo đức ở lớp 1:
Mỗi phương pháp và hình thức dạy – học môn Đạo đức đều có mặt mạnh
và mặt hạn chế riêng, phù hợp với từng loại bài riêng, từng khâu riêng của tiết
học. Vì vậy không quá lạm dụng hoặc phủ định hoàn toàn một phương pháp và
hình thức dạy học nào. Điều quan trọng là căn cứ vào nội dung, tính chất từng
bài; căn cứ vào trình độ học sinh và năng lực, sở trường của giáo viên; căn cứ
vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của từng đối tượng học sinh mà lựa chọn, sử
dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách hợp lý và đúng
mức.
* Ví dụ: Khi dạy bài 4, Gia đình em (Tiết 1) tôi tiến hành như sau:
Hoạt động 1: Thảo luận nhóm 4. (Thời gian 2 phút)
Kể về gia đình em (* RKNS: Kĩ năng giới thiệu về những người thân
trong gia đình; Kĩ năng giao tiếp, ứng xử với những người trong gia đình)
Bước 1: Giáo viên chia học sinh thành từng nhóm, mỗi nhóm 2 em và các
em mang tranh của gia đình mình giới thiệu với các bạn trong nhóm theo câu hỏi
gợi ý sau:
+ Gia đình em có những ai?
+ Mọi người trong gia đình đối xử với nhau như thế nào?
Một số ảnh về gia đình của học sinh lớp 1B
Bước 2: Học sinh tự kể về gia đình mình trong nhóm, một vài học sinh kể
trước lớp.
Giáo viên chốt lại ý chính: Qua phần giới thiệu của các bạn về gia đình
mình chúng ta thấy có gia đình có ông bà, bố mẹ và các con; có gia đình có bố
mẹ và các con. Để gia đình mình được hòa thuận, đầm ấm, hạnh phúc thì mỗi
người chúng ta phải yêu gia đình của mình và biết yêu thương, quý trọng và biết
chia sẻ với mọi người trong gia đình.
Hoạt động 2: Cho học sinh xem tranh gia đình 1, 2 con ; Pháp lệnh dân số (Điều
10/ 2003).
( GDBVMT: Gia đình chỉ có hai con góp phần hạn chế gia tăng dân số, góp
phần cùng cộng đồng BVMT).
Hoạt động 3: Thảo luận nhóm 2: (Thời gian 5 phút)
Cho học sinh xem tranh và kể lại nội dung tranh:
Bước 1: Chia học sinh thành các nhóm và giao nhiệm vụ cho từng nhóm.
Thảo luận nội dung từng tranh theo nhóm đôi, thời gian 3 phút.
* Trong tranh có những ai ?
* Họ đang làm gì ? Ở đâu ?
7
Bước 2: Đại diện nhóm kể lại nội dung tranh, lớp nhận xét, bổ sung. Giáo
viên chốt lại nội dung từng tranh.
Bước 3: Đàm thoại theo từng câu hỏi
Giáo viên rút ra kết luận: Trẻ em có quyền có gia đình. Chúng ta cần cảm thông,
chia sẻ với những bạn thiệt thòi không được sống cùng gia đình.Trẻ em có bổn
phận phải yêu quý gia đình, kính trọng, lễ phép, vâng lời ông bà, cha mẹ.
Cuối tiết học, giáo viên cho học sinh nhắc lại bài học, nêu câu hỏi chốt lại
nội dung bài. Nhận xét và dặn dò.
Dạy học các bài Đạo đức có thể được tiến hành với các phương pháp khác
nhau và linh hoạt, tùy thuộc vào nội dung của bài, dạng bài và hình thức tổ chức
dạy học. Tuy nhiên các bài Đạo đức ở lớp 1 đều có thể bắt đầu từ việc tổ chức
cho học sinh quan sát tranh, ảnh, trò chơi, thảo luận nhóm phân tích hành vi,
việc làm của các nhân vật trong đó.
Để nâng cao hiệu quả giờ dạy tốt Đạo đức lớp 1, đòi hỏi người thầy phải
nắm được chuẩn kiến thức kỹ năng của môn học, bài học, biết lựa chọn sử dụng
các phương pháp trong một tiết dạy nói chung và một tiết dạy Đạo đức nói
riêng, biết dạy theo chuẩn kiến thức cho từng đối tượng học sinh, lồng ghép
chương trình như Rèn kỹ năng sống; Giáo dục bảo vệ môi trường là rất cần thiết.
Sự kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học, lấy phương pháp này bổ trợ cho
phương pháp kia trong giảng dạy được coi như một nghệ thuật mà người thầy
cần đạt tới.
Muốn cho học sinh Tiểu học nói chung cụ thể là học sinh lớp 1B tôi đang
chủ nhiệm nói riêng học tốt được môn Đạo đức. Giáo viên không chỉ truyền đạt
kiến thức bài giảng theo các tài liệu đã có sẵn trong Sách giáo khoa, trong các
sách hướng dẫn thiết kế bài giảng một cách rập khuôn, máy móc, làm cho học
sinh học tập thụ động. Nếu chỉ dạy như thế thì tiết dạy sẽ không đạt yêu cầu theo
phương pháp mới đã đề ra với phương châm “Lấy học sinh làm trung tâm”
trong đó học sinh tích cực tham gia giải quyết các tình huống có vấn đề bằng
mối quan hệ: Giữa thầy với trò và trò với trò qua các hình thức dạy học. Là giáo
viên chủ nhiệm lớp 1, tôi luôn tham khảo tìm kiếm những phương pháp dạy học
tích cực, chủ động và sáng tạo phù hợp với thực tế để áp dụng vào tiết dạy của
mình, tạo cho tiết dạy – học môn Đạo đức một không khí thoải mái qua các hình
thức như: Kể chuyện, đóng vai, chơi trò chơi, thảo luận, hỏi đáp,… Với nội
dung dạy học mới mẻ, hấp dẫn, linh hoạt phù hợp với lứa tuổi học sinh không
trùng lặp, đơn điệu, áp đặt thì học sinh sẽ tiếp thu bài tốt, giờ học đạt hiệu quả
cao hơn. Nếu chúng ta áp dụng được các phương pháp dạy học một cách thường
xuyên, khoa học chắc chắn chất lượng dạy – học môn Đạo đức sẽ ngày một
nâng cao. Sau đây là một số phương pháp chủ yếu:
a. Phương pháp động não:
Đây là phương pháp giúp cho học sinh, trong một thời gian ngắn, nảy sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó.
- Giáo viên cần nêu vấn đề được tìm hiểu trước lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát biểu, đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt. Đồng
thời trong quá trình các em đưa ra ý kiến cần tìm hiểu bằng những câu hỏi tạo
8
cho các em được giao lưu với nhau, cùng làm sáng tỏ những vấn đề chưa rõ
ràng.
- Giáo viên liệt kê tất cả các ý kiến mà học sinh phát biểu sau đó phân
loại, thảo luận sâu từng ý để làm rõ những ý kiến chưa rõ ràng. Cuối cùng là
tổng hợp ý kiến của các em và hỏi xem các em cần thắc mắc hay bổ sung gì
thêm không.
- Các ý kiến phát biểu nên ngắn gọn, bằng một từ hay một câu thật ngắn.
Đặc biệt tất cả mọi ý kiến đều cần được giáo viên hoan nghênh, chấp nhận mà
không cần phê phán, nhận định đúng, sai.
- Phương pháp động não có thể dùng để lý giải bất kì một vấn đề đạo đức
nào, song đặc biệt phù hợp với các vấn đề học sinh đã có kinh nghiệm ứng xử.
9
b. Phương pháp đóng vai:
- Để các chuẩn mực hành vi đạo đức trở thành thói quen tốt trong cuộc
sống hàng ngày đòi hỏi học sinh cần phải luyện tập thường xuyên. Không phải
ngày một, ngày hai mà thói quen ấy được hình thành. Cụ thể là phải được luyện
tập trong giờ thực hành môn Đạo đức. Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học
sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Qua
tiết thực hành đóng vai giúp các em hình thành được thao tác hành động phù
hợp với mẫu hành vi đạo đức đã học.
- Qua sử dụng phương pháp này học sinh được thực hành những kĩ năng
ứng xử và bày tỏ thái độ trong những tình huống giả định, gây sự chú ý và hứng
thú cho học sinh khi đóng vai tạo điều kiện nảy sinh óc sáng tạo của học sinh.
Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của các em theo chuẩn mực hành vi đạo
đức. Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm thông qua
các vai diễn.
- Để áp dụng phương pháp đóng vai vào trong bài giảng một cách tự nhiên
và đạt hiệu quả cao:
+ Trước tiên giáo viên phải chia nhóm, giao nhiệm vụ đóng vai cho từng
nhóm và quy định thời gian chuẩn bị.
+ Giáo viên đưa tình huống phải phù hợp với chủ đề nội dung bài học, với
trình độ học sinh và điều kiện, hoàn cảnh lớp học.
+ Tình huống mở, gần gũi với đời sống thực tế hàng ngày. Không cho
trước kịch bản và lời thoại.
+ Yêu cầu học sinh phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập đóng vai để
không lúng túng và lạc đề. Cố gắng nhập mình với vai diễn một cách tự nhiên,
không gò bó, phải biết phối hợp tốt các vai “diễn” khi thực hiện. Đặc biệt nên
khích lệ cả những học sinh còn nhút nhát chưa mạnh dạn cùng tham gia.
+ Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai.
+ Các nhóm lên thực hiện vai diễn.
+ Cả lớp thảo luận nhận xét sau khi đóng vai. Đây là bước quan trọng, có
ý nghĩa thiết thực trong việc sử dụng phương pháp đóng vai:
* Yêu cầu các em học sinh tham gia đóng vai nêu cảm xúc khi thể hiện vai
“diễn” của mình trước lớp:
+ Cách ứng xử của các vai diễn phù hợp hay chưa? Chưa phù hợp ở chỗ
nào?
+ Cảm xúc của các em khi thực hiện cách ứng xử? Và khi nhận được cách
ứng xử ( Đúng hoặc Sai)?
* Yêu cầu các học sinh khác nhận xét cách ứng xử và sự nhập vai của các
vai “diễn”. Ở bước này giáo viên tạo điều kiện để học sinh đưa ra nhiều cách
ứng xử khác nhau:
+ Thực tế nếu là các em trong trường hợp đó em thể hiện cách ứng xử như
thế nào?
+ Giáo viên chốt lại định hướng cho học sinh về cách ứng xử tích cực, cần
thiết trong tình huống.
- Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp đóng vai:
10
+ Đối với học sinh lớp 1, tình huống đóng vai phải phù hợp với chủ đề
giáo dục của bài, vừa sức đối với các em.
+ Chỉ tổ chức đóng vai khi cần thiết, có tác dụng giáo dục thiết thực trong
đời sống hàng ngày của các em.
+ Khi tổ chức đóng vai nên hóa trang, đạo cụ đơn giản sẵn có nhằm tăng
tính hấp dẫn, tạo điều kiện cho học sinh nhập vai dễ dàng.
Ví dụ:
Bài 9:
LỄ PHÉP VÂNG LỜI THẦY CÔ GIÁO
- Giáo viên chia nhóm và yêu cầu mỗi nhóm học sinh đóng vai theo một
tình huống của một bài tập 1.
Em hãy cùng các bạn trong nhóm đóng vai các tình huống sau:
+ Tình huống 1: Em gặp thầy giáo, cô giáo trong trường.
+ Tình huống 2: Em đưa sách vở cho thầy giáo cô giáo.
- Các nhóm chuẩn bị đóng vai trước lớp.
- Sau mỗi tình huống các nhóm lên đóng vai, cả lớp thảo luận, nhận xét:
Hình ảnh học sinh đóng vai xử lí tình huống
* Cho các học sinh tham gia đóng vai nêu cảm xúc của mình khi thể hiện
vai diễn:
Tình huống 1:
+ Khi chào hỏi thầy, cô xong em có cảm giác gì?
+ Em cảm thấy thế nào khi được thầy giáo, cô giáo khen em là học sinh lễ
phép?
Tình huống 2:
+ Việc làm của em trong tình huống này là đúng hay sai?
+ Em nên khuyên các bạn mình điều gì qua tình huống em vừa diễn?
* Yêu cầu các học sinh khác nhận xét các nhập vai ứng xử của bạn trong
nhóm, em thấy:
+ Các nhóm đóng vai cả hai tình huống đã thể hiện được sự lễ phép và
vâng lời thầy giáo, cô giáo chưa?
+ Các em nên làm gì khi gặp thầy giáo, cô giáo?
+ Khi đưa hoặc nhận sách vở từ tay thầy giáo, cô giáo em phải làm gì?
Giáo viên kết luận:
+ Khi gặp thầy giáo, cô giáo các em cần chào hỏi lễ phép.
+ Khi đưa hoặc nhận vật gì từ thầy giáo, cô giáo các em cần đưa bằng hai
tay kèm theo lời nói phù hợp.
Qua bài học giúp các em hình thành được kỹ năng sống trong hành vi đạo
đức của mình đó là kĩ năng giao tiếp, cách ứng xử lễ phép với thầy cô giáo. Có
thể mở rộng hơn trong phạm vi nhà trường các em ứng dụng vào trong đời sống
11
hàng ngày. Khi gặp người lớn tuổi, người quen với bố mẹ cũng cần phải chào
hỏi lễ phép. Đưa hoặc nhận vật gì từ người lớn cũng cần đưa hai tay…. Như thế
là các em đã thực hiện tốt chuẩn mực hành vi đạo đức thông qua bài học bằng
phương pháp đóng vai.
Hình ảnh học sinh đóng vai lễ phép với người lớn tuổi
c. Phương pháp trò chơi:
- Trò chơi là phương pháp giúp học sinh phát hiện và chiếm lĩnh những
nội dung học tập thông qua việc chơi trò chơi.
- Trò chơi học tập nói chung và trò chơi trong dạy – học môn Đạo đức nói
riêng có tác dụng giúp học sinh biết vận dụng kiến thức đã học phát triển tư duy,
tạo thói quen tập trung, tính độc lập, ham hiểu biết và khả năng suy luận. Khi
chơi các em thay đổi đội hình, các em được khởi động tự do thoải mái trong giới
hạn cho phép; chống mệt mỏi, tăng cường khả năng thực hành,… Được thử
nghiệm, tưởng tượng, suy ngẫm, lập luận để trò chơi đạt kết quả nhanh nhất và
chính xác nhất mà không nghĩ là mình đang học. Vì cùng với học, chơi là nhu
cầu không thể thiếu được của học sinh tiểu học. Dù không phải là hoạt động chủ
đạo, song vui chơi vẫn giữ một vai trò rất quan trọng trong hoạt động sống của
các em. Qua trò chơi trẻ không những phát triển về mặt trí tuệ, thể chất, thẩm
mỹ mà còn được hình thành nhiều phẩm chất và hành vi đạo đức.
- Lý luận thực tiễn đã chứng tỏ rằng: Nếu biết tổ chức cho trẻ vui chơi một
cách hợp lý, đúng đắn thì đều mang lại hiệu quả giáo dục toàn diện.
+ Qua trò chơi, học sinh được luyện tập những kĩ năng, những thao tác
hành vi đạo đức, được thể hiện hành vi một cách đúng đắn, tự nhiên, rèn khả
năng biết lựa chọn cho mình cách ứng xử phù hợp trong tình huống. Các em
được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng nhận xét, biết đanh
giá hành vi của người khác là phù hợp hay không phù hợp với chuẩn mực đạo
đức xã hội.
+ Qua trò chơi, học sinh có cơ hội thể nghiệm những chuẩn mực hành vi.
Nhờ vậy sẽ hình thành được ở các em niềm tin về những chuẩn mực hành vi đã
học, tạo động cơ bên trong cho hành vi ứng xử trong cuộc sống thực tế.
+ Qua trò chơi tạo cơ hội để học sinh tham gia vào các mối quan hệ giao
tiếp làm tăng cường khả năng giao tiếp giữa học sinh với học sinh và giữa học
sinh với giáo viên một cách tự nhiên và dễ dàng.
- Dạy – học môn Đạo đức quan trọng chủ yếu là giáo dục tư tưởng, ý thức,
hành vi phẩm chất đạo đức cho học sinh. Thực tế trong giảng dạy trò chơi là
phương pháp dạy học được sử dụng nhiều và rất đa dạng. Dù với hình thức hay
phương pháp nào thì đích cuối cùng cũng là giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và
cũng cố khắc sâu các tri thức đã học biến nó thành những chuẩn hành vi đạo đức
cho riêng mình.
- Trò chơi có những quy định luật lệ nhất định. “Trò chơi học tập” mang
tính thi đua và đòi hỏi sự tự giác rất cao của học sinh, có như thế mới đem lại kết
quả cao trong học tập. Nó giáo dục cho các em tính thật thà, biết đánh giá chính
12
xác kết quả học tập của mình và bạn. Khi chơi các em thể hiện được tính trung
thực của cá nhân.
- Một số yêu cầu cần đảm bảo khi áp dụng phương pháp trò chơi:
+ Ở học sinh lớp 1 cần tổ chức những trò chơi nhỏ, đơn giản, phù hợp với
tình hình lớp học, gây hứng thú cho học sinh. Trò chơi phải dễ tổ chức và dễ
thực hiện, phải phù hợp với chủ đề Đạo đức và đảm bảo tính giáo dục, nhằm
mục đích củng cố hoặc khắc sâu nội dung bài học. Phù hợp với đặc điểm và
trình độ học sinh, với thời gian, hoàn cảnh điều kiện thực tế của lớp.
+ Trò chơi chuẩn bị chu đáo, hình thức tổ chức phải đa dạng phong phú.
Thay đổi nội dung trò chơi để học sinh không bị nhàm chán.
+ Cần quy định rõ thời gian chơi (không quá 5 phút).
+ Luật chơi phải giới thiệu rõ ràng: nội dung trò chơi, cách tổ chức, cách
tính điểm. (Nếu cần giáo viên có thể vừa hướng dẫn, vừa thực hiện mẫu).
+ Trò chơi phải đảm bảo huy động nhiều học sinh tham gia, mang tính tập
thể. Học sinh phải nắm được quy tắc chơi và tôn trọng luật chơi.
+ Khi tổ chức trò chơi thi đua tránh để học sinh đặt nặng vấn đề hơn thua
trong khi chơi.
+ Tạo điều kiện để học sinh tham gia, tổ chức, điều khiển toàn bộ các
khâu của trò chơi (Chuẩn bị, tiến hành, đánh giá sau trò chơi).
+ Địa điểm chơi phải đảm bảo an toàn cho học sinh trong khi tham gia trò
chơi.
+ Có thể đưa ra các tiêu chí cho nhóm thắng trong trò chơi, nhằm động
viên khuyến khích các em khi tham gia chơi. Mặt khác cũng cần khích lệ động
viên những nhóm chưa hoàn thành nhiệm vụ tránh cho các em sự lúng túng, mất
tự tin khi chơi.
Ví dụ:
Bài 5:
LỄ PHÉP NHƯỜNG NHỊN EM NHỎ (Tiết 2)
Bài tập 3: Hãy nối mỗi tranh dưới đây với NÊN hoặc KHÔNG NÊN cho
phù hợp: Với bài tập này tôi áp dụng cho học sinh phương pháp trò chơi “Tiếp
sức”
Giáo viên treo tranh cho học sinh quan sát.
- Phổ biến luật chơi:
+ Chia làm 3 nhóm, 2 nhóm cử đại diện 5 em xếp thành 2 hàng dọc.
Nhóm còn lại làm cổ động viên và ban giám khảo.
+ Khi nghe hiệu lệnh bắt đầu, 2 em đầu 2 nhóm lên nối hình vẽ với việc
làm tương ứng, sau đó chuyền bút cho bạn thứ 2 cứ như thế cho đến bạn cuối
cùng. Mỗi học sinh chỉ được phép nối 1 hình tương ứng. Nhóm nào thực hiện
nhanh và chính xác nhóm đó thắng cuộc.
+ Nhóm thứ 3 nhận xét kết quả của 2 nhóm vừa thi đua với nhau.
+ Qua trò chơi giáo viên cho học sinh giải thích vì sao các em chọn việc
làm nào nên và việc làm nào không nên.
+ Giáo viên kết luận:
13
* Việc nên làm: tranh 2, 3, 5
* Việc không nên làm: tranh 1,4
+ Qua trò chơi theo nội dung bài tập trên, giáo viên có thể cho học sinh tự
liên hệ kể các tấm gương về lễ phép và nhường nhịn em nhỏ trước lớp.
- Trò chơi “Tiếp sức” có thể áp dụng với nhiều bài tùy theo sự linh động
của giáo viên theo kiến thức của mỗi bài. Đây là trò chơi mang tính thi đua.
- Ngoài ra còn dạng trò chơi không mang hình thức thi đua mà qua trò
chơi học sinh thể hiện được hành vi, chuẩn mực một cách đúng đắn để vận dụng
vào thực tế cuộc sống.
Ví dụ:
Bài 1:
EM LÀ HỌC SINH LỚP 1
Bài tập 1: Trò chơi: “Giới thiệu tên”
- Giáo viên cho 5 học sinh lên chơi giới thiệu về tên của mình với các bạn.
Các em cùng hô 1, 2, 3 ai ra thì được giới thiệu tên mình với các bạn trước. Sau
khi tự giới thiệu xong học sinh được tự chỉ định một bạn khác tiếp tục tự giới
thiệu tên mình và tên bạn vừa chọn mình. Cứ như thế lần lượt cho đến khi tất cả
các em đều được giới thiệu tên.
Ví dụ: HS thứ 1 – Xin chào các bạn! Mình tên là Phương Nguyên, rất vui
khi được làm quen với các bạn. Mời bạn đứng đối diện của mình tiếp tục giới
thiệu.
HS thứ 2 – Chào các bạn! Mình tên là Xuân Dũng và đây là bạn Phương
Nguyên, chúng mình rất vui khi làm quen với các bạn. Trò chơi tiếp tục đến HS
thứ 5.
- Giáo viên có thể tổ chức cho các em chơi theo nhóm cùng một lúc.
Qua trò chơi giúp học sinh biết tự giới thiệu tên của mình, nhớ tên các bạn
trong lớp và biết được trẻ em có quyền có họ tên.
- Giáo viên cho các em thảo luận sau khi thực hiện xong trò chơi:
+ Trò chơi giúp em biết được điều gì?
+ Em có thấy sung sướng, tự hào khi tự giới thiệu tên với các bạn, khi
nghe các bạn giới thiệu tên mình hay không?
+ Em hãy kể tên của một vài bạn trong nhóm mà em vừa biết?
- Kĩ năng sống cơ bản được giáo dục qua trò chơi:
+ Kĩ năng tự giới thiệu về bản thân.
+ Kĩ năng thể hiện được sự tự tin trước đông người.
+ Kĩ năng lắng nghe tích cực.
14
d. Phương pháp thảo luận nhóm:
- Thảo luận nhóm là phương pháp nhằm giúp học sinh tham gia một cách
chủ động, tích cực vào quá trình học tập tạo điều kiện cho các em có thể chia sẻ
kinh nghiệm ý kiến hay để giải quyết một vấn đề nào đó.
- Khi sử dụng phương pháp này giáo viên hướng dẫn các em cách làm
nhóm trưởng, cách tổ chức hoạt động của nhóm, cách phản hồi kết quả các hoạt
động của nhóm. Thảo luận nhóm được sử dụng khi cần khuyến khích sự tham
gia suy nghĩ và phát biểu tích cực của mọi thành viên.
Ví dụ:
Bài 10:
EM VÀ CÁC BẠN
- Giáo viên cho học sinh quan sát tranh, tổ chức chia nhóm cho học sinh
thảo luận nhóm với nội dung các câu hỏi:
+ Các bạn nhỏ trong mỗi tranh đang làm gì?
+ Chơi một mình vui hơn hay có bạn cùng chơi cùng học vui hơn?
+ Muốn có nhiều bạn cùng học, cùng chơi em cần phải đối xử với bạn như
thế nào khi học, khi chơi?
- Giáo viên chia lớp thành nhóm từ 2 – 4 học sinh. Với nhóm 4, giáo viên
có thể chia nhóm theo biểu tượng. Chẳng hạn biểu tượng các con vật quen
thuộc, yêu thích: Thỏ trắng, Sóc nâu, Cún con, Mèo con … hay các loài hoa: hoa
hồng, hoa lan, hoa sen…, trên cơ sở hình thành các nhóm và xác định cụ thể vị
trí của các nhóm trong lớp. Mỗi nhóm tự cử một nhóm trưởng, sau đó mời các
em nhóm trưởng lên để hướng dẫn các em cách điều hành nhóm hoạt động, giáo
viên có thể chỉ dẫn, nhóm trưởng yêu cầu từng học sinh trong nhóm nêu ý kiến
theo nội dung bài học.
- Khi các nhóm đang thảo luận, giáo viên cần quan sát, phát hiện các
nhóm khó khăn để hỗ trợ. Trong mỗi nhóm, cần xác định các em còn nhút nhát,
chưa mạnh dạn để có biện pháp giúp đỡ kịp thời.
- Phản hồi nhóm: Đây là bước quan trọng trong thảo luận nhóm. Có nhiều
hình thức phản hồi nhóm: phản hồi bằng lời, phản hồi bằng tranh, phản hồi
thông qua đóng tiểu phẩm… Điều quan trọng là thông qua phản hồi, rèn cho học
sinh khả năng biết trình bày một vấn đề, rèn tính tự tin, bình tĩnh khi nói trước
đông người trên cơ sở đó hình thành cho các em một số kĩ năng sống cần thiết.
Như ở ví dụ trên qua sử dụng phương pháp thảo luận rèn được cho học sinh kĩ
năng: Thể hiện sự tự tin, tự trọng trong quan hệ bạn bè, rèn được kĩ năng giao
tiếp, ứng xử với bạn bè, thể hiện sự cảm thông với bạn bè.
Hình ảnh học sinh thảo luận nhóm
Khi tổ chức áp dụng phương pháp thảo luận nhóm trong môn Đạo đức
lớp 1 cần chú ý:
15
+ Hoạt động thảo luận nhóm có thể được dự kiến từ khâu giới thiệu giáo
án, cũng có thể tổ chức bất kì khi có tình huống vấn đề cần thảo luận chia sẻ.
+ Chỉ tổ chức thảo luận khi cần thiết, cần sự chia sẻ về một vấn đề đạo đức
nào đó mà nếu không tổ chức thảo luận nhóm thì sẽ không đạt được hiệu quả mong
muốn.
+ Đối với học sinh lớp 1, mỗi nhóm không nên quá 4 em, thời gian hoạt
động không quá 5 phút để học sinh dễ tổ chức hoạt động và phù hợp với sức
khỏe của học sinh Tiểu học.
+ Cần cho các em luân phiên làm nhóm trưởng, để em nào cũng được rèn
khả năng chỉ huy, tổ chức hoạt động tập thể. Việc trình bày kết quả có thể là
nhóm trưởng, cũng có thể lựa chọn các em khác trình bày.
+ Cần kiên trì tổ chức cho các em tham gia hoạt động nhóm. Ban đầu có
thể gặp nhiều khó khăn trong khâu tổ chức, sau một vài lần các em sẽ quen và
từng bước hình thành được thói quen học tập theo nhóm và yêu thích hoạt động
nhóm.
Trên đây là một số ví dụ đưa các phương pháp, hình thức dạy – học vào
môn Đạo đức mà tôi đã áp dụng. Nhờ đó tiết học trở nên hứng thú và đạt hiệu
quả cao. Ngoài các phương pháp nêu trên giáo viên cần luôn động viên, khuyến
khích, tuyên dương những học sinh thực hiện tốt nhiệm vụ học tập của mình.
Các phương pháp và hình thức dạy – học môn Đạo đức ở lớp 1 rất phong
phú và đa dạng. Mỗi phương pháp và hình thức đều có mặt mạnh và hạn chế
riêng, phù hợp với từng loại bài, từng bước của tiết dạy. Vì vậy khi áp dụng cần
phải linh hoạt không cứng nhắc, tùy theo tình hình của lớp học, căn cứ vào khả
năng trình độ của học sinh, năng lực sở trường của giáo viên mà lựa chọn, sử
dụng kết hợp các phương pháp và hình thức dạy học một cách hợp lý, phù hợp
với tâm sinh lý, lứa tuổi của học sinh.
Đồng thời, phải kết hợp hài hòa giữa trang bị kiến thức với bồi dưỡng tình
cảm và luyện tập, thực hành kỹ năng cho hoc sinh. Bản thân nội dung môn Đạo
đức chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kĩ năng sống như: kĩ năng giao
tiếp, ứng xử với ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè với mọi người xung quanh; kĩ
năng bày tỏ ý kiến bản thân, kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp
với lứa tuổi, kĩ năng giữ gìn vệ sinh cá nhân, kĩ năng tự phục vụ và tự quản lý
thời gian…về các vấn đề trong thực tiễn đời sống ở nhà trường, cộng đồng có
liên quan đến chuẩn mực hành vi đạo đức.
3.3. Sử dụng hiệu quả đồ dùng dạy - học
- Ngoài các phương pháp và hình thức dạy học ra thì đồ dùng dạy học là
một phương tiện không thể thiếu trong mỗi tiết dạy. Việc sử dụng đồ dùng dạy
học phải nhịp nhàng, linh hoạt, sử dụng đúng lúc, đúng chỗ để phát huy hết tác
dụng. Để sử dụng đồ dùng đạt kết quả cao, chúng ta cần phải:
+ Nắm vững ý đồ của đồ dùng.
+ Phát huy hết tác dụng của đồ dùng dạy học.
+ Đưa đồ dùng đúng lúc, đúng chỗ.
- Đồ dùng dạy học có tầm quan trọng trong sự thành công trong một tiết
dạy. Vì vậy, trước mỗi tiết dạy giáo viên phải chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng dạy
học phù hợp với từng hoạt động của từng bài.
16
- Dạy – học môn Đạo đức cho học sinh lớp 1 cần tích cực sử dụng các
phương tiện trực quan như: tranh ảnh,vật mẫu, băng hình… Có như vậy mới thu
hút hấp dẫn học sinh, tạo hứng thú trong giờ học cho các em. Cần kiên quyết
không được “dạy chay”.
3.4. Đánh giá kết quả học tập môn Đạo đức ở học sinh lớp 1 trên tất cả các
mặt: tri thức, thái độ, kĩ năng, hành vi ứng xử của các em ở gia đình, nhà
trường và cộng đồng.
Qua việc đánh giá này nhằm giúp học sinh:
+ Về nhận thức: Học sinh có những biểu hiện ban đầu về một số chuẩn
mực hành vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ
của các em với gia đình, nhà trường, cộng đồng, môi trường tự nhiên và với bản
thân mình.
+ Về kĩ năng hành vi: Từng bước hình thành kĩ năng nhận xét đánh giá
hành vi của bản thân và những người xung quanh theo chuẩn mực đã học; kĩ
năng lựa chọn và thực hiện các hành vi ứng xử phù hợp chuẩn mực trong các
quan hệ và tình huống đơn giản, cụ thể của cuộc sống.
+ Về thái độ: Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, tôn trọng
người khác,biết yêu thương; yêu cái thiện, cái tốt, cái đúng; không đồng tình với
cái ác, cái sai, cái xấu.
- Việc đánh giá kết quả học tập môn Đạo đức cho học sinh được tiến hành
2 lần/ năm vào thời điểm cuối học kì I và vào cuối năm học. Giáo viên nhận xét
dựa trên hình thức tự đánh giá của học sinh, kết hợp với đánh giá của tập thể học
sinh, của cha mẹ, của phụ trách Sao, của cộng đồng nơi ở.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
- Qua việc áp dụng đề tài này vào lớp 1B do tôi chủ nhiệm, tôi nhận thấy
đa số học sinh trong lớp rất thích học môn Đạo đức, trong giờ học các em đã tự
tin khi đóng vai, xử lí các tình huống, tham gia các trò chơi một cách nhiệt tình,
chủ động và quan trọng hơn là các em đã biết vận dụng vào thực tiễn. Qua các
tiết Đạo đức đã hình thành một số kĩ năng, hành vi đạo đức cho học sinh.
- Kết quả đánh giá về thực hiện một số kĩ năng, hành vi đạo đức của học
sinh lớp 1B năm học 2016 - 2017:
Đầu năm
Chuẩn mực,
hành vi đạo đức
Sĩ
số
Hoàn
thành
tốt
18em =
43,9%
Hoàn
thành
Giữa kì II
Cần cố
gắng
Hoàn
thành tốt
Hoàn
thành
Cần
cố
gắng
41
23em =
0
28em =
13em=
Kĩ năng giao
0
56,1%
68,3%
31,7%
tiếp, ứng xử
41 20em =
20em=
1em=
31em =
10em =
Tự tin, trách
0
48,8%
48,8%
2,4%
75,6%
24,4%
nhiệm
41 24em =
17em =
0
35em =
6em=
Đoàn kết, yêu
0
58,4%
41,5%
85,4%
14,6%
thương ; lễ phép
Nhìn vào bảng số liệu chúng ta có thể thấy rằng: Đầu năm học việc thực
hiện một số kĩ năng, hành vi đạo đức của HS lớp tôi chủ nhiệm chưa đạt kết quả
cao vì các em mới từ mẫu giáo lên, mọi thứ còn rất mới mẻ đối với các em,
17
nhiều em còn tính tự do, chưa biết kiềm chế được cảm xúc... Sau một thời gian
học tập, rèn luyện và đặc biệt thông qua môn Đạo đức các em đã có nhận thức
đúng đắn về các hành vi đạo đức, thực hiện tốt các chuẩn mực, hành vi đạo đức
đã học và biết nhắc nhở các bạn cùng thực hiện,các em đã mạnh dạn và tự tin
hơn khi phát biểu xây dựng bài hay góp ý cho bạn, biết chào hỏi lễ phép với thầy
cô giáo trong trường, luôn quan tâm giúp đỡ bạn bè, ….Chính vì vậy mà đến
thời điểm giữa học kì II, mức độ học sinh đạt hoàn thành tốt tăng lên đáng kể.
Cụ thể: - Kĩ năng giao tiếp, ứng xử tăng: 24,4%
- Tự tin, trách nhiệm tăng: 26,8%
- Đoàn kết, yêu thương, lễ phép tăng: 27%
II. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận:
- Qua những phần trình bày ở trên, có thể thấy rằng giờ lên lớp môn Đạo
đức ở bậc Tiểu học – học sinh lớp 1 có tầm quan trọng đặc biệt trong việc làm
cho học sinh hiểu biết các chuẩn mực đạo đức qua các mẫu hành vi đạo đức để
từ đó các em ứng xử đúng đắn với gia đình, xã hội, cộng đồng. Vì vậy công tác
giáo dục đạo đức cho học sinh là cái căn bản, cái gốc cho sự phát triển nhân
cách.
- Dạy – học môn Đạo đức cần kết hợp chặt chẽ với việc dạy – học các
môn học khác, với các hoạt động giáo dục khác trong và ngoài nhà trường.
- Đạo đức là môn học tưởng chừng như đơn giản, dễ dạy nhưng đối với
học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh đầu cấp ở lớp 1 lại rất khó truyền tải kiến
thức đến với các em. Vậy làm thế nào để các em có được những thói quen đạo
đức tốt, những hành vi đạo đức chuẩn mực phù hợp với lứa tuổi? Đó là cả một
quá trình rèn luyện lâu dài, thường xuyên, liên tục không ngừng. Có sự kết hợp
nhịp nhàng đồng thời cả ba môi trường giáo dục: gia đình, nhà trường và xã hội.
Dần dần những hành vi đạo đức đó trở thành thói quen của các em. Đó là sự
chuyển hóa giữa giáo dục và tự giáo dục, chuyển hóa những yêu cầu về chuẩn
mực hành vi đạo đức đã học thành hành vi và thói quen tương ứng.
- Tôi nhận thức rõ tầm quan trọng của việc dạy – học môn Đạo đức là rất
cần thiết. Chính vì thế đòi hỏi người giáo viên không chỉ giảng dạy một cách lý
thuyết mà “Mỗi thầy giáo, cô giáo là tấm gương đạo đức để học sinh noi theo”
đó cũng là một trong những phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện
– Học sinh tích cực – Giáo viên mẫu mực”.
- Để tiết dạy – học môn Đạo đức đạt hiệu quả cao:
+ Giáo viên phải nghiên cứu kĩ giáo án, bài giảng để tìm phương pháp tổ
chức tiết học một cách hợp lý, khoa học.
+ Sử dụng thiết bị đồ dùng day học phong phú, đa dạng, đưa ra đúng lúc
và khoa học.
+ Phương pháp dạy lý thuyết khác với phương pháp dạy thực hành.
+ Giáo viên phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý học sinh của lớp mình chủ
nhiệm.
+ Luôn tạo không khí trong tiết học thoải mái, nhẹ nhàng.
+ Gần gũi, thân thiện với học sinh nhất là những học sinh cá biệt, nhút
nhát.
18
- Nhờ vận dụng các phương pháp giảng dạy như trên tôi đã gây hứng thú
cho học sinh trong các giờ học môn Đạo đức thu hút học sinh vào hoạt động học
tập đạt 100% học sinh tham gia tích cực. Các em đã nắm bắt được những tri
thức sơ đẳng về các chuẩn mực đạo đức.
- Học sinh biết được cái thiện, cái ác, cái đúng, cái sai… Có những xúc
cảm đạo đức tích cực. Có những kĩ năng hành vi đơn giản.
- Một số phụ huynh cần nhận thấy rõ vai trò của gia đình trong quá trình
giáo dục con em mình, nhiệt tình chỉ bảo, quan tâm tới các em nhiều hơn,
thường xuyên giữ mối liên hệ với nhà trường, hiểu được tầm quan trọng của sự
kết hợp giữa nhà trường và gia đình.
- Trên đây là những kinh nghiệm tôi đã áp dụng giảng dạy môn Đao đức.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của bạn bè, đồng nghiệp, Hội đồng
đánh giá SKKN để tôi có thể vận dụng vào giảng dạy có hiệu quả hơn. Tôi xin
chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 04 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Lê Thị Quỳnh Huệ
19
TÀI LIỆU THAM KHẢO :
- Phương pháp dạy môn Đạo đức lớp . Nhà xuất bản giáo dục
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học ở Tiểu học. (Nhà
xuất bản giáo dục).
- Vở bài tập Đạo đức lớp 1 (Nhà xuất bản giáo dục)
- Sách giáo viên Đạo đức lớp1 (Nhà xuất bản giáo dục)
- Mạng Internet
- Tạp san giáo dục
20
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Lê Thị Quỳnh Huệ
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Đông Vệ 2
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại
(Phòng, Sở,
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
1.
Thiết kế trò chơi cho học sinh
Phòng
B
lớp 2
2.
Một số biện pháp giúp học
Phòng
C
sinh lớp 5 đổi các đơn vị đo
lường.
3.
Một số biện pháp rèn kỹ năng
Phòng
B
viết đúng và đẹp cho học sinh
lớp 1 của trường Tiểu học
Đông Vệ 2
4.
Một số biện pháp nâng cao
Phòng
B
chất lượng dạy học phân môn
học vần lớp 1
Năm học đánh
giá xếp loại
2004 - 2005
2010 - 2011
2014 – 2015
2015 - 2016
5.
...
21
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
I. Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lý luận
3
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
4
3. Các biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
6
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo
dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
19
III. Kết luận, kiến nghị
21
Tài liệu tham khảo
23
22
SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ THANH HOÁ
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢNG DẠY MÔN ĐẠO ĐỨC LỚP 1
Người thực hiện: Lê Thị Quỳnh Huệ
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Vệ 2
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Đạo đức
THANH HÓA NĂM 2017
23