Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường tiểu học hải long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.59 MB, 20 trang )

1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Mô hình dạy học VNEN đến năm học 2015-2016 đã hết dự án hỗ trợ và
đầu tư. Nhưng một số trường trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa trong đó có cả
huyện Như Thanh vẫn tiếp tục triển khai và thực hiện dạy học theo Mô hình
trường học mới VNEN. Việc áp dụng mô hình trường học mới là một bước
đột phá trong việc đổi mới, cải cách giáo dục, hy vọng mở ra cho nền giáo dục
Việt Nam một lối đi đúng hướng để cùng hòa nhập với nền giáo dục tiên tiến,
hiện đại trên thế giới, đáp ứng với sự phát triển chung của xã hội trong tương
lai. Có thể nói, mô hình này đã trở thành yêu cầu cấp thiết của toàn xã hội, đòi
hỏi sự chung tay của các cấp, các ngành và các tổ chức xã hội.
Trường Tiểu học Hải Long đã áp dụng Mô hình trường học mới bước
đầu đã đạt được một số kết quả đáng kể. Đối với bản thân tôi cũng tham gia
thực hiện dạy học theo mô hình này gần 5 năm nên đã quen với việc đổi mới
phương pháp dạy học, tổ chức lớp học theo mô hình trường học mới VNEN.
Trên thực tế việc tổ chức thực hiện bản thân tôi nhận thấy để công tác
dạy học theo đúng định hướng đổi mới mang lại hiệu quả thì vai trò của người
giáo viên chủ nhiệm lớp là hết sức quan trọng và cần thiết. Chính vì những lẽ
đó mà tôi đã dành khá nhiều thời gian, tâm sức cho công tác giảng dạy của
lớp mình. Xuất phát từ những lí do nêu trên tôi đã mạnh dạn lựa chọn và
nghiên cứu với nội dung sáng kiến:
“Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô
hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Long”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Xuất phát từ cách thức tổ chức lớp học cũng như việc trang trí lớp tạo
ra một môi trường học tập thân thiện, học sinh chủ động và sáng tạo trong
việc lĩnh hội kiến thức. Bản thân tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong
muốn.
Đúc kết lại những công việc đã làm của mình để suy ngẫm, để chọn lọc
và rút ra được bài học kinh nghiệm bài học thực tế cho bản thân.
Tiếp xúc chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công


trong công tác chủ nhiệm và giảng dạy của lớp.
Ghi nhận và tiếp thu những lời góp ý, nhận xét chân tình từ Ban giám
hiệu, Tổ chuyên môn nhà trường cũng như các bạn đồng nghiệp. Từ đó để tôi
1


phát huy những mặt tích cực, điều chỉnh, khắc phục những hạn chế thiếu sót
của bản thân nhằm từng bước hoàn thiện mình hơn.
Luyện phong cách làm việc năng động, sáng tạo; cố gắng học tập, tự
rèn luyện mình để theo kịp sự thay đổi của xã hội trong giai đoạn hiện nay và
sau này.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
“Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô
hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu học Hải Long”
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp thực hành.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
Phương pháp thống kê, tổng hợp, xử lí số liệu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Trên cơ sở định hướng dạy học theo Mô hình trường học mới là nơi học
sinh cùng học tập để lĩnh hội những kiến thức liên quan mật thiết đến cuộc
sống hàng ngày của các em. Vai trò của giáo viên là người tổ chức, hướng dẫn
và khích lệ các em trong việc tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức, hình thành phát
triển kĩ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ bình đẳng trong các nhóm học tập và
giữa các nhóm với nhau. Một môi trường học tập mà các bậc phụ huynh và
cộng đồng cùng tham gia tích cực vào việc chăm sóc và giáo dục con em
mình.
Bước đầu trang bị cho các em những kiến thức ban đầu cơ bản cần
thiết, phù hợp với tâm lý lứa tuổi ở bậc học tiểu học nói chung và học sinh lớp

3 nói riêng. Giúp các em biết sống và ứng xử phù hợp trong các mối quan hệ
với thầy cô giáo và bạn bè trong một tập thể lớp; giúp các em bước đầu biết
sống tích cực, chủ động, có mục đích, có kế hoạch, tự trọng, tự tin, có kỉ luật,
biết hợp tác, giản dị, tiết kiệm, gọn gàng, ngăn nắp, vệ sinh .....để trở thành
con ngoan trong gia đình, học sinh tích cực xây dựng một tập thể lớp vững
mạnh đoàn kết và hướng tới trở thành con người có ích trong xã hội.
Mô hình trường học mới VNEN chú trọng tập trung vào đổi mới sư
phạm: đổi mới phương pháp dạy, đổi mới phương pháp học, đổi mới phương
pháp đánh giá, đổi mới phương pháp tổ chức lớp học.

2


Để thực hiện tốt nhiệm vụ trên thì vai trò của người giáo viên là hết sức
quan trọng quyết định thành công của quá trình dạy học theo mô hình này.
2.2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.2.1. Thuận lợi.
Trường Tiểu học Hải Long được đóng trên địa bàn thôn Hải Thanh gần
trung tâm của xã. Đường xá đi lại tương đối thuận lợi, phần lớn học sinh trong
lớp là con em sống ở các thôn gần trường.
Sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp, các ngành và các tổ chức đoàn
thể ở địa phương. Đặc biệt là sự ủng hộ của cha mẹ học sinh là động lực giúp
cho công tác dạy học và giáo dục của nhà trường nói chung và cá nhân tôi nói
riêng mang lại nhiều thành công đáng kể.
2.2.2. Khó khăn.
Trong lớp có 100% học sinh là con em nông thôn nên ít nhiều khả năng
giao tiếp, để đáp ứng yêu cầu hoạt động tổ chức lớp học theo kiểu mới vẫn
còn hạn chế. Gần 50% học sinh là người dân tộc thiểu số, bố mẹ đi làm ăn xa
quanh năm phải ở nhà với ông bà, chú bác, thiếu hơi ấm tình thương của bố
mẹ nên cũng phần nào ảnh hưởng đến tâm lí phát triển của các em.

Việc trang trí lớp học, đồ dùng học tập theo mô hình này cũng đòi hỏi
giáo viên chủ nhiệm phải đầu tư nhiều thời gian hơn so với các lớp học bình
thường. Một bộ phận nhỏ cha mẹ học sinh còn chưa nhiệt tình ủng hộ mô hình
dạy học này, “giao khoán hoàn toàn” việc dạy học và giáo dục cho nhà
trường.
Trường thuộc vùng nông thôn, nguồn thu nhập chủ yếu của người dân
từ nông nghiệp, đời sống kinh tế xã hội tuy đã có nhiều cải thiện nhưng vẫn
chưa thoát được nghèo khó, trình độ văn hóa, nhận thức của nhân dân không
đồng đều thì việc học của học sinh nơi đây vẫn là một điều hết sức trăn trở.
2.2.3. Thực trạng của lớp chủ nhiệm.
Năm học 2016 - 2017 tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công
giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp 3B trường Tiểu học Hải Long. Lớp
học có 16 học sinh, trong đó có 10 em nam và 6 em nữ, 7 em là người dân tộc
thiểu số.
Vào đầu năm học, sau thời gian nhận lớp, tôi xây dựng kế hoạch khảo
sát, tìm hiểu tình hình học tập của học sinh.

3


*Kết quả khảo sát như sau:
Môn

Tổng
Tốt
số
Điểm
HS
9-10
dự

kiểm SL TL
tra

Hoàn thành
Điểm
7-8

Cần cố gắng

Điểm
5-6

Điểm
3-4

Điểm
1-2

SL

TL

SL

TL

SL

TL


SL

TL

Toán

16

1

6,25%

5

31,25%

7

43,75%

1

6,25%

2

12,5%

Tiếng
Việt


16

1

6,25%

4

25%

8

50%

1

6,25%

2

12,5%

Bước vào thực tế cho các nhóm hoạt động tôi quan sát thấy khoảng gần
2/3 số học sinh trong lớp làm việc chưa thực sự tích cực, các em chỉ dựa vào
nhóm trưởng và thư kí. Mặc dù các em đã được học một năm với mô hình
này.
Quá trình tham gia thảo luận trước lớp thì có khoảng 1/3 số học sinh
trong lớp mạnh dạn phát biểu, số còn lại không dám giơ tay phát biểu vì chưa
thực sự tự tin với câu trả lời hoặc ý kiến của mình đưa ra ...Có lẽ vì thế tôi

suy nghĩ và quyết định chính mình sẽ cố gắng giáo dục cho các em để các em
có thể tự tin trong giao tiếp; tích cực, chủ động trong học tập để cuối năm
hoàn thành tốt nhất kết quả học tập và rèn luyện.
Sau vài năm tiếp xúc với mô hình học tập mới VNEN, tôi nhận thấy
bản thân mình đã dần khắc phục được cách dạy học áp đặt một chiều và lối
học thụ động của học sinh. Cách thức tổ chức lớp học theo các nhóm đã tạo
điều kiện cho học sinh được trải nghiệm, khám phá lĩnh hội kiến thức mới.
Mối quan hệ tương tác giữa học sinh với giáo viên và quan hệ giữa học sinh
với nhau được phát huy tối ưu.
Quá trình dạy học theo hướng phân hóa đối tượng học sinh trong Mô
hình trường học mới diễn ra bước đầu có nhiều thuận lợi. Tiến độ hoàn thành
yêu cầu của những đối tượng học sinh hoàn thành tốt nội dung bài học trong
lớp so với các bạn khác là nhanh hơn. Do đó các em có thời gian để tìm hiểu
khám phá những yêu cầu mới cao hơn so với các bạn, thông qua những bài
tập nâng cao mà giáo viên đã chuẩn bị trong các tiết dạy cụ thể. Bên cạnh đó
nó cũng dần khơi dậy một phong trào cùng học theo con, cùng dạy cho con ở
mỗi gia đình phụ huynh học sinh ngày càng phát triển và nhân rộng.
4


Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, một số đồng chí giáo viên giảng
dạy và tổ chức lớp học còn theo khuôn mẫu, rập khuôn, thiếu sáng tạo bởi tài
liệu dạy học đã được hướng dẫn tỉ mỉ, giáo viên cứ thế mà làm theo. Bên cạnh
đó không phải học sinh nào cũng phù hợp để tham gia học mô hình này. Với
những em có khả năng tiếp thu chưa tốt hoặc tiếp thu chậm thì việc các em tự
học để theo kịp các bạn trong nhóm là khá vất vả. Khả năng tổ chức hướng
dẫn, giảng giải bài giúp bạn của các nhóm trưởng cũng như của các thành
viên trong nhóm hạn chế thì giáo viên phải tham gia trợ giúp cho những em
hoàn thành bài chậm ở các nhóm trở nên vất vả nhiều hơn.
2.2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động.

Sau mỗi năm trực tiếp tham gia và thực hiện Mô hình trường học mới,
tôi nhận thấy các yếu tố ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại của quá
trình dạy học đó là yếu tố người dạy và người học. Cái khó lớn nhất đối với
người giáo viên là phải không ngại đổi mới, mà là ngại loại bỏ thói quen dạy
theo lối giảng giải, thuyết trình. Vì những lí do đó đòi hỏi người giáo viên
phải thật sự coi trọng việc tự chủ, tự học của học sinh; biết động viên khích lệ
học sinh tự tin chiếm lĩnh tri thức mới thông qua nhóm học tập, cặp đôi hay
quá trình tự học của mỗi cá nhân.
Về phía học sinh, các em phải rèn luyện tính tự lập, tự chủ, tự tin trong
việc chiếm lĩnh tri thức mới; phải chủ động hợp tác với bạn bè, thầy cô cũng
như gia đình trong quá trình tự học, tự rèn luyện. Ngoài ra yêu cầu về cơ sở
vật chất có vai trò quan trọng không nhỏ trong mô hình dạy học này. Với cách
bố trí các nhóm học tập, các công cụ hỗ trợ trong lớp học thì đòi hỏi một
phòng học đạt chuẩn là vô cùng cần thiết, tạo điều kiện tốt cho quá trình học
tập ở lớp diễn ra thuận lợi.
Mặt khác thì yếu tố gia đình và cộng đồng cũng không kém phần quan
trọng. Ở mỗi gia đình, các bậc phụ huynh có thể hỗ trợ con em mình trong
việc ứng dụng các kiến thức được học tại trường thông qua Hoạt động ứng
dụng, hay giúp các em bổ sung, kết nối những nét phong tục tập quán của địa
phương với kiến thức học trong sách vở.
2.2.5.

Thực trạng mà sáng kiến đã đặt ra.

Qua quá trình thực hiện còn gặp những khó khăn, hạn chế cũng như
những yếu kém của công tác dạy học theo Mô hình trường học mới như đã
nêu ở trên. Tuy vậy, qua thời gian thực hiện tôi nhận thấy những thành công,
những mặt tích cực là chủ yếu. Mô hình học tập này đã giúp học sinh phát huy
tích cực tính tự học, tính sáng tạo, tính tự giác, ý thức tự quản, sự tự tin, hứng
5



thú trong học tập. Đây là phương pháp dạy học mới, giúp các em phát huy tốt
các kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng tự đánh giá lẫn nhau trong
mỗi tiết học.
Vai trò quản lý tổ chức lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh” do các
em bầu ra và đảm nhiệm, đây là một biện pháp giúp học sinh được phát huy
quyền làm chủ quá trình học tập. Học sinh còn có điều kiện tìm hiểu rõ quyền
và trách nhiệm của bản thân trong môi trường giáo dục, các em được rèn
luyện các kỹ năng lãnh đạo, kỹ năng tham gia, kỹ năng hợp tác trong các hoạt
động; đồng thời xây dựng không gian lớp học với “Góc học tập”, “Góc cộng
đồng”, “Thư viện lớp học”, “Hộp thư vui”, hòm thư “Điều em muốn nói” cũng
như trong cách trang trí lớp học để tạo ra môi trường giáo dục thân thiện, gần
gũi với các em.
Đối với bản thân tôi đã thích nghi với môi trường học tập này. Bởi đây
là phương pháp dạy học theo nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập
mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh; chuyển việc
truyền thụ kiến thức của giáo viên thành việc hướng dẫn học sinh tự học. Lớp
học do học sinh tự quản và được tổ chức theo các hình thức như làm việc theo
cặp, làm việc cá nhân và làm việc theo nhóm, trong đó hình thức học theo
nhóm là chủ yếu.
Do vậy học sinh cơ bản đã thay đổi thói quen học tập, các em tự nghiên
cứu tìm hiểu kiến thức trong bài và qua tài liệu hướng dẫn. Những kiến thức
khó, các em trao đổi với bạn trong nhóm và mạnh dạn trao đổi vướng mắc với
giáo viên. Qua đó, tạo điều kiện thuận lợi để các em phát huy tính độc lập,
chủ động tiếp thu kiến thức và hiểu sâu sắc các kiến thức trong bài học; rèn
luyện cho các em được nhiều kỹ năng sống, kỹ năng tập thể trong cách hoạt
động học theo nhóm. Môi trường học tập thoải mái, các em có hứng thú tham
gia các bài học.
Trong mỗi tiết học không tạo áp lực đối với học sinh. Các em được

hình thành thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn
để tự hoàn thiện và luôn có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành
động như thế nào, không chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ
động trong dạy và học, góp phần đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo
dục của trường.
Với việc cùng tham gia của cha mẹ học sinh có thể giúp trẻ liên hệ nội
dung học tập với thực tiễn cuộc sống. Hơn ai hết, phụ huynh học sinh, những
người sinh sống gần gũi, gắn bó mật thiết với các em và cộng đồng nơi các
6


em sinh sống chính là nguồn kiến thức, kinh nghiệm thực tế vô cùng quý báu
giúp các em liên hệ những điều học được ở trường với cuộc sống xung quanh.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
Ngay từ đầu năm học 2016 - 2017 trường chúng tôi đã vận dụng
phương pháp dạy học theo mô hình VNEN. Qua một thời gian giảng dạy tôi
đã mạnh dạn nghiên cứu sáng kiến “Một số kinh nghiệm nâng cao hiệu quả
tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở trường Tiểu
học Hải Long” với những giải pháp cụ thể như sau:
2.3.1. Giải pháp thứ nhất : Xây dựng lớp học thân thiện, nhóm tích cực.
Mỗi ngày đến trường, đến lớp là một ngày vui, bản thân các em thêm
yêu trường yêu lớp, gắn bó với ngôi nhà chung đó. Việc trang trí lớp học thân
thiện là một sự sáng tạo phù hợp với đặc điểm tâm lý học sinh nó tạo cho các
em nhận thức về cái đẹp và có ý thức gìn giữ trường lớp của mình sạch đẹp,
góp thêm cho lớp học một luồng không khí thân thiện, thoải mái, sinh động,
hăng say trong giờ học, rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh. Vì vậy, tôi đã kết
hợp với phụ huynh và học sinh để tổ chức trang trí lớp học.
* Trang trí lớp học.
Ở Mô hình trường học mới, việc trang trí lớp học không đơn thuần là để
trang trí cho đẹp mắt mà nó còn là những công cụ hỗ trợ góp phần giáo dục

học sinh những phẩm chất mới cũng như phát triển kĩ năng sống cho các em.
Bởi vậy mà việc thực hiện trang trí lớp học của lớp tôi được thực hiện và
hoàn thành một tuần trước khi bắt đầu chương trình năm học mới. Để thực
hiện có hiệu quả tôi thường huy động nhiều thành phần tham gia. Ngoài cô trò
trong lớp còn có sự góp sức, góp ý của Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và đặc
biệt là sự hỗ trợ của cộng đồng như cha mẹ hay anh chị của học sinh. Tôi
thường trao đổi với các đồng nghiệp và đặc biệt là với Hội phụ huynh học
sinh lớp để lựa chọn những công cụ phù hợp nhất với điều kiện của lớp mình.
Những công cụ mà theo tôi chúng đã được chứng minh là hữu ích cho công
tác quản lí hoạt động ở lớp, ở trường bao gồm: Hộp thư Điều em muốn nói,
Hộp thư vui, Góc sinh nhật, Bảng theo dõi sĩ số, Nội quy trường lớp, Bảng thi
đua, Góc Tiếng Việt, Góc Toán, Góc Tự nhiên- Xã hội ...
*Góc sinh nhật: Là nơi nhắc các em học sinh trong lớp nhớ đến ngày
tháng năm sinh của các bạn, giúp các em tự tạo không khí vui tươi trong lớp,
biết quan tâm đến bạn bè. Tạo điều kiện để các em biết cách tổ chức các buổi
kỉ niệm nho nhỏ, tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong lớp, tạo điều kiện

7


cho các em yêu thương, yêu quý nhau hơn, tránh được sự phân biệt điều kiện
kinh tế gia đình.
Từ những công cụ trong lớp, tôi có thể hướng dẫn các em hiểu ý nghĩa
của việc xây dựng các công cụ cũng như việc sử dụng chúng để tham gia vào
các hoạt động học tập. Thông qua đó tôi có thể phát hiện và nuôi dưỡng các
tiềm năng; giải đáp những băn khoăn, lo lắng; giúp các em phát triển niềm
đam mê, sự sáng tạo và hình thành nhân cách cùng các kĩ năng sống, kĩ năng
ứng phó với môi trường xung quanh.
*Hộp thư Điều em muốn nói: là công cụ giúp tôi nắm được những ý
kiến bày tỏ của học sinh về những điều thầm kín cần được trao đổi cùng cô.

Những ý kiến đó cụ thể như những tình cảm, cảm nhận, mong muốn, đề nghị
của các em muốn nói cùng cô, bạn bè, cha mẹ, điều kiện học tập sinh hoạt, vui
chơi,... mà các em không thể hoặc chưa dám nói trực tiếp. Từ đó tôi có những
thông tin quan trọng để hiểu học sinh của mình và quan trọng hơn là để điều
chỉnh các hoạt động dạy học cho phù hợp với từng đối tượng học sinh.
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Đổi mới về phương pháp dạy học.
Để đáp ứng yêu cầu dạy học
theo Mô hình VNEN, tôi đã thật
sự đổi mới phương pháp dạy học.
Bản thân đã chuyển đổi vai trò là
người truyền thụ kiến thức thành
vai trò là người:
+ Tổ chức lớp học.
+ Quan sát hoạt động của mỗi cá
nhân, của mỗi nhóm.
+ Hỗ trợ học sinh khi cần thiết.
+ Chốt lại những kiến trọng tâm
cơ bản nhất của bài học.
( Ảnh: Giáo viên hỗ trợ học sinh)
+ Đánh giá quá trình và kết quả học tập của học sinh.
Sử dụng tài liệu hướng dẫn học hợp lý khi giảng bài trên lớp, khắc phục
dạy học theo lối đọc, chép. Khi thực hiện dạy học theo mô hình VNEN việc
sử dụng tài liệu hướng dẫn học làm phương tiện dạy học là hết sức cần thiết.

8


Giáo viên chú trọng khai thác đầy đủ nội dung tài liệu hướng dẫn học và cập
nhật thêm kiến thức các nội dung tích hợp như giáo dục kỹ năng sống,...
Sử dụng hợp lý công nghệ thông tin trong các bài học, khai thác tối đa

thiết bị dạy học hiện có và tự làm. Ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho tiết
dạy thêm sôi động, thu hút sự tập trung của học sinh. Giáo viên thật sự phải
có kiến thức về ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng thành thạo máy, nếu
không sẽ phản tác dụng khi thực hiện.
Bên cạnh đó, để dạy học theo mô hình VNEN đạt hiệu quả thì giáo viên
phải phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh cùng tham gia vào hoạt động giáo
dục của nhà trường. Ngoài ra, bản thân mỗi giáo viên phải có quyển sổ “Nhật
kí” ghi lại những thành công hoặc những khó khăn vướng mắc trong quá trình
thực hiện.
Giáo viên tự học, tự bồi dưỡng, tự chủ, linh hoạt trong phương pháp
dạy học. Tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động
chuyên đề của tổ của trường để học tập về đổi mới phương pháp dạy học theo
tinh thần VNEN.
Trong sinh hoạt tổ chuyên môn kịp thời đưa ra những khó khăn, vướng
mắc như: biện pháp để học sinh học nhóm tốt, biện pháp để giúp em nhóm
trưởng có thể điều khiển tốt các hoạt động học tập của nhóm, hoặc biện pháp
về đổi mới phương pháp dạy học của một hoạt động nào đó ở một bài dạy cụ
thể…trong tổ sẽ cùng nhau thảo luận để tìm ra cách giải quyết tốt nhất.
Tăng cường kiểm tra bài tập ứng dụng. Phân nhóm nhiều đối tượng học
sinh hỗ trợ nhau trong học tập. Trong dạy học phải bao quát lớp, quy định các
kí hiệu để học sinh thực hiện theo lệnh và kiểm tra giám sát để giúp đỡ học
sinh kịp thời. Nhất thiết phải tổ chức bước khởi động để tạo hứng thú cho học
sinh bước vào tiết học.
Muốn không khí lớp học vui tươi, kích thích sự tò mò, khơi dậy hứng
thú của học sinh về chủ đề sẽ học. Giáo viên phải nghiên cứu thật kỹ tài liệu
để lựa chọn hình thức sao cho phù hợp, có thể là: đặt câu hỏi, câu đố vui, kể
chuyện, một tình huống, tổ chức trò chơi hoặc sử dụng các hình thức khác…..
Ví dụ : Bài 5: Ôn tập các bảng nhân và bảng chia (Tài liệu Hướng dẫn học Toán
lớp 3 Trang 15 -Tập 1A).
Trước khi vào tiết học, GV tổ chức HS chơi trò chơi “Kết bạn”. Các

em sẽ biết nếu “kết 4” mà lớp mình có 16 bạn thì sẽ thành lập được 4 nhóm,
nếu “kết 3” thì lớp mình sẽ thành lập được 5 nhóm còn dư 1 bạn (bạn bị dư sẽ
bị phạt). Thông qua trò chơi, học sinh sẽ cảm thấy trò chơi mà mình vừa được
9


tham gia rất gần gũi với bản thân, bên cạnh đó trò chơi còn kích thích tính tò
mò, khơi dậy hứng thú trong học tập giúp các em muốn tiếp tục được trải
nghiệm kiến thức mới.
Đối với những bài có kênh hình, kênh chữ không phù hợp hoặc quá trừu
tượng với học sinh, tôi mạnh dạn điều chỉnh và giảng giải, phân tích để học
sinh hiểu. Việc đổi mới này thật sự đã phần nào mang lại hiệu quả trong công
tác dạy học của mình.
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Đổi mới về cách tổ chức lớp học.
Theo bản thân tôi nhận thấy, đối với Mô hình trường học mới học sinh
không tiếp thu thụ động mà chủ động làm việc độc lập với tài liệu, thao tác
với các đồ vật, quan sát trực tiếp, phân tích, so sánh và tương tác với các bạn
trong nhóm, tương tác với giáo viên, với cộng đồng. Chính vì thế “nhóm” là
đơn vị học tập cơ bản nổi trội nhất trong mô hình VNEN.
Có thể nói, mọi hoạt động của học sinh diễn ra ở nhóm học tập. Học
sinh chủ yếu làm việc với nhóm, giáo viên và chung cả lớp chỉ khi cần thiết.
Bởi vậy mà việc phân nhóm tôi thường thực hiện trên cơ sở đảm bảo sự hợp lí
về sức học, về khả năng giao tiếp, sự hợp tác giữa các thành viên và việc điều
hành của nhóm trưởng để đảm bảo tương đối đồng đều giữa các nhóm.

(Ảnh: Hoạt động nhóm trong tiết Tiếng Việt lớp 3B)
10


Nhóm trưởng được coi là “người thuyền trưởng” của nhóm học tập,

giữ vai trò điều hành, giám sát hoạt động học của mỗi thành viên trong nhóm.
Nhóm trưởng là người hỗ trợ tích cực giáo viên trong việc tổ chức, điều hành
các hoạt động và báo cáo với giáo viên kết quả học tập hay những vướng mắc
trong học tập của nhóm khi cần hỗ trợ.
Một nhóm trưởng điều hành tốt là tạo cơ hội để mọi thành viên trong
nhóm tự giác trong học tập, tích cực tham gia các hoạt động nhóm. Đối với
các bạn nhút nhát thiếu tự tin, cần được nói nhiều, trao đổi nhiều, thể hiện
nhiều trong hoạt động nhóm. Tuyệt đối không để xảy ra tình trạng một hai
thành viên làm thay, làm hộ cho các bạn trong nhóm.
Vì vậy, ngay từ đầu năm học, tôi thường có những định hướng cụ thể
để giúp các em học sinh trong lớp lựa chọn bình bầu những người có khả
năng điều hành nhóm làm nhóm trưởng, tiến hành bồi dưỡng kĩ năng điều
hành cho các em. Tôi thường hướng dẫn để các nhóm trưởng có kĩ năng điều
hành nhóm, hiểu các bước của quá trình học tập, biết tổ chức để mọi thành
viên trong nhóm đều tích cực, tự giác thực hiện các nhiệm vụ học tập.
Việc hướng dẫn học sinh kĩ năng làm việc nhóm cũng hết sức quan
trọng. Tôi thường hướng dẫn kĩ năng làm việc nhóm cho học sinh thông qua
các tương tác đa chiều, trực diện trong nhóm. Trong một nhóm phải tạo ra các
quan hệ giao tiếp, trao đổi hoặc tranh luận giữa các thành viên khi giải quyết
một công việc, một nhiệm vụ học tập cụ thể của nhóm. Hình thành cho học
sinh kĩ năng trình bày quan điểm, biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến của các bạn,

Ngoài việc đổi mới phương pháp dạy, phương pháp tổ chức lớp học thì
trong Mô hình trường học mới, mỗi người giáo viên như chúng tôi cần thực
hiện tốt việc quản lí và cách thức tạo cảm giác hứng thú cho các em khám phá
tìm hiểu kiến thức mới trong mỗi bài học, động viên khuyến khích các em
đúng lúc, đúng chỗ và kịp thời. Ghi nhận sự tiến bộ hằng ngày của các em dù
là nhỏ nhất.
Những học sinh còn hạn chế về năng lực học tập cần được quan tâm
nhiều hơn để theo kịp nhóm. Việc bồi dưỡng nhóm trưởng điều hành tốt thì đã

đảm bảo sự thành công của Mô hình trường học mới. Về thời gian sau tôi mới
thực hiện sự luân phiên làm nhóm trưởng; như vậy mới tạo sự bình đẳng giữa
các thành viên trong nhóm, giúp tất cả các thành viên trong nhóm mạnh dạn,
tự tin chia sẻ ý kiến của mình trước tập thể.

11


(Ảnh: Học sinh chia sẻ trước lớp)
2.3.4. Giải pháp thứ tư: Nắm bắt đặc điểm tình hình học sinh.
Để làm tốt công tác giáo dục học sinh, nhiệm vụ đầu tiên của giáo viên
là nghiên cứu để nắm vững tình hình chung của lớp và của từng học sinh. Kết
quả nghiên cứu sẽ là những căn cứ để xây dựng mục tiêu, chương trình, kế
hoạch năm học để xác định nội dung, phương pháp và các hình thức tổ chức
giáo dục phù hợp với đặc điểm và từng đối tượng học sinh của lớp mình. Bởi
vậy mà ngay từ đầu năm, công việc đầu tiên tôi thường tập trung vào các nội
dung sau đây:
+ Nắm bắt đặc điểm tình hình gia đình học sinh như: nghề nghiệp của
cha mẹ học sinh, số anh chị em trong gia đình, hoàn cảnh và điều kiện sống,
cách thức giáo dục con cái, điều kiện đường xá đi lại,...
+ Nắm bắt về từng đối tượng học sinh như: số lượng, chất lượng học
tập, đặc điểm lứa tuổi, đặc điểm cá biệt, quá trình học tập, tu dưỡng đạo đức,
tinh thần đoàn kết, phong trào thi đua, ưu, nhược điểm, những điểm mạnh,
điểm yếu của từng học sịnh và cả lớp... Đặc biệt quan tâm tới những đặc điểm
riêng của học sinh (về sức khoẻ, sở thích, học lực, đạo đức, bạn bè,...).
Để nắm vững được năng lực hoạt động tập thể của từng em trong lớp
mình, tôi thường thông qua các kênh thông tin sau:
+ Điều tra qua hồ sơ học bạ, thành tích học tập;
+ Điều tra về sổ theo dõi sức khoẻ.
+ Điều tra về nhận xét đánh giá của giáo viên chủ nhiệm năm trước.

12


+ Điều tra về đánh giá của bạn bè,...
+ Điều tra về sự tín nhiệm của tập thể lớp qua việc bình bầu dân chủ từ
đầu năm học.
Từ những cơ sở như đã nêu trên giúp cho tôi trong việc xây dựng kế
hoạch dạy học, hỗ trợ, bồi dưỡng và tổ chức các hoạt động giáo dục đến từng
học sinh cũng như tập thể lớp một cách có hiệu quả.
2.3.5. Giải pháp thứ năm: Xây dựng bộ máy tổ chức tự quản của lớp.
Mục đích xây dựng Hội đồng tự quản học sinh là biện pháp giáo dục
nhằm thúc đẩy sự phát triển về đạo đức, tình cảm và ý thức xã hội của học
sinh thông qua những kinh nghiệm hoạt động thực tế của các em trong mối
quan hệ với những người xung quanh; đảm bảo cho các em tham gia một cách
dân chủ và tích cực vào cuộc sống học đường; tạo cơ hội cho các em tham gia
toàn diện vào các hoạt động của nhà trường và phát triển tính tự chủ, sự tôn
trọng, bình đẳng, tinh thần hợp tác và đoàn kết của học sinh; giúp các em phát
triển kĩ năng ra quyết định, kĩ năng hợp tác và kĩ năng lãnh đạo, đồng thời
cũng chuẩn bị cho các em ý thức trách nhiệm khi thực hiện những quyền và
bổn phận của mình.
Trước khi thành lập Hội đồng tự quản học sinh, tôi thường mời các giáo
viên bộ môn tham gia giảng dạy ở lớp của mình cũng như phụ huynh học sinh
của lớp cùng họp bàn về việc thành lập Hội đồng tự quản. Việc tham gia của
phụ huynh học sinh sẽ góp phần làm tăng thêm sự quan tâm của họ đối với
việc học tập của con em mình cũng như giúp họ hiểu biết thêm về Mô hình
trường học mới góp phần phối hợp chặt chẽ giữa giáo viên và cộng đồng
trong việc giáo dục học sinh.
Thời gian thích hợp để tổ chức bầu Hội đồng tự quản là ngay đầu năm
học. Có nghĩa là khi học sinh bắt đầu học chương trình năm học thì bộ máy
Hội đồng tự quản đã hoàn thiện để điều hành mọi hoạt động học tập, sinh hoạt

của lớp. Căn cứ vào hoạt động của lớp trong năm học, Hội đồng tự quản họp
có sự tham gia tư vấn của giáo viên để dự kiến thành lập các ban tự quản và
thường phải thông qua ý kiến của tập thể lớp. Theo kinh nghiệm tùy thuộc vào
đặc điểm của lớp tôi thường định hướng cho học sinh thành lập các ban như:
Ban học tập, Ban thư viện, Ban văn nghệ và thể dục-thể thao, Ban vệ sinh sức
khỏe, Ban đối ngoại.
Việc bầu và thành lập các ban do Hội đồng tự quản tổ chức. Tôi thường
gợi ý cho học sinh giới thiệu chức năng, nhiệm vụ của các ban; quyền lợi của
người tham gia, suy nghĩ của bạn có thể làm gì tốt nhất,... Các thành viên Hội
13


đồng tự quản phát cho mỗi bạn một tờ giấy nhỏ ghi tên, nguyện vọng tham
gia vào ban nào, sau khi lựa chọn mỗi học sinh dán lên bảng quy định cho
từng ban mà mình lựa chọn hoặc cũng có thể cho các bạn lựa chọn ban rồi
điền tên mình vào cột trong bảng.
2.3.6. Giải pháp thứ sáu: Xây dựng hoạt động của Hội đồng tự quản.
Học sinh phát triển toàn diện nhờ các hoạt động tự giáo dục của mình.
Hội đồng tự quản là tổ chức của học sinh, vì học sinh và do học sinh thực
hiện. Các em làm chủ trong mọi hoạt động. Vì vậy tôi thường hướng cho các
em tự đề xuất, bàn bạc đưa ra nội quy và cùng nhau giám sát việc thực hiện
các quy ước do mình xây dựng và cam kết thực hiện. Như vậy các em tự đề ra
các quy ước (dù là quy ước nhỏ nhất) và có trách nhiệm thực hiện các quy
ước đó. Điều đó đảm bảo tính dân chủ trong lớp học.
Trong Mô hình trường học mới VNEN, nguyên lí giáo dục là (Học đi
đôi với hành - Nhà trường gắn liền với gia đình và các tổ chức xã hội) được
thể hiện rõ rệt thông qua tổ chức và quản lí lớp học, đưa những điểm văn hóa,
kinh tế, truyền thống lịch sử của địa phương vào nhà trường. Do vậy vai trò
của gia đình là rất quan trọng trong việc học tập, giáo dục đối với học sinh.
Để phối hợp một cách chặt chẽ với gia đình, cộng đồng, ngay từ đầu

năm tôi thường bàn bạc với Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để tuyên truyền
tới mỗi gia đình và cộng đồng về Mô hình trường học mới. Chủ động trao đổi,
khuyến khích gia đình và cộng đồng cùng tham gia các hoạt động giáo dục
của nhà trường, tạo nên sức mạnh tổng hợp nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện cho học sinh của trường Tiểu học Hải Long nói riêng và của huyện Như
Thanh nói chung ngày càng mang lại kết quả cao nhất.
Các nội dung tôi thường phối hợp với cha mẹ học sinh trong quá trình
giáo dục như phối hợp cùng tuyên truyền về Mô hình trường học mới; huy
động trẻ đến trường; cùng tham gia trang trí lớp học xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực; mời cha mẹ học sinh cùng tham gia dự giờ một số tiết
học giáo dục về An toàn giao thông, giáo dục Kĩ năng sống và các tiết sinh
hoạt ngoại khóa,... tham gia giúp các em liên hệ nội dung bài học học với thực
tế ở địa phương và phát huy năng lực của các em tại gia đình.
Để thực hiện dạy học theo Mô hình VNEN có hiệu quả ngoài điều kiện
cơ sở vật chất thì điều kiện đầu tiên là phải quyết tâm đổi mới phương pháp
dạy - học, phương pháp tổ chức lớp học, phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và
cộng đồng trong việc giáo dục học sinh,… Điều đó có nghĩa là người giáo

14


viên chủ nhiệm phải là hạt nhân của các khâu đổi mới quyết định thành bại
trong công tác dạy học theo mô hình VNEN.
Trong mô hình VNEN, người giáo viên nói chung và đặc biệt là người
giáo viên chủ nhiệm nói riêng phải giúp học sinh phát huy tính tự học, sáng
tạo, tính tự giác, tự quản, sự tự tin, hứng thú trong học tập. Phải đổi mới
phương pháp dạy học giúp các em phát huy tốt các kĩ năng giao tiếp, kĩ năng
hợp tác, kĩ năng tự đánh giá lẫn nhau trong giờ học.
Chú trọng khai thác và sử dụng những kinh nghiệm của học sinh trong
đời sống hàng ngày. Gắn kết giữa nội dung dạy học với đời sống thực tiễn của

học sinh, của cộng đồng thông qua hoạt động của nhóm và chính bản thân các
em trong mỗi tiết học. Phải nắm vững yêu cầu về quan điểm dạy học, chương
trình, nội dung dạy học.
Thấy được tầm quan trọng và ích lợi của hoạt động nhóm, đòi hỏi
người giáo viên phải không ngừng nghiên cứu, tìm tòi, vận dụng linh hoạt
hoạt động nhóm, trong quá trình dạy học. Nắm vững các cách chia nhóm và tổ
chức nhóm. Phải thực hiện tốt việc tổ chức lớp học. Hướng dẫn cho Hội đồng
tự quản, các Ban tự quản thực hiện một cách có hiệu quả.
Tận dụng tốt lợi thế về cơ sở vật chất để thực hiện thành công dạy học
theo Mô hình trường học mới. Phải thường xuyên liên hệ chặt chẽ với cha mẹ
học sinh, cộng đồng xã hội trong quá trình dạy học và giáo dục học sinh để
hình thành và phát triển những kĩ năng cần thiết cho các em cũng như thực
hiện tốt khâu xã hội hóa giáo dục.
2.4 . Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Qua thời gian thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới, tôi nhận
thấy những thay đổi tích cực từ phía học sinh, từ đầu năm lớp học rất trầm,
nhưng khi được làm việc hợp tác với các bạn trong nhóm, với tinh thần trách
nhiệm cao. Các em được hoạt động tích cực, những em chậm chạp và rụt rè
như em Thảo, em Lâm, Hà Linh cũng năng động hơn. Những em có tính tự ti
như em Duy, em Hoàn cũng hòa nhập với các bạn nhanh hơn.
Trong việc tổ chức hoạt động của nhóm phần nào cũng giúp cho các em
mạnh dạn, tự tin hơn. Sau các đợt thao giảng và kiểm tra nội bộ của nhà
trường được Ban giám hiệu và các đồng nghiệp đánh giá rất cao về tinh thần
học tập của lớp. Các em rất năng động, sáng tạo biết yêu thương giúp đỡ lẫn

15


nhau, cùng giúp nhau tiến bộ, các em biết nhường nhịn nhau và ngoan hơn

trước rất nhiều.
Học sinh của lớp tôi chủ nhiệm đã tự tin chiếm lĩnh kiến thức mới, các
kĩ năng hợp tác, chia sẻ, kĩ năng giao tiếp,… tiến bộ rõ rệt. Các em thực sự
làm chủ trong quá trình học tập. Cha mẹ học sinh cũng tham gia tích cực vào
giáo dục học sinh, giúp học sinh vận dụng linh hoạt kiến thức vào thực tế
cuộc sống. Mối quan hệ giữa nhà trường và cộng đồng ngày càng chặt chẽ,
khăng khít hơn.
* Kết quả, chất lượng học sinh đến giữa học kì II năm học 2016-2017 đạt
được như sau:
Xếp loại

Tốt

Hoàn thành

Điểm
9 -10

Môn
SL

TL

Điểm
7-8
SL

TL

Cần cố gắng


Điểm
5-6
SL

TL

Điểm
3-4
SL

Điểm
1-2

TL SL

TL

Toán

5

31,25%

8

50%

3


18,75%

0

0%

0

0%

Tiếng Việt

4

25%

9

56,25%

3

18,75%

0

0%

0


0%

- Xếp loại chung đến giữa học kì II năm học 2016-2017 như sau:
* Kiến thức, kĩ năng: Hoàn thành tốt, hoàn thành 16 em-100%
* Năng lực: Tốt, đạt 16 em - 100%
* Phẩm chất: Tốt, đạt 16 em -100%
Mặc dù mới thực hiện được 3/4 thời gian của năm học. Qua kết quả
trên, so với thực trạng ban đầu, ta thấy tỉ lệ học sinh hoàn thành bài 100%,
không còn học sinh chưa hoàn thành bài. Như vậy việc áp dụng các giải pháp
nâng cao hiệu quả tổ chức lớp học theo mô hình VNEN của tôi đã bước đầu
mang lại hiệu quả thiết thực.
Lớp học của Mô hình VNEN được bố trí giống như một phòng học bộ
môn, phòng thư viện linh hoạt. Tại lớp học cũng có góc học tập, góc cộng
đồng, góc trưng bày sản phẩm...để HS được phát huy khả năng sáng tạo độc
lập của mình.
Có thể nói Mô hình trường học mới được xây dựng theo hướng đổi mới
phương pháp dạy học với nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm, học tập
mang tính tương tác và phù hợp với từng cá nhân học sinh. Chính vì vậy, việc
truyền thụ của giáo viên được chuyển thành việc hướng dẫn học sinh tự học.

16


Tham gia lớp học này, các em có điều kiện phát huy sở trường cá nhân của
mình. Học sinh được làm chủ lớp học, làm chủ quá trình học tập.
Mỗi một ngày đến lớp, các em được sinh hoạt và học tập trong môi
trường thân thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè,
với thầy cô. Đặc biệt với sự giúp đỡ, tương trợ của các bạn trong nhóm, nhiều
học sinh đã không còn rụt rè e ngại mà trở nên hoạt bát, hào hứng hơn trong
học tập. Vì thế mà đa số các em thích đến trường, thích được đi học.

Quản lý lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”. Hội đồng này được
các em bầu ra để đảm đương các hoạt động tại lớp. Đây là một cách thức sáng
tạo, giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập. Với hình
thức sinh hoạt và học tập như thế, các em được rèn luyện các kỹ năng lãnh
đạo, kỹ năng hợp tác trong các hoạt động hằng ngày.
Với cách bố trí lớp học theo các không gian mở hướng tới sự sáng tạo
của học sinh như: Góc học tập, Góc cộng đồng, Góc thư viện, Hộp thư vui,
hộp thư “Điều em muốn nói” đã tạo nên môi trường giáo dục thân thiện cho
các em.
Thời gian đầu cả cô và trò chúng tôi còn rất lúng túng. Nhưng khi đã
quen với phương pháp dạy và học này các em rất yêu thích và gắn bó với lớp
học của mình hơn. Em nào cũng yêu trường, yêu lớp luôn tạo cho các em
không khí thoải mái để các em học tập.
Có thể nhận thấy việc dạy học theo Mô hình trường học mới, sẽ rất
thuận lợi cho việc đánh giá năng lực học sinh theo các tiêu chí về chuẩn kiến
thức, kỹ năng và hoạt động theo từng môn học; đánh giá sự hình thành và
phát triển năng lực chung của học sinh theo Thông tư 22/2016 của Bộ Giáo
dục & Đào tạo mới ban hành là rất phù hợp và thiết thực. Điều này sẽ tạo điều
kiện cho các em phát triển một cách toàn diện, giúp các em dễ thích nghi với
môi trường xung quanh.
Mỗi tiết học không tạo áp lực đối với các em. Học sinh được hình thành
thói quen làm việc trong môi trường tương tác, được học hỏi bạn để tự hoàn
thiện, luôn có ý thức được mình phải bắt đầu và kết thúc hành động như thế
nào, không chờ đến sự nhắc nhở của giáo viên, tránh sự thụ động trong dạy và
học, góp phần đẩy mạnh sự phát triển trong công tác giáo dục của trường.

17


3. Kết luận, kiến nghị.

3.1. Kết luận.
Qua thời gian vận dụng các giải pháp đổi mới phương pháp dạy học
theo Mô hình trường học mới nói trên bản thân tôi nhận thấy việc đổi mới
phương pháp dạy học ở trường Tiểu học nói chung và các khối lớp dạy theo
Mô hình trường học mới nói riêng là rất cần thiết.
Quá trình thực hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Giáo viên sử
dụng linh hoạt các phương pháp và kỹ thuật dạy học nên đã phát huy được
tính tích cực, chủ động, tinh thần hợp tác, chia sẻ để cùng nhau tìm tòi, khám
phá kiến thức mới.
Học sinh luôn tự lập, tự khám phá, tự chiếm lĩnh tri thức, hình thành
năng lực tự học, năng lực sáng tạo. Các em phát triển tốt các kỹ năng sống
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng ứng xử...Tạo được một môi trường học tập
thân thiện, vui vẻ, thoải mái. Chất lượng học tập ngày càng tăng lên rõ rệt.
3.2. Kiến nghị.
3.2.1. Đối với chuyên môn:
Tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn của trường, cụm
trường nhằm trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những khó khăn vướng mắc,
học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình thực hiện dạy học theo Mô hình
trường học mới VNEN.
3.2.2. Đối với nhà trường:
Về cơ sở vật chất: Đề nghị các cấp xây dựng, nâng cấp các phòng học
nhằm đáp ứng nhu cầu thực hiện dạy học theo Mô hình trường học mới một
cách hiệu quả.
Trên đây là nghiên cứu của bản thân tôi về “Một số kinh nghiệm nâng
cao hiệu quả tổ chức lớp học theo Mô hình trường học mới VNEN lớp 3 ở
trường Tiểu học Hải Long”. Tôi đã áp dụng và có hiệu quả thiết thực.
Mặc dù đã cố gắng nhưng thời gian áp dụng chưa nhiều, kinh nghiệm
và trình độ bản thân còn hạn chế nên sáng kiến kinh nghiệm còn nhiều điểm
thiếu sót, mong các bạn đồng nghiệp, Hội đồng khoa học nhà trường, ngành
góp ý để sáng kiến của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

18


XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG Như Thanh, ngày 30 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam kết không cóp bi, sao
chép của người khác.
Người viết

Bùi Thị Huyền

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu Hướng dẫn học Toán 3 Tập 1A - NXBGDVN năm 2013

20



×