1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Cấp tiểu học là cấp học nền tảng, quan trọng trong hệ thống các cấp học ở
nước ta vì đây là cấp học mở đầu cung cấp những kiến thức cơ bản, ban đầu cho
học sinh đồng thời thông qua các hoạt động học tập đó người giáo viên còn dạy
cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn chuẩn bị cho các cấp học tiếp theo.
Trong quá trình công tác và giảng dạy ở trường Tiểu học Tam Chung,
huyện Mường Lát, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh sống, tôi đã nhận
thấy việc nói và viết Tiếng Việt của các em còn sai nhiều, đặc biệt là đọc thế nào
viết thế đó, sử dụng từ và đặt câu còn gặp nhiều khó khăn, vốn ngôn ngữ còn
nghèo nàn nên khi nói và viết chưa lưu loát, sai lỗi còn nhiều. Từ đó tôi thấy
một số điều bất cập sau:
- Học sinh đọc rất yếu (hầu hết các em phải đánh vần và đọc chậm).
- Học sinh ít hiểu nội dung bài đọc.
- Học sinh phát âm còn sai nhiều.
- Học sinh ngắt, nghỉ hơi chưa đúng chỗ.
- Học sinh chưa hiểu các từ ngữ trong văn bản, nhất là các từ ngữ mới.
- Nội dung bài tập đọc khá dài, trong khi đó học sinh đọc chậm dẫn đến
trong 35 phút rất khó cho giáo viên hoàn thành bài dạy.
- Học sinh còn đọc vẹt (đọc theo giáo viên, theo bạn mà một lúc sau
không đọc được, không hiểu nội dung bài đọc) khá nhiều.
Trong khi đó, tập đọc là phân môn rất quan trọng trong chương trình
Tiếng Việt lớp 2, rất nhiều bài tập đọc là ngữ liệu dạy học cho các phân môn
khác trong môn Tiếng Việt.
Những vấn đề trên luôn làm cho tôi suy nghĩ phải làm sao cho các em
nắm bắt được một cách nhanh nhất về kĩ năng đọc để áp dụng vào việc học các
môn học khác. Điều đó thôi thúc tôi không ngừng nghiên cứu học hỏi về vấn đề
này và bước đầu tôi đã áp dụng thành công ở lớp mình.
Ở trường, khi học trên lớp, các em chủ yếu được nghe cô giáo giảng bài,
những tuần đầu của năm học, giáo viên thường phải dùng cả hai thứ tiếng: Tiếng
Việt và tiếng mẹ đẻ của các em để các em hiểu được bài học; học sinh được
luyện đọc nhưng để hiểu được nội dung của bài học là một điều hết sức khó
khăn với các em, học sinh được luyện đọc, luyện viết nhưng kỹ năng để đọc viết
đúng các con chữ cũng là một điều hết sức nan giải. Về với gia đình, các em lại
sống trong môi trường thuần tiếng dân tộc, vốn tiếng Việt ở trên lớp mà các em
có được, những con chữ đầu tiên lại bị lãng quên trong tiềm thức của các em.
Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt hạn hẹp và không thuần nhất như vậy chính
là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành và phát triển kỹ năng sử dụng tiếng Việt
của các em hết sức khó khăn. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi lựa chọn
chuyên đề “Một số biện pháp luyện đọc cho học sinh lớp 2’’ Khu Suối Lóng
Trường Tiểu học Tam Chung nhằm từng bước nâng cao chất lượng dạy học môn
Tiếng Việt cho học sinh.
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm mục đích cho các em viết được, đọc được, đến đọc thông, viết thạo
và hiểu được nội dung của bài tập đọc. Đây là vấn đề đang được xã hội, nghành
giáo dục và đặc biệt là những giáo viên trực tiếp giảng dạy học sinh vùng dân
tộc thiểu số quan tâm.
Như những nội dung tôi đã nêu trên, việc dạy cho học sinh biết đọc và đọc
đúng, đọc chuẩn là vấn đề day dứt của tất cả giáo viên trong trường tiểu học. Vì
vậy, qua đề tài này, tôi mong sẽ góp phần cho việc dạy học tập đọc cho học sinh
lớp 2 mà tôi trực tiếp giảng dạy có hiệu quả và thành công. Làm sao khi hoàn
thành chương trình lớp 2, học sinh có thể đọc được tối thiểu 30 tiếng/phút, hiểu
đúng nội dung bài tập đọc, đọc đúng ngữ điệu, đúng chính âm và biết sữ dụng
Tiếng Việt như sử dụng tiếng mẹ đẻ của các em.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là “ Một số biện pháp luyện đọc cho học sinh lớp 2’’
khu Suối Lóng trường Tiểu học Tam Chung
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp tìm tòi, nghiên cứu, thu thập, phân tích; phương
pháp phân tích tổng hợp với các nội dung kiến thức của hoạt động dạy học;
phương pháp kiểm tra, rút kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
- Đây là những giai đoạn đầu của bậc học tiểu học, ở lứa tuổi này các em
bước đầu đã biết quan tâm dến bản thân và mọi người. Các em chưa mạnh dạn
trong giao tiếp với bạn bè, thầy cô giáo, không còn rụt rè, e sợ. Trong giai đoạn
này, các em đã có một suy nghĩ và hành động mới. Đó là diều kiện thuận lợi cho
các em trong học tập và cuộc sống. Các em chưa xác định được việc học là trọng
tâm. Chính vì vậy, khi dạy học giáo viên phải chú ý đến những đặc điểm tâm,
sinh lí này của các em.
Trong quá trình học tập, các kiến thức được các em ghi nhớ chưa chắc chắn
và chưa có lôgic. Các em có thể tìm hiểu được các nội dung bài học mà phải có
sự giúp đỡ, “cầm tay chỉ đường” của giáo viên. Vì vậy, trong quá trình dạy học,
giáo viên phải dựa vào trình độ học sinh để phát huy khả năng tư duy vốn có của
các em.
Nhiều em còn ham chơi: Vì các em chưa quan tâm đến việc học tập và do
phong tục tập quán của người dân, khi cần các em có thể bỏ học nhiều ngày để
đi chơi. Nhiều em đến lớp chỉ với mục đính đơn giản là có nhiều bạn để chơi.
Nhiều em rụt rè, nhút nhát: Cho dù các em đã học đến lớp 2, đã quen với
trường lớp, bạn bè, thầy cô, nhưng các em vẫn không tự tin vào mình. Nhiều em
thấy thầy, cô mới là tròn mắt ngạc nhiên, có em sợ đến phát khóc. Trong học tập,
thầy cô hỏi thì cứ ngồi lì một chỗ không dám đứng lên trả lời cho dù các em đã
biết câu trả lời. Nhiều em thấy thầy, cô đến nhà là bỏ chạy, thấy thầy cô là trốn.
2
Mặt khác, nhiều em do học lực yếu nên luôn bị áp lực và rồi cũng không đến
trường (trường hợp này là rất nhiều).
+ Luôn cho mình là người học dốt: Nhiều em không dám tới trường vì cho
rằng mình không biết đọc, không biết viết, không biết làm toán,…ngay cả bố,
mẹ các em cũng cho rằng: “Hắn học không được đâu cô giáo ơi!”.
- Đặc điểm nổi bật trong nhận thức của các em là:
+ Chưa nhận thức đúng vấn đề học tập đây là do lịch sử để lại, bởi nhận
thức của người dân còn rất hạn chế. Họ luôn suy nghĩ: “Học để làm gì?”, “đi
làm nương mới no cái bụng”,..Vì vậy, nhiều em không muốn đi học.
+ Học vẹt: Nhiều em cứ đọc, nói vanh vách nhưng khi hỏi nội dung thì
không biết. Chẳng hạn có nhiều em đọc một bài tập đọc học thuộc lòng thì thuộc
vanh vách, nhưng khi giáo viên hỏi về nội dung bài thì các em không trả lời
được, hoặc nếu trả lời thì không đúng nội dung.
- Nói chung, nhận thức của các em còn yếu, vì thế việc truyền thụ kiến thức
cho các em là rất khó khăn cho giáo viên. Đây chính là sự băn khoăn của tất cả
giáo viên đang công tác tại vùng cao Mường Lát này.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Việc dạy cho các em đọc được quả là rất khó khăn, đó là chưa nói đến việc
dạy cho các em đọc hiểu, đọc diễn cảm ở mức đơn giản. Mỗi giờ dạy tập đọc là
mỗi giờ giáo viên phải vất vả, khó khăn mới truyền thụ được kiến thức cho các
em. Những khó khăn chủ yếu đó là:
a. Do ảnh hưởng từ tiếng mẹ đẻ của các em:
- Học sinh dân tộc khi tới trường mới bắt đầu tiếp xúc làm quen và học tập
bằng một ngôn ngữ hoàn toàn mới là Tiếng việt. Tuy rằng các em đã được học
qua bậc học mầm non, không có thời gian để học nói Tiếng Việt trước, cũng
không có điều kiện để tiếp xúc, để được mọi người xung quanh dạy nói một
cách tự nhiên như học sinh người Kinh. Như vậy, ngay những ngày mới tới
trường, học sinh phải học đồng thời cả ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết khi học
Tiếng Việt. Các em phải làm quen với một hệ thống ngữ âm không hoàn toàn
giống với tiếng mẹ đẻ. Với người học ngôn ngữ thứ hai thì học phát âm đúng âm
vần đóng vai trò quan trọng ; khi đã biết cách phát âm thì những khâu tiếp theo
như đọc tiếng, từ, câu sẽ trở nên dễ dàng hơn. Bởi vậy, cần phải dạy cho các em
phát âm đúng ngay khi học âm, vần của tiếng Việt.
- Từ lúc mới chào đời, các em đã làm quen với ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ.
Ngôn ngữ đó đã ngự trị trong cuộc sống sinh hoạt của các em. Vì thế, việc học
Tiếng Việt đối với các em như chúng ta học tiếng nước ngoài vậy. cho dù một số
em có tiếp xúc với người Kinh hoặc nghe bố, mẹ, anh, chị,…nên có một số ít
ngôn ngữ Tiêng Việt, nhưng chừng đó quả là quá ít đối với việc học Tiếng Việt là một ngôn ngữ chính thống. Trong khi đó những học sinh người Kinh thì nhiều
em vào lớp 2 đã biết đọc, biết viết thành thạo.
- Mặt khác, các em học Tiếng Việt nhưng không giao tiếp bằng Tiếng Việt
nên học xong lại chóng quên. Nhiều em mới biết đọc thì sau 2 tháng hè đã
3
không còn nhớ mặt chữ nữa. Như Lê-nin nói: “Ngôn ngữ là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất của loài người”, vậy mà các em học Tiếng Việt mà lại giao
tiếp bằng tiếng của dân tộc mình thì học rồi cũng như không.
- Hơn nữa, trong ngôn ngữ của các em rất nặng, đa số những tiếng có thanh
trắc (hỏi, ngã, nặng) và rất ít thanh bằng (huyền, không); trong khi nói, đọc các
em thường kéo dài những tiếng cuối từ, cuối câu nên nhiều em phát âm sai với
chuẩn chính âm của Tiếng Việt.
Ví dụ:
+ Thênh thang - đọc thành: Thếnh thang, thếnh th…a..ng.
+ Thấm thía - đọc thành: Thắm thé, thăm thé, th…ắ…m thé.
Trong khi đọc, các em còn chẻ từ ra để ngắt, nghỉ hơi, ngắt câu. Đây là do
các em chưa hiểu về cấu tạo từ, đơn vị từ, cấu tạo câu của Tiếng Việt. Các em
đọc ngắt, nghỉ rất tự do, cứ khi nào hết hơi là các em ngắt, nghỉ để lấy hơi cho
dù giáo viên nhắc nhiều lần.
Ví dụ:
+ Có em mới có bập bùng bếp/ lửa nhà sàn.
( Bài: Chuyện bốn mùa)
+ Cậu có bao/ nhiêu trí khôn
( Bài: Một trí khôn hơn trăm trí khôn)
+ Thân dừa bạc/ phếch tháng năm.
( Bài: Cây dừa)
Nhiều em vừa đọc, vừa đánh vần, đọc câu nọ sang câu kia mà không tính
đến nghĩa các câu. Đó là do các em chưa có kĩ năng đọc, chưa thuộc cấu trúc từ,
câu của Tiếng Việt.
Nói chung, việc ảnh hưởng tiếng mẹ đẻ của các em đã làm cho việc dạy tập
đọc hết sức khó khăn và đây là khó khăn bậc nhất cho giáo viên.
b. Do giáo viên chưa giao tiếp được bằng ngôn ngữ của các em:
- Đa số giáo viên công tác vùng biên giới này đều là người Kinh từ đồng
bằng lên. Vì vậy, hầu hết giáo viên chưa nói được ngôn ngữ của các em. Đó là
điều bất cập cho giáo viên trong việc dạy tiếng Việt, đặc biệt là trong dạy tập
đọc cho các em. Cụ thể:
+ Khi giải nghĩa từ cho các em: Rất nhiều em chưa hiểu nghĩa của các từ
mà khi giải nghĩa từ, giáo viên sử dụng tiếng Việt để giải nghĩa thì làm cho các
em mơ hồ thêm và cuối cùng các em không biết từ đó có nghĩa như thế nào. Vì
vậy, khi giải nghĩa từ ngoài việc sử dụng đồ dùng trực quan, giáo viên cần phải
sử dụng tiếng của các em để giải nghĩa từ nhằm giúp các em hiểu được nghĩa
của từ đó.
+ Nếu giáo viên nắm được ngôn ngữ của các em thì sẽ có biện pháp giúp
các em đọc đúng, đọc chuẩn chính âm của tiếng Việt, nhất là khi hướng dẫn các
em đọc hiểu và đọc diễn cảm.
- Nhiều khi do chưa có chuẩn bị kĩ bài dạy nên ở thao tác đọc mẫu còn có giáo
viên chưa đọc diễn cảm, chưa thu hút được sự chú ý của học sinh. Thậm chí có
4
trường hợp đọc còn chưa đáp ứng được yêu cầu của câu văn có yếu tố khó đọc như
các câu đối thoại, cách ngắt nghỉ trong các câu dài và ngắt nhịp ở các dòng thơ.
- Quá trình hướng dẫn học sinh luyện đọc (nhất là các tiết có người dự) thì
dường như lại “ quên” mất đối tượng học sinh đọc chưa đạt yêu cầu còn những
học sinh đọc tốt thì lại quá vất vả. giáo viên chưa quan tâm sửa sai ngay những
lỗi mà học sinh mắc phải.
c. Do chương trình và sách giáo khoa mới:
- Chương trình – sách giáo khoa mới khá nặng về kiến thức đối với học
sinh, nhất là học sinh ở vùng bản. Nội dung kiến thức thì nhiều, trong khi vốn
ngôn ngữ Tiếng Việt của các em lại có hạn, nên việc truyền đạt kiến thức cho
học sinh trong 1 tiết phút là điều quá khó khăn. Ở nước ta, nền giáo dục đã có sự
điều chỉnh và giảm tải cho các đối tượng học sinh, dù thuận lợi hay khó khăn
đều học một chương trình và sách giáo khoa, nên vẫn còn thiệt thòi cho các học
sinh vùng khó. Nên chăng cần phải có sự chỉnh sửa hợp lí đối với học sinh vùng
khó và chuẩn kiến thức riêng, bởi lẽ yêu cầu tất cả học sinh đều còn phải đạt
theo chuẩn kiến thức kĩ năng đã quy định.
- Với học sinh miền núi như ở trường tôi, với đại đa số học sinh thì việc
nghỉ hè sẽ đồng nghĩa với việc vài tháng trời các em không hề quan tâm đến
sách vở và việc học hành của bản thân. Chính lẽ đó mà việc tái mù một số chữ
hoặc một số vần khó sẽ hiển nhiên diễn ra. Điều này sẽ gây cho giáo viên lớp 2
rất vất vả trong giai đoạn đầu năm học.
- Do đồ dùng học tập và sách giáo khoa còn thiếu nhiều nên học sinh ít
chuẩn bị, ít đọc trước bài học ở nhà.
Ngay từ đầu năm học, khi bắt đầu nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát chất
lượng đọc của các em, cụ thể như sau :
Căn cứ vào kết quả khảo sát, tôi nhận thấy chất lượng đọc của lớp còn thấp,
kết quả như sau:
Đọc rõ ràng, mạch lạc, Đọc to, đôi chỗ ngắt Đọc nhỏ, chưa biết
Sĩ số
ngắt nghỉ đúng.
nghỉ chưa đúng
ngắt nghỉ
14
0 em = 0%
1 em = 7,14%
13 em = 92,86%
Từ kết quả trên tôi đưa ra một số giải pháp sau:
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Qua trao đổi với đồng nghiệp và kinh nghiệm của bản thân, tôi xin trình bày
Một số biện pháp luyện đọc cho học sinh lớp 2 khu suối Lóng, như sau :
Biện pháp 1: Phối hợp với phụ huynh học sinh để chăm lo đến chất
lượng học tập của các em.
Vào đầu năm học, nhà trường đã tạo điều kiện cho giáo viên chủ nhiệm
họp phụ huynh học sinh lớp. Tôi đã trao đổi, bàn bạc với phụ huynh mua đủ tài
liệu, đồ dùng học tập để các em học tốt các môn học. Qua cuộc họp, phụ huynh
đã nắm được năng lực học tập của con em mình. Tôi đặc biệt nhấn mạnh đến kĩ
năng đọc của học sinh nhất là những học sinh đọc chưa đạt yêu cầu. Từ đó phụ
huynh có sự đôn đốc, kiểm tra việc đọc ở nhà của các em, giúp các em đọc nhiều
5
và rèn được kĩ năng đọc ( Đọc tất cả thông tin trong mọi môn học chứ không
phải chỉ riêng phân môn Tập đọc). Ngoài ra, phụ huynh cần khuyến khích cho
con em mình đọc thêm truyện, sách, báo…. phù hợp với lứa tuổi vào các ngày
nghỉ ( thứ bảy, chủ nhật) để các em được tiếp xúc với mặt chữ nhiều hơn.
Đến lớp, giáo viên thường xuyên kiểm tra đọc để biết mức độ tiến bộ của
các em, từ đó có biện pháp giáo dục phù hợp[2].
Biện pháp 2: Phân loại học sinh :
Ngay từ đầu năm học, tôi tiến hành phân loại học sinh, ghi vào sổ tay cụ
thể những lỗi phát âm sai của từng học sinh để trong các giờ tập đọc tạo điều
kiện cho các em thực hành sửa sai [3].
Cụ thể :Năm học 2016 – 2017
+ Số em đọc ngọng phụ âm v/b ; tr/ch ; r/d/gi : 4 em.
+ Đọc ngọng vần an/ang ; in/inh ; at/ac ; ut/uc…4… : em.
+ Đọc chậm, đánh vần : 5 em.
+ Đọc đúng, lưu loát : 1 em.
+ Số lượng các em đọc chưa ngắt nghỉ hơi đúng chỗ còn nhiều.
Có những em trình độ đọc còn yếu, đọc sai rất nhiều. Vì thế ngoài việc rèn
đọc ở các tiết chính còn phải bồi dưỡng ở những tiết rèn thêm trong tuần.
Biện pháp 3: Phương pháp rèn đọc trong phân môn Tập đọc :
a/ Nâng cao chất lượng dạy Tập đọc qua việc đọc mẫu của giáo viên:
- Việc đọc mẫu của giáo viên đòi hỏi phải chuẩn mực, chính xác, có tác
dụng làm cơ sở định hướng cho học sinh. Mặt khác không hạn chế việc đọc mẫu
chỉ một hoặc hai lần. Trong quá trình giảng, có thể đọc diễn cảm lại một câu hay,
một đoạn văn hay để diễn tả sắc thái tình cảm của nội dung thông tin. Khi luyện
đọc cá nhân, giáo viên có thể cho học sinh dừng lại để đọc một đoạn văn tập
diễn cảm cho học sinh.
- Giáo viên đọc mẫu phải tốt, diễn cảm để học sinh cảm nhận được cái hay,
cái đẹp của bài Tập đọc. Trong quá trình đọc mẫu giáo viên biết sử dụng các thủ
pháp ngắt, nghỉ hơi đúng chỗ, dùng ngữ điệu, nhấn giọng, hạ giọng, lên giọng…
để làm nổi bật ý nghĩa và tình cảm của tác giả đã gửi gắm vào bài đọc đó. Từ đó
giúp học sinh thấy sôi nổi, hào hứng tham gia vào việc tìm hiểu, khám phá bài
Tập đọc hơn và học sinh có ý thức đọc diễn cảm tốt hơn.
b. Trong một tiết tập đọc, muốn học sinh đọc tốt cần đảm bảo các yếu tố
[2]
sau :
+ Hướng dẫn đọc thành tiếng : Đây là một bước hết sức quan trọng trong
tiết tập đọc. Ở bước này tôi thường dành khoảng 15 - 20 phút trong một tiết học
tập đọc để rèn đọc cho học sinh.
+ Tìm hiểu nội dung bài : Sau khi các em đọc trôi chảy bài tập đọc, tôi hướng
dẫn một cách tỉ mỉ giúp các em hiểu sâu sắc nội dung của bài, cảm nhận được cái
hay, cái đẹp trong bài văn ( bài thơ ). Từ đó sẽ thôi thúc các em thích bài văn( bài
thơ )đó và rất muốn đọc nó. Có như vậy, các em mới đọc được tốt hơn.
6
+ Luyện đọc lại : Đây là một bước mới mẻ so với chương trình cũ. Nó giúp
cho học sinh đọc nâng cao, đọc sáng tạo và giáo viên có thể phát hiện những học
sinh có năng khiếu đọc ở bước này.
Biện pháp 4: Các biện pháp rèn đọc cụ thể:
a/ Luyện đọc thành tiếng:
Muốn cho học sinh đọc thành tiếng tốt, trước hết phải rèn cho học sinh
cách phát âm rõ ràng, tốc độ đọc phải đảm bảo. Để làm được như vậy, tôi đã tiến
hành thực hiện như sau:
- Ngay từ đầu năm học, tôi đã điều tra, phân loại thành từng nhóm để có kế
hoạch bồi dưỡng và uốn nắn. Hàng tháng, tôi ghi rõ mức độ tiến bộ và những lỗi
còn mắc phải của từng học sinh vào một quyển vở riêng để từng bước khắc phục.
- Ví dụ: Cứ một học sinh tôi dành riêng một trang để theo dõi.
Em: Sùng Thị La
Đặc điểm: đọc còn chậm, ngắt nghỉ hơi còn chưa đúng ở các dấu câu, phát
âm còn sai vần ac/at ; ui/ôi
Tháng
Tiến bộ
Tồn tại
Biện pháp
Biết ngắt nghỉ hơi
Đọc còn chậm, còn
Cho luyện đọc nhiều
9
đúng ở các dấu câu sai vần
lần. Phân công học
sinh khá, giúp đỡ
Đã biết phân biệt
Đọc vẫn sai vần ac/at Cho luyện đọc nhiều
các tiếng có vần
lần những tiếng có vần
10
ui/ôi , tốc độ đọc có
ac/at
tiến bộ
Đã phân biệt được
Đôi khi đọc vẫn còn Tiếp tục cho luyện đọc
cách đọc các tiếng
lẫn lộn như bát ngát
nhiều lần những tiếng
có vần ac/at
đọc thành bác ngác
có vần ac/at; giải nghĩa
11
các từ có vần ac/at để
học sinh phân biệt đọc
cho đúng.
Đọc to rõ ràng, trôi Đôi khi đọc còn
Hướng dẫn phân tích
chảy, đã nắm được
nhầm
cấu tạo của các tiếng,
12
cách phát âm các
các từ đọc nhầm để
vần dễ lẫn.
đọc lại cho đúng.
….. …………………… ……………………
…………………… ……………………
………………….
…………
- Khi hướng dẫn học sinh phát âm, tôi thường phân tích cho các em thấy
sự khác biệt của phát âm đúng, phát âm sai.
Ví dụ: Dạy bài “Voi nhà” (TV2 – Tập 2) phần luyện phát âm, tôi đã cho
các em tập phát âm các từ: khựng lại, vục xuống, ngăn lại, quặp vòi, huơ vòi,
lững thững, nhúc nhích.
7
Tôi gọi một em khá đứng lên đọc, sau đó tôi gọi các em khác nhận xét:
Các từ bạn vừa đọc có phụ âm gì khó phát âm? Theo em phải phát âm như thế
nào? Nếu học sinh phát âm sai, tôi hướng dẫn tiếng cần phát âm cụ thể. Chẳng
hạn : v / b.
+ Âm v : Đặt đầu lưỡi xuống hàng dưới rồi bật hơi đẩy đầu lưỡi ra ngoài.
Ví dụ : vui vẻ
+ Âm b : Đặt mặt lưỡi lên mặt hàm trên,bật nhẹ. Ví dụ : bạn bè
- Với các âm khác, tôi cũng hướng dẫn tương tự như trên. Bước đầu dùng
phương pháp này luyện cho học sinh gặp nhiều khó khăn, nhưng lặp đi lặp lại
nhiều lần như thế các em quen dần và dễ sửa hơn.
- Kết hợp với rèn đọc đúng, tôi còn rèn cho các em đọc trôi chảy, đọc hay.
Chính vì vậy, tôi dùng thời gian thích đáng cho việc luyện đọc ở lớp cũng như ở nhà.
+ Ở lớp : Tôi tăng cường sử dụng hình thức đọc theo nhóm, tuỳ theo từng
bài mà chia nhóm khác nhau. Các em trong nhóm lần lượt đọc cho bạn nghe,
những em còn lại nghe có nhiệm vụ sửa lỗi phát âm cũng như cách ngắt nghỉ hơi
cho bạn. Tôi quan sát từng nhóm, lắng nghe học sinh đọc và luôn nhắc nhở các
em phải đọc rõ tiếng, đọc đúng các cụm từ, câu.
Ảnh minh họa
Học sinh luyện đọc theo nhóm [1]
Bên cạnh đó, tôi còn rèn cho học sinh cách đọc diễn cảm. Khi đọc bài tập
đọc hay bất kì một bài văn, bài thơ nào tôi luôn lưu ý các em phải ngắt hơi ở dấu
phẩy, giữa các cụm từ, nghỉ hơi ở dấu chấm và các loại dấu câu khác.
8
Ví dụ: Nhưng kìa, / con voi quặp chặt vòi vào đầu xe / và co mình lôi mạnh
chiếc xe qua vũng lầy. // Lôi xong , / nó huơ vòi về phía lùm cây / rồi lững
thững đi theo hướng bản Tun. //
(Voi nhà- TV2-Tập 2)
Riêng đối với các đoạn thơ, bài thơ tôi còn hướng dẫn cho các em cách
ngắt nhịp đúng quy định sao cho thể hiện được ý đồ của tác giả.
Ví dụ:
Cây dừa xanh / toả nhiều tàu, /
Dang tay đón gió, / gật đầu gọi trăng. //
Thân dừa / bạc phếch tháng năm, /
Quả dừa – / đàn lợn con / nằm trên cao.//
Đêm hè / hoa nở cùng sao, /
Tàu dừa – / chiếc lược chải vào mây xanh. //
Ai mang nước ngọt, / nước lành, /
Ai đeo / bao hũ rượu / quanh cổ dừa. //
(Cây dừa- TV2-Tập 2)
Ảnh minh họa
Học sinh đọc diễn cảm [1]
Ngoài việc hướng dẫn các em đọc ngắt nghỉ đúng ở các dấu câu và các cụm
tư thì việc hướng dẫn các em cách thể hiện giọng khi gặp các dấu câu khác nhau
cũng là điều hết sức quan trọng.
Ngoài ra, ở các bài tập đọc có lời đối thoại, tôi thường hướng dẫn học sinh đọc
theo 2 cách:
- Cách 1: Đọc bình thường, trầm.
9
- Cách 2: Nhấn mạnh lời thoại của nhân vật.
Từ đó, các em sẽ phát hiện ra cách thể hiện lời nói của từng nhân vật và tìm
cách thể hiện lại.
Ví dụ: Voi nhà (TV2-T2)
- Thế này thì hết cách rồi !
(Giọng đọc thể hiện tâm trạng thất vọng khi xe bị sự cố)
- Chạy đi ! Voi rừng đấy !
(Giọng đọc thể hiên sự hoảng hốt khi voi xuất hiện)
- Nó đập tan xe mất. Phải bắn thôi !
(Giọng đọc thể hiện sự lo lắng)
Song song với việc đọc trong nhóm, tôi luôn tổ chức cho các nhóm thi
đọc trước lớp để kiểm tra quá trình luyện đọc nhóm của các em. Ở phần này, tôi
thường cho từ hai đến ba nhóm thi đọc với nhau. Học sinh còn lại lắng nghe, và
đưa ra nhận xét đồng thời bình chọn bạn đọc hay nhất, nhóm đọc tốt nhất. Dựa
vào phần đọc này, tôi nhận xét và tuyên dương những em đọc có tiến bộ và nhẹ
nhàng chỉ ra điểm chưa tiến bộ để các em nhận biết và cố gắng hơn. Các nhóm
chưa thi đọc sẽ rút kinh nghiệm từ nhóm đã đọc để nhóm mình đọc được tốt hơn
trong tiết rèn buổi chiều.
Bên cạnh đó tôi còn cho các em đọc tốt hơn kèm một số em đọc chưa tốt
để cùng nhau tiến bộ [5].
Ảnh minh họa
+ Ở nhà: Sau mỗi buổi học, tôi dặn các em về đọc những bài cho buổi học
hôm sau. Sau đó, tôi giao cho từng đôi bạn ( ngồi cùng một bàn ) kiểm tra lẫn
nhau vào đầu giờ học tới. Các em có thể nêu câu hỏi để kiểm tra lẫn nhau như :
Bài tập đọc đó có tựa là gì ? dài hay ngắn ? có mấy nhân vật ? ….. Hoặc các em
có thể yêu cầu lẫn nhau đọc lại một đoạn hoặc một khổ thơ trong bài. Bằng cách
kiểm tra như vậy, tôi luôn nắm rõ em nào về nhà có đọc bài, em nào chưa đọc
bài để nhắc nhở kịp thời.
b/ Luyện đọc thầm :
Sau khi đã rèn đọc thành tiếng, tôi tiến hành cho các em đọc thầm để tìm
hiểu nội dung bài. Thường thì khi giáo viên yêu cầu học sinh đọc thầm thì chỉ có
10
một số em đọc, còn một số em cũng nhìn sách nhưng không đọc. Để khắc phục
tình trạng này, tôi đã hướng dẫn các em :
+ Tập trung vào bài, phải đọc đầy đủ các tiếng trong câu. Đọc bằng mắt.
Khi đọc không dùng tay hay bất kì vật gì để chỉ từng dòng.
+ Trong khi các em đọc thầm, để kiểm tra xem các em có thực sự đọc hay
không, tôi sử dụng nhiều hình thức : Yêu cầu em nào đọc xong thì giơ tay, giáo
viên cùng đọc thầm và theo dõi. Hoặc học sinh đang đọc, yêu cầu cả lớp dừng lại ở
một đoạn nào đó rồi dùng câu hỏi kiểm tra( Em đọc đến đâu ? ….. ) có như vậy các
em mới chú ý tập trung trong đọc thầm. Cứ như vậy lâu ngày thành quen, các em
dần có ý thức đọc thầm và tự giác đọc thầm không cần giáo viên nhắc nhở.
Ảnh minh họa
Học sinh luyện đọc thầm [1]
c/ Luyện đọc lại ( học thuộc lòng) :
Ở phần này, tôi để các em tự do thể hiện để phát huy hết khả năng đọc của
bản thân, miễn là các em đảm bảo được theo các phần luyện đọc thành tiếng ở trên.
Thông thường tôi yêu cầu cho các em tự chọn một đoạn văn hay một khổ
thơ mà mình thích nhất để đọc. Sau đó, đọc theo nhóm đôi ( cứ một bạn đọc tốt
kết hợp với một bạn đọc chưa tốt để giúp đỡ, hướng dẫn cách đọc cho nhau).
Tiếp theo, tôi tổ chức cho các em thi đọc với nhau. Ở các tiết chính khoá tôi
thường cho các em đọc tốt thi đọc trước để các em học sinh khác nhận xét và học
11
tập. Còn những em đọc yếu, đọc chậm tôi dành thời gian cho các em thi đọc trong
tiết rèn buổi chiều, để các em có thời gian luyện đọc và tự tin hơn trong khi đọc.
Trong phần luyện đọc lại ( học thuộc lòng ) tôi luôn thể hiện cho học sinh
thấy rằng “ cô cũng rất thích nghe các em đọc. Cô cũng rất vui nếu các em đọc
đúng, đọc hay” bằng cách luôn chăm chú theo dõi học sinh đọc, thỉnh thoảng
mỉm cười hay gật đầu nhẹ để khuyến khích học sinh. Nếu em nào phát âm chưa
đúng, chưa thể hiện được diễn cảm, chưa thể hiện đúng giọng của các nhân
vật…. thì không bắt học sinh dừng ngay lại để sửa. Vì làm như vậy, các em sẽ
mất hết cảm hứng khi đọc dẫn đến việc đọc hay khó thành công. Khi nhận xét,
đánh giá học sinh đọc, tôi luôn tìm ra ưu điểm của các em để khen ngợi, để các
em tự tin hơn trong quá trình thể hiện của mình. Từ đó, các em có hướng phấn
đấu cố gắng đọc được tốt hơn.
Tóm lại: Trong quá trình dạy học, muốn học sinh đọc tốt giáo viên không
những phải có phương pháp dạy học tốt mà cón phải có thái độ ôn hoà, cởi mở,
hoà nhã với học sinh. Kiên trì uốn nắn, sửa cách đọc cho các em, để các em tiếp thu
bài một cách nhanh nhất. Bên cạnh đó tôi còn khuyến khích các em đọc thêm sách
báo trong thư viện, qui định các em đi đọc sách ở thư viện ít nhất mỗi tuần một lần.
Hàng tuần, tôi tổ chức cho các em thi đọc thơ vào tiết sinh hoạt ngoại khoá. Tôi qui
định thơ phù hợp với lứa tuổi và không nằm trong sách giáo khoa. Phần thưởng
dành cho những em đọc hay có thể là một bông hoa điểm mười hay một lá cờ đỏ để
cắm vào góc năng khiếu của lớp.
Với hình thức tổ chức trên, học sinh lớp tôi phụ trách , đặc biệt là những
học sinh đọc chậm, đọc còn phải đánh vần cũng đã tích cực tham gia vào các
hoạt động cùng với các bạn, đã tăng cường lên thư viện nhiều hơn. Nhờ đó, các
em đã khích lệ nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Biện pháp 5: Đổi mới phương pháp dạy học[6]
Đổi mới phương pháp dạy học là một hiện tượng xã hội cái gì cũ kỹ, lọc
hậu thì không thể tồn tại và phải được thay thế bằng sự tiến bộ phù hợp với xu
thế cảu thời đại mới. Phương pháp dạy học cũng nằm trong quy luật đó.
Đổi mới phương pháp dạy học xong điều kiện hiện nay được hiểu là trên
cơ sở phát huy tính tích cực của phương pháp truyền thống vận dụng những biện
pháp dạy tiên tiến vào nhà trường tiểu học nhằm nâng cao, chất lượng và hiệu
quả giáo dục mà vẫn đảm bảo tính hoạt động ổn định của nhà trường.
Đổi mới phương pháp dạy học chính là sự tích cực hoá hoạt động của
người học lấy người học làm trung tâm trong đó thầy cô giáo đóng vai trò là
người tổ chức các hoạt động của học sinh thông qua hoạt động học mỗi học
sinh đều được hoạt động, đều được bộc lộ mình và đều có cơ hội phát triển.
Dạy học Tiếng việt bên cạnh các phương pháp đặc biệt gắn với từng loại
bài là các phương pháp dạy học có thể sử dụng nhiều loại bài học.
+ Phương pháp thực hành:
Thực hành là phương pháp được sử dụng nhiều trong dạy học nói chung
và trong dạy học Tiếng việt nói riêng. Hình thức cốt lõi thực hiện phương pháp
12
thực hành là làm bài tập có thể dùng phương pháp này để dạy tri thức, để rèn
luyện kỹ năng và khả năng giao tiếp Tiếng việt cho học sinh. Hình thức phổ biến
để hình thành kiến thức cho học sinh Tiểu học là thông qua thực hành. Dạy thực
hành Tiếng việt trong giao tiếp là xây dựng nên các tình huống giao tiếp. Sau đó,
dùng biện pháp sắm vai để thực hiện các tình huống giao tiếp này.
+ Phương pháp sử dụng tình huống có vấn đề:
Dạy học việc vấn đề là đòi hỏi học sinh tham gia giải quyết các vấn đề do
tình huống đặt ra. Tình huống có vấn đề đóng vai trò quan trọng dạy học nêu
vấn đề. Phải có tình huống có vấn đề mới thực hiện được phương pháp dạy học
nêu vấn đề. Thông qua việc tham gia giải quyết vấn đề trong tình huống cụ thể,
học sinh vừa nắm vững tri thức vừa phát triển tư duy sáng tạo. Phương pháp sử
dụng tình huống có vấn đề có nhiều khả năng phát tính độc lập suy nghĩ và trí
sáng tạo của học sinh.
+ Phương pháp thảo luận nhóm:
Phương pháp chủ yếu khi học theo nhóm là thảo luận nhóm: Thảo luận là
cách học tạo điều kiện cho học sinh luyện tập kỹ năng giao tiếp, khả năng hợp
tác và khả năng thích ứng với hoàn cảnh xung quanh. Thông qua thảo luận ngôn
ngữ và tư duy của học sinh trở nên linh hoạt và sinh động hơn.
* Điều kiện đảm bảo thành công cho việc thảo luận là:
- Các đề tài đưa ra thảo luận vừa sức, mởi mẻ để kích thích được hứng thú
suy nghĩ của học sinh. Nếu để quá học sinh chóng chán, nếu khó quá học sinh
không có kiến thức trao đổi, cuộc thảo luận sẽ trở nên bế tắc.
- Không lạm dụng quá nhiều hình thức thảo luận nhóm:
Cần xen kẽ hình thức thảo luận nhóm với các hình thức tổ chức học tập khác.
- Có em nhóm trưởng điều khiển hoạt động của nhóm các ý kiến thảo luận
cần được ghi chép lại để dễ cho việc trình bày kết quả thảo luận.
- Kết quả làm việc của nhóm cần được có ý kiến góp ý của các nhóm bạn và
giáo viên.
+ Phương pháp sử dụng các trò chơi học tập.
Là hình thức học tập thông qua trò chơi, nhằm góp phần củng cố tri thức
kỹ năng học tập cho học sinh.
Trong quá trình dạy học nhằm làm cho việc hình thành kiến thức và rèn luyện
kỹ năng của học sinh bớt đi vẻ khô khan tăng thêm phần sinh động hấp dẫn.
Đổi mới phương pháp dạy học được thực hiện trong bối cảnh đổi mới
giáo dục Tiểu học nói chung và đổi mới hình thức tổ chức lớp học.
Hình thức tổ chức lớp học là cách thức tổ chức sắp xếp học sinh của lớp
thành các đơn vị học tập khác nhau trong quá trình dạy học. Có các hình thức tổ
chức lớp học sau:
- Học theo lớp: Tổ chức học chung toàn lớp
- Học theo nhóm: Tổ chức nhiều nhóm để trao đổi bàn bạc về một nội dung
bài học.
13
- Học cặp đôi: Hai cá nhân gần nhau cùng trao đổi thảo luận về một nội
dung, về một câu hỏi được giáo viên nêu ra.
- Học cá nhân: Tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực của học sinh. Từng
cá nhân làm việc độc lập để cùng thực hiện một nhiệm vụ học tập nào đó.
Sự phối hợp các hình thức tổ chức lớp học khác nhau tạo nên sự mềm
dẻo, linh hoạt và sinh động cho quá trình dạy học. Nó cho phép giáo viên có thể
sử dụng nhiều biện pháp và phương pháp dạy học khác nhau.
Quan trọng hơn nó tạo điều kiện cho giáo viên cá thể hoá việc dạy học,
tạo cơ hội cho mọi học sinh đều được tham gia vào hoạt động học tập, tạo cho
học sinh cách làm việc tập thể theo nhóm cách phối hợp với bạn bè trong công việc
cách chủ động tự tin trình bày ý kiến cá nhân. Đối với việc dạy học Tiếng việt, phối
hợp các hình thức tổ chức lớp học nêu trên tạo môi trường thuận lợi cho việc giao
tiếp, cho việc rèn luyện 4 kỹ năng sử dụng Tiếng việt.
Đổi mới phương pháp dạy học đã vận dụng quan điểm tích hợp:
Vừa hình thành kỹ năng vừa cung cấp tri thức trong các tri thức cung cấp
cho học sinh ngoài những tri thức Tiếng việt còn có các tri thức về khoa học tự
nhiên và xã hội. Việc hình thành các kỹ năng sử dụng Tiếng việt muốn có hiệu
quả cao phải được thực hiện không chỉ ở bài học Tiếng việt mà còn có ở những
bài học thuộc những môn học khác như nội dung dạng từ trong phân môn tập
đọc (tích hợp phân môn luyện từ và câu) dùng từ đặt câu.
Tập đọc: Luyện đọc là kỹ năng trung tâm (luyện đọc thành tiếng và đọc
hiểu) có kết hợp ôn luyện âm vần, nghe, nói, vốn từ… Trong các bài chính tả kết
hợp cho học sinh làm quen với dấu câu; các bài kể chuyện: Luyện kể kết hợp
với luyện nghe, nói…
Các phân môn như tập đọc, chính tả, tập viết, kể chuyện tập hợp quanh
trục chủ điểm và các bài đọc.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Với một số biện pháp rèn kĩ năng đọc cho học sinh như trên, tôi đã trực
tiếp áp dụng trên lớp mình phụ trách kết quả như sau:
Đọc rõ ràng, mạch lạc, Đọc to, đôi chỗ ngắt Đọc nhỏ, chưa biết
Sĩ số
ngắt nghỉ đúng.
nghỉ chưa đúng
ngắt nghỉ
14
6 em = 42,8%
8 em = 57.2%
0
- Học sinh ở trong lớp đã có sự tiến bộ, mặc dù đến thời điểm giữa học kì II
vẫn còn vài em đọc còn chậm. Nhưng nhìn chung, các em đều đã đạt được yêu
cầu của tốc độ đọc là 45 tiếng/1 phút, đọc lưu loát, trôi chảy và đã biết ngắt nghỉ
hơi ở các dấu câu, các cụm từ. Sự tiến bộ đó của học sinh giúp tôi tự tin hơn khi
vận dụng các biện pháp này vào giảng dạy. Song bản thân tôi thấy công việc
nghiên cứu các biện pháp rèn kĩ năng đọc không dừng lại ở phân môn Tập đọc
mà cần phải lồng ghép vào nhiều môn học khác. Vì vậy, tôi nhận thấy mình cần
phải học thêm rất nhiều về kinh nghiệm từ bạn bè, đồng nghiệp và tham khảo
14
nhiều tài liệu hơn nữa để tìm tòi, áp dụng vào việc giảng dạy để đưa chất lượng
học sinh ngày một cao hơn.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Khi dạy tập đọc chúng ta cần hướng cho các em những kỹ năng, những
hiểu biết gần gũi nhất trong kinh nghiệm trong vốn sống của các em. Từ đó nâng
dần lên kỹ năng giao tiếp hình thành nhân cách con người mới.
- Rèn luyện cho học sinh khả năng đọc thể hiện bằng giọng điệu của riêng
mình, làm sao cho người nghe hiểu được ý văn bản được đọc.
- Thường xuyên rèn kỹ năng đọc đúng để tránh được sự phát âm sai theo
vùng miền.
- Việc áp dụng phương pháp mới để dạy 4 kỹ năng (nghe - nói - đọc - viết)
nhằm đáp ứng được nhu cầu nhận thức của thế hệ trẻ ngày nay đòi hỏi phải có
những nét đổi mới tư duy, nên mỗi giáo viên chúng ta phải đổi mới cách dạy là một
điều tất yếu.
Kết quả thực nghiệm ban đầu cho thấy những biện pháp chúng tôi đề xuất đã
có tính khả thi. Tuy nhiên ở quy mô nhỏ hẹp (ở đơn vị trường miền núi) nếu được
phổ biến trên diện rộng hiệu quả đạt được như mong muốn. Đây chính là dấu hiệu
phát triển tốt của việc dạy tập đọc nói riêng. Tiếng việt nói chung và môn học này
cũng chính là bàn đạp mạnh mẽ cho việc học các môn học khác. Đáp ứng được
nguyện vọng và nhu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục nước nhà.
3.2. Kiến nghị.
Từ những việc làm cụ thể và thực tế đạt được, tôi đã rút ra bài học kinh
nghiệm cho bản thân như sau:
* Đối với giáo viên:
Nắm rõ hoàn cảnh của từng học sinh.
Nắm chắc chất lượng đọc của lớp mình.
Phân loại và quan tâm đến mọi đối tượng học sinh trong lớp ngay từ đầu
năm học.
Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy và phương pháp đọc, giáo viên đọc mẫu
phải chuẩn, hay để lôi cuốn học sinh vào bài học.
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá việc đọc của học sinh, ghi nhận kết
quả của các em dù chỉ là một tiến bộ rất nhỏ.
* Đối với phụ huynh học sinh:
Mua đủ đồ dùng học tập cho các em.
Khuyến khích các em đọc thêm sách, báo, truyện thiếu nhi vào các ngày
nghỉ.
Thường xuyên quan tâm và nhắc nhở việc học ở nhà của các em.
* Đối với học sinh:
- Chuẩn bị kĩ bài ở nhà.
- Đọc bài trước bài ở nhà nhiều lần.
- Tham gia tích cực các hình thức luyện đọc trên lớp.
15
- Thường xuyên đọc sách báo.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của bản thân tuy đã nhiều cố gắng
song do trình độ và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, thời giàn còn hạn
hẹp, cho nên chắc chắn không tránh khỏi được những sai sót tôi rất mong nhận
được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp để Sáng kiến kinh
nghiệm của tôi được hoàn thiện và vận dụng vào thực tế dạy - học.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày
tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan SKKN này là do tôi
tự viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký, ghi rõ họ tên)
Hà Thị Nguyên
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tranh ảnh, số liệu của lớp 2 khu Lóng, trường Tiểu học Tam Chung
năm học: 2016 – 2017.
2. Dạy tập đọc - Lê Phương Nga - NXB Giáo dục - 2003.
3. Phương pháp dạy học Tiếng Việt - Lê Phương Nga, Nguyễn Trí
4. Sách giáo viên Tiếng Việt 2 (tập hai) - Đặng Thị Lanh - NXB Giáo dục
- 2002.
5. Phương pháp dạy học Tiếng Việt II - Lê Pương Nga, Nguyễn Trí- NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội - 2003.
6. Dạy học Tiếng Việt cho học sinh Tiểu học theo chương trình mới Nguyễn Trí - NXB Giáo dục 2003.
17