Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Thực trạng việc dạy tập đọc ở trường tiểu học và một số biện pháp rèn đọc cho học sinh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.08 KB, 11 trang )

Thực trạng việc dạy tập đọc ở trờng tiểu học và một số
biện pháp rèn đọc cho học sinh.
I. Đặt vấn đề: "Đọc thông viết thạo".
Trở thành quán ngữ cho tuổi học sinh Tiểu học. Đã học điều đầu tiên là
phải đọc thông, tức là đọc đúng, đọc hiểu- viết thạo tức là viết đúng chính
tả, mẫu chữ, đủ, đúng ý, câu.
Giáo dục trong giai đoạn hiện đại coi trọng môn Tiếng Việt đặc biệt là
"rèn kỹ năng phát triển lời nói". "Dạy ngôn bản nói và viết ở bậc Tiểu học"
qua chuyên đề bồi dỡng thờng xuyên. Vì nó phản ánh đúng thực tế việc
giảng dạy Tiếng Việt ở trờng học với mục đích cơ bản là thực hành giao tiếp.
Cần hiểu một cách đầy đủ, thì từ việc dạy viết cho từng con chữ cho đến viết
trọn một bài văn đều nhằm vào mục đích giao tiếp viết chữ xấu hay đẹp, viết
văn hay dở đều có ảnh hởng trực tiếp đến giao tiếp. Vì thế việc dạy đọc và
viết ở bậc tiểu học lại càng cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết.
Tập đọc là phân môn quan trọng nhất trong chơng trình Tiếng Việt ở
Tiểu học. Dạy tốt môn này không những rèn luyện cho học sinh kỹ năng
đọc mà còn phát triển ở các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều kiện cho các
em học tốt các phân môn từ ngữ, ngữ pháp chính tả, tập làm văn Phân
môn tập đọc đợc bố trí số tiết nhiều hơn các phân môn khác. Có đọc tốt thì
mới hiểu nội dung, yêu cầu hoặc cảm nhận đợc cái hay, cái đẹp của bài văn,
bài thơ và hiểu rõ ý nghĩa giao tiếp.
Phân môn tập viết (chính tả ) là kết quả của phần đọc, nghe, nói .Khi
đã đọc thông hiểu rõ thì việc viết và trình bày quả là đơn giản .Ngợc lại nếu
không viết đợc thì không hiểu đúng- sai, cảm thụ đợc hay hoặc dở và có
quá trình giao tiếp kém.
Tuy nhiên việc dạy đọc (tập đọc ), viết(tập viết,Chính tả) ở bậc tiểu học
hiện nay còn có những hạn chế và thiếu sót nhất định ảnh hởng không tốt
đến chất lợng học tập của học sinh .Vì thế tôi mạnh dạn nêu một số biện
pháp cụ thể .Phạm vi bài viết việc dạy học tập đọc và rèn đọc ở trờng tiểu
học Trung Đô.
II. Thực trạng đọc ở trờng tiểu học


1. Thực tế ở trờng học sinh phát âm sai lỗi theo khu vực, giáo viên cha
khéo léo tổ chức để tất cả học sinh đều làm việc .Qua dự giờ tôi thấy giáo
viên giảng giải nhiều về các từ khó, về nội dung, ý nghĩa của bài mà xem
nhẹ phần luyện đọc hoặc là phân bố thời gian không hợp lí ,một số học
sinh không chú ý nghe giảng, nên khi bạn đọc không nghe vì thế lúc cần
đọc tiếp hoặc nhận xét bạn đọc các em thờng lúng túng và thờng không đáp
ứng đợc yêu cầu của giáo viên .
Trong bài tập đọc có một số từ khó: khó về mặt ngữ nghĩa hoặc khó
về cách đọc.Việc giảng từ khó luyện đọc, từ khó cần đợc đặt ra trong quá
trình luyện đọc. Khi đợc đặt trong văn cảnh, trong môi trờng ngôn ngữ học
sinh dễ đọc, dễ hiểu các từ khó đó thế mà một số giáo viên lại tách việc
giảng từ khó luyện đọc và các từ khó thành môt mục riêng và tiến hành mục
này sau khi đã đọc xong bài .
- Giáo viên cha sử dụng có hiệu quả nhiều cách đọc, cha rèn luyện
cho học sinh đọc những câu văn dài, đọc phân vai, đọc diễn cảm.
- Giáo viên cha thực sự hiểu hết cái đẹp, cái hay trong bài thơ, bài văn
để truyền thụ cho học sinh .
- Học sinh đọc ngắt nghỉ tuỳ tiện, không lấy hơi để đọc câu văn dài .
Tóm lại: Hoạt động đọc có nhiều mục đích, đọc sao để ngời nghe :
+ Nắm đợc chủ đề, cốt chuyện.
+ Hiểu đợc nghĩa và ý ( ý1, ý2 )
+ Biết đợc thái độ của tác giả.
+ Bộc lộ đợc thế giới nội tâm của mình
Thực tế ở trờng, một số giáo viên và học sinh cha đáp ứng đợc yêu cầu
đó.
2.Khảo sát thực tế :
Qua kiểm tra thực tế ở 5 khối lớp với yêu cầu trung bình đọc đúng,
đọc rõ ràng . Cha yêu cầu đọc diễn cảm, đọc sáng tạo vào thời gian 5/10
của năm học, với kết quả cụ thể:
a) Phần đọc văn.

Lớp Số lợng Đọc khá
tốt
Đọc TB Đọc yếu Vừa đọc vừa đánh
vần
1B 10 em 1 3 3 3
2B 10 em 1 4 3 2
3B 10 em 2 4 3 1
4B 10 em 3 2 3 2
5B 10 em 5 3 2 0
b) Phần đọc thơ.
Lớp Số lợng Đọc khá
tốt
Đọc TB Đọc yếu Vừa đọc vừa đánh
vần
1B 10 em 2 2 3 3
2B 10 em 2 5 2 1
3B 10 em 3 4 3 0
4B 10 em 5 3 2 0
5B 10 em 5 4 1 0
III. Nguyên nhân:
+ Giáo viên cha tự rèn luyện, nghiên cứu để nâng cao năng lực chuyên
môn đặc biệt là kiến thức Tiếng Việt.
+ Giáo viên cha sử dụng hiệu quả nhiều cách đọc
Thí dụ : Đọc thầm (bằng mắt hoặc mấp máy môi) đọc cá nhân, đọc
nối tiếp, đọc phân vai
-Không hớng dẫn học sinh đọc theo thể loại: văn, thơ-thơ 5-7 chữ, thơ
6-8, văn kể, văn hội thoại, văn sinh hoạt giáo viên mới chú ý đến đọc
đúng câu, ngắt nghỉ đúng chỗ, cha chú ý đọc hay, đọc diễn cảm.Vì thế các
lớp đầu cấp đọc diễn cảm chiếm tỉ lệ thấp.
- Cha luyện đọc cho học sinh những câu văn dài .

Thí dụ: Bài Đoàn tàu thống nhất (TV3 Tập 2, tr77).
Giáo viên đọc mẫu cha hay, cha diễn cảm, còn ảnh hởng tiếng địa ph-
ơng (khu vực) âm lợng nặng cha truyền cảm, dẫn đến học sinh đọc cũng
đậm nét địa phơng, không phân biệt âm cuối "đao tai"- đau tai, hoặc một số
tiếng, từ:
trong - trông
sao - sau
nghĩ - nghị
sửa chữa - sửa chựa
Khi soạn bài giáo viên không tập (định hớng ) chia thời gian cho hợp
lí với bài giảngvà cha nắm vững thứ tự các bớc lên lớp nên đã tách phần
giảng từ khó và đọc từ khó thành một bớc.
Để khắc phục những thiếu sót này giáo viên phải xác định mục đích
của giờ học là luyện đọc kết hợp với giảng từ, giảng ýcho học sinh. Thông
qua giờ tập đọc để học sinh cảm thụ ý văn hay hình ảnh đẹp do tác giả viết
nên mà giáo viên là ngời hớng dẫn, gợi mở, học sinh hiểu chủ động tiếp thu
một cách thú vị và tích cực, thoải mái, khám phá nhiều điều mới mẻ.
IV. Một số biện pháp :
- Khi dạy các bài tập đọc cụ thể ở các lớp cụ thể, giáo viên đọc kĩ bài
để đặt nhiều câu hỏi gợi mở, sát đối tợng học sinh lớp dạy, tránh giảng giải
triền miên, nói nhiều, viết nhiều trong lúc học sinh đọc còn yếu.
- Tập trung hơn vào việc rèn đọc những câu văn dài - đoạn văn của
bài đọc, sửa cách đọc cho học sinh tận tình chu đáo, quan tâm đến t thế đọc,
khoảng cách từ mắt đến sách 30-35cm.
- Cần chú ý đến các lớp đầu cấp (lớp 1-2) học sinh đọc củng cố âm
vần, vần khó, tiếng khó trong khi học sinh đọc. Giáo viên chú ý những em
đọc yếu kết hợp khi dạy các bộ môn khác, giáo viên lu ý đến cách phát âm
rõ, chính xác, trả lời gãy gọn .
Giáo viên cần quyết tâm dứt điểm tình trạng học sinh không đọc đợc
sau 3-4 tuần đầu lớp 2.

-Tiến đến chấm dứt đọc ê a đồng thời có nhiều biện pháp hớng dẫn
kiểm tra việc đọc thầm của từng cá nhân, chú ý rèn đọc cho học sinh trong
cả giờ học thuộc, hớng dẫn các em đọc nhẩm, đọc thầm, học thuộc trên cơ
sở nắm chắc mặt chữ (tránh thuộc vẹt, thuộc truyền khẩu) giáo viên giúp
học sinh cách ghi nhớ cho chóng thuộc .
- Đối với học sinh lớp 3, 4, 5 giáo viên có thể tổ chức thi đọc đúng,
đọc rõ mạch lạc, đọc hay, đọc diễn cảm. Đọc theo thể loại văn, thơ, hội
thoại, đối thoại, (phân vai) - Đọc tiếp sức, đọc để tìm hiểu từ ngữ, câu theo
dấu ngắt. Đoạn văn hay cần đọc theo trờng độ, cao độ, hạ giọng để cảm thụ.
ở lớp 3:
Bài: Mùa xuân xinh đẹp đã về (tập viết 3 tập 2). (Tô Hoài)
Bài thơ: Tình quân dân (Hoàng Trung Thông)
Lên thăm nhà Bác (Hằng Phơng)
Đọc đối thoại, phân vai bài: Các em nhỏ và cụ già
(V.A.XU.Khôm-Lin-Xki)
ở lớp 4 : thi đọc thơ 5 tiếng qua bài: Ngày khai trờng (Bùi Vợi)
Mẹ vắng nhà ngày bão (Đặng Hiển)
Thi đọc thơ lục bát bài : Nghe thầy đọc thơ (Trần Đăng Khoa)
Mẹ (Bằng Việt)
Thi đọc bài văn với câu văn dài với nội dung tả cảnh sinh hoạt trong
bài :
Buổi sáng ở Hòn Gai ( Thi Sảnh)
Trên công trờng khai thác than (Trần Nhuận Minh)
ở lớp 5 :Thi đọc bài: Anh về cùng mùa hoa (Tạ Hữu Yên)
Cây vũ sữa trong vờn bác (Quốc Tấn)
Thi đọc văn bài: Đêm trăng hành quân về đồng bằng (Khuất Quang Thuỵ)
Ngời thợ rèn (Ê-Nim-Dô-La)
Qua cuộc thi giáo viên còn nêu ra những câu hỏi về nội dung, nghệ
thuật, cách viết văn mà nhà thơ, nhà văn thể hiện .
- Khuyến khích học sinh mạnh dạn, hứng thú trong việc diễn đạt ý

nghĩ cá nhân (bằng cách cho điểm tuyên dơng kịp thời khi học sinh trả lời
câu hỏi hoặc nhận xét bạn đọc, bạn trả lời )
Đặc biệt chú ý rèn sửa cách diễn đạt khi học sinh trả lời câu hỏi sao
cho thành câu rõ ý, tiến tới biết dùng câu trong sáng, mạch lạc, có hình ảnh,
tránh kiểu trả lời "cộc lốc", "vuốt đuôi" thiếu ý.
- Hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa giúp học sinh tìm hiểu bài
đọc và rèn luyện ngôn ngữ .Tuy nhiên tuỳ theo đối tợng học sinh cụ thể, câu
hỏi cần đợc giáo viên xem xét kĩ sao cho sát hợp, tránh "máy móc".
Trờng hợp cần thiết giáo viên có thể sửa lại, soát đối tợng hoặc thậm
chí có thể bớt đi nếu tình hình lớp dạy còn nhiều em đọc yếu, ít có điều
kiện đọc bài văn .
-Thông qua việc rèn đọc cho học sinh đọc tốt, đọc diễn cảm bài tập
đọc , học thuộc lòng, giáo viên hớng dẫn học sinh cảm thụ cái hay, cái đẹp
của bài văn là một yêu cầu quan trọng .Có những bài văn, bài thơ đợc cảm
nhận bằng trực giác, nhiều khi rất khó nói ra bằng lời vì vậy giáo viên tránh
đặt ra nhiều câu hỏi và gặng hỏi quá nhiều đối với học sinh ở lớp 2,3 giúp
các em tiếp thu bài văn một cách tự nhiên hứng thú để từ đó nâng cao năng
lực cảm thụ của trẻ .
- Để đạt một giờ giảng tốt, học sinh nắm vững bài đòi hỏi giáo viên
phải nghiên cứu kĩ nội dung , yêu cầu của bài học từ đó tìm hiểu thêm tài
liệu, số liệu thực tế để liên hệ vào bài giảng một cách hài hoà gây ấn tợng
đẹp cho học sinh .
- Thông qua bài soạn giáo viên phải phân chia thời gian, bố cục bài
dạy một cách hợp lí tránh quá nhấn mạnh phần này mà giảm nhẹ phần kia.
(Mặc dầu bài soạn đợc phép soạn bổ sung) nếu giáo án còn ghi đợc cả dự
kiến các đối tợng học sinh đọc từng đoạn, từng câu, có sữa chữa thì càng tốt
.
Ngời giáo viên luôn mang trong mình những suy nghĩ tìm hiểu, ghi
chép tích luỹ những ý thơ, áng văn hay hoặc là những cảnh đẹp mà đâu đó
các nhà thơ, nhà văn đã diễn tả thông qua lối viết văn tả cảnh, kể chuyện, t-

ờng thuật
V. Một số kết quả bớc đầu:
Từ những nguyên nhân và lí do ở trên, tôi suy nghĩ tìm ra một số biện
pháp để giáo viên vận dụng, thể nghiệm vào những bài dạy, bài học kết quả
đã đợc nâng lên, Cụ thể ở các lớp đầu cấp (lớp 1-2)số học sinh đọc đúng ,
rõ chính xác tiếng từ nhiều hơn.Vào thời điểm tháng 4/2004.
Lớp Số lợng Xuất
sắc
Đọc khá
tốt
Đọc TB Đọc yếu ê a ngắc
ngứ
1B 10 em 10% 70% 18% 2% 0
2B 10 em 15% 70% 13% 2% 0
ở lớp 3,4,5 qua cuộc thi đọc thơ, đọc văn và hiểu nội dung bài thì số học sinh đọc
diễn cảm và hiểu nội dung bài tơng đối khá.
Lớp Số lợng Xuất
sắc
Đọc khá
tốt
Đọc TB Đọc
yếu
ê a ngắc
ngứ
3B 10 em 20% 60% 18% 2% 0
4B 10 em 18% 56% 22% 4% 0
5B 10 em 22% 69% 8% 1% 0
Trên đây là những tài liệu có thực đã thể hiện trên 5 khối lớp, kết
quả đã đợc nâng lên.
Tóm lại: Chất lợng đọc diễn cảm của học sinh phụ thuộc vào nhiều

yếu tố, trong đó vai trò của ngời giáo viên rất quan trọng. Dễ nhận thấy
rằng khi giáo viên đọc diễn cảm tốt, có phơng pháp giảng dạy sát đối tợng
thì lớp học có nhiều em đọc diễn cảm tốt. Để đọc mẫu tốt, giáo viên phải
rèn luyện khá công phu về cả giọng đọc, kĩ thuật đọc lẫn năng lực cảm thụ
văn học. Tìm hiểu kĩ bài văn để cảm thụ sâu sắc, tinh tế sẽ tìm đợc cách đọc
hấp dẫn và ngợc lại cứ thử đọc to lên bài văn, bài thơ nhiều lần cũng giúp ta
cảm thụ tốt hơn.
Dĩ nhiên khi lên lớp còn nhiều tình huống s phạm mới mẻ cần đợc xử
lí mà bản thân ngời giáo viên không thể chủ động đợc, giáo viên lên lớp
giống nh nghệ sĩ tài ba trên sân khấu .
Trên đây là những biện pháp mà trờng chúng tôi đã vận dụng để có
kết quả ở trên.
Mong bạn đọc, đồng chí, đồng nghiệp góp ý chân thành giúp cho bản
kinh nghiệm này hoàn chỉnh hơn./.

×