Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng phân môn tập làm văn cho học sinh lớp 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.55 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐẠO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HOÁ

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HỌC PHÂN
MÔN TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH LỚP 2

Người thực hiện: Nguyễn Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Điện Biên 2
SKKN Thuộc lĩnh vực môn: Tiếng Việt

THANH HÓA, NĂM 2017

1


MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU…………………………………………………………….…..1
1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu………………………………………………….…2
3. Đối tượng nghiên cứu…………………………………………………....2
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………...2
II. NỘI DUNG……………………………………………………………...2
1. Cơ sở lý luận……………………………………………………………..2
2. Thực trạng………………………………………………………………..3
3. Các biện pháp nâng cao chất lượng học môn Tập làm văn Lớp 2….........4
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm…………………………………...11
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ………………………………………...11
1. Kết luận………………………………………………………………....11
2. Kiến nghị……………………………………………………………….12


Tài liệu tham khảo………………………………………………………...13
Danh mục các đề tài Sáng kiến kinh nghiệm đã được hội đồng
đánh giá xếp loại các cấp……………………………………………….....14

2


I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường nói chung và của
bậc Tiểu học nói riêng, hiện nay vấn đề cải cách giảng dạy không phải là mối
quan tâm của một cá nhân nào, mà đó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội.
Chính sự đổi mới phương pháp giáo dục bậc tiểu học sẽ góp phần tạo con
người mới một cách có hệ thống và vững chắc.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng chung của sự đổi mới phương pháp dạy
học ở bậc tiểu học là làm sao để giáo viên không chỉ là truyền thụ kiến thức mà
còn là người tổ chức, định hướng cho học sinh hoạt động, để học sinh huy động
vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân vào việc chiếm lĩnh tri thức mới.
Như chúng ta đã biết: Tiếng Việt vừa là môn học chính, vừa là môn công cụ
giúp học sinh tiếp thu các môn học khác được tốt hơn. Rèn luyện các kỹ năng
nói (nghe, đọc) và sản sinh lời nói (nói, viết) giúp học sinh có năng lực dùng
tiếng Việt để học tập, giao tiếp ở môi trường hoạt động của lứa tuổi. Để thực
hiện tốt mục tiêu này, mỗi phân môn Tiếng Việt đều có thể và có nhiệm vụ hình
thành, phát triển cho học sinh kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Tuy nhiên, nhiệm vụ
này được thực hiện tập trung hơn cả ở phân môn Tập làm văn.
Chương trình Tập làm văn hiện nay rất có ưu thế để thực hiện nhiệm vụ
phát triển lời nói cho học sinh đặc biệt là ở dạng văn nói: về thời lượng, về cấu
trúc chương trình và nội dung. Qua mỗi tiết Tập làm văn, học sinh có điều kiện
để nói, từ nói đúng, nói đủ đến nói hay, độc lập và sáng tạo… Tuy nhiên, năng
lực lời nói của học sinh có phát triển được hay không điều đó cũng phụ thuộc

vào cách tổ chức hướng dẫn hoạt động giao tiếp của giáo viên, phụ thuộc vào
việc vận dụng linh hoạt lý thuyết hoạt động lời nói vào trong dạy học và sử dụng
phối hợp các phương pháp dạy học khi lên lớp.
Nội dung Tập làm văn lớp 2 cung cấp cho học sinh các kĩ năng nói, viết,
nghe, phục vụ cho học tập và giao tiếp. Ngoài các dạng bài dạy về các nghi thức
lời nói tối thiểu, về một số kĩ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày, phân
môn Tập làm văn lớp 2 cũng rèn cho học sinh kĩ năng nghe và kĩ năng diễn đạt.
Thực tế, đầu năm lớp 2 hầu hết học sinh chỉ nói được những câu ngắn, trả lời
chưa đủ ý, diễn đạt cũng rời rạc. Các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn
hiểu biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết câu còn
lộn xộn, câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng còn
chưa nghĩa. Việc trình bày, diễn đạt ý rất sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả.
Chính vì muốn các em có khả năng hiểu Tiếng Việt hơn, biết dùng từ một
cách phù hợp trong các tình huống (chia vui, chia buồn, an ủi, đề nghị, xin lỗi)
nên ngay từ đầu năm học, tôi đã hướng dẫn các em mở rộng hiểu biết về Tiếng
Việt qua các phân môn trong môn Tiếng Việt, đặc biệt là phân môn Tập làm văn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Một số biện pháp nâng cao
chất lượng học phân môn tập làm văn của học sinh lớp 2”.
3


2. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn cho việc phát
triển lời nói cho học sinh tiểu học qua học phân môn Tập làm văn lớp 2.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng học Tập làm văn cho
học sinh lớp 2.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Quá trình học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Nhằm làm rõ về mặt

lý thuyết vai trò khi sử dụng các biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn
Tập làm văn của học sinh lớp 2.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế: Phân loại đối tượng học sinh từ
đầu năm để có biện pháp thích hợp.
- Phương pháp thực nghiệm: Dùng để kiểm nghiệm vai trò của các biện
pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn của học sinh lớp 2.
- Phương pháp thống kê toán học.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Hiện nay đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, có nhiều đổi mới: đổi
mới về kinh tế, xã hội, giáo dục …Sự phát triển giáo dục của nước ta giúp cho
những chủ nhân tương lai của đất nước có điều kiện phát triển toàn diện về năng
lực, trí tuệ, tính cách. Qua việc nắm bắt các kiến thức, tri thức khoa học ban đầu
để từ đó hình thành nên những kĩ năng cần thiết của cuộc sống, hành động đúng
cho bản thân .
Tiếng Việt là môn học có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh Tiểu
học, bởi nó là môn học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong
giao tiếp hằng ngày. Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em
những cơ sở của thế giới quan khoa học, góp phần hình thành tình cảm, rèn
luyện đạo đức tốt đẹp của con người mới. Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng
mẹ đẻ, giúp các em hình thành 4 kỹ năng cơ bản: Nghe, nói, đọc, viết. Phân môn
Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ 4 kỹ năng trên. Nó rèn cho các em
diễn đạt trôi chảy, kĩ năng gắn kết các câu nói với nhau.
Đối với học sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các
em, vốn kiến thức và hiểu biết rất hạn hẹp. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn
khách quan như: Điều kiện hoàn cảnh sống của một bộ phận học sinh ở địa bàn
dân cư khó khăn, gia đình không có điều kiện để quan tâm đến các em, việc diễn
đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ…
Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học phân môn Tập làm
văn nói riêng. Môn Tập làm văn lớp 2 giúp các em học sinh thực hành rèn luyện


4


các kỹ năng nói, viết, nghe, đọc, phục vụ cho việc học tập và giao tiếp hằng
ngày, cụ thể:
* Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu, như: Chào hỏi; tự giới thiệu;
cảm ơn; xin lỗi; mời, nhờ, yêu cầu, đề nghị; chia buồn, an ủi; chia vui, khen
ngợi; ngạc nhiên, thích thú; đáp lại lời chào, lời tự giới thiệu; đáp lời cảm ơn;
đáp lời xin lỗi…
* Thực hành về một số kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày,
như: Viết bản tự thuật ngắn, lập danh sách học sinh, tra mục lục sách, đọc thời
khoá biểu, nhận và gọi điện thoại, viết nhắn tin, lập thời gian biểu, chép nội quy,
đọc sổ liên lạc.
* Thực hành rèn luyện về kỹ năng diễn đạt (nói, viết), như: Kể về người
thân trong gia đình, về sự vật hay sự việc được chứng kiến; tả sơ lược về người,
vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc câu hỏi...
* Thực hành rèn luyện về kỹ năng nghe: Dựa vào câu hỏi gợi ý để kể lại
hoặc nêu được ý chính của mẩu chuyện ngắn đã nghe.
Như vậy, môn Tập làm văn trong Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 không chỉ
giúp học sinh nắm các nghi thức tối thiểu của lời nói và biết sử dụng các nghi
thức đó trong những tình huống khác nhau, như ở nơi công cộng, trong trường
học, trong gia đình, với những đối tượng khác nhau như: Bạn bè, thầy cô, bố
mẹ, người xa lạ...mà còn là việc nắm các kỹ năng giao tiếp thông thường khác;
tạo lập văn bản phục vụ đời sống hằng ngày; nói, viết những vấn đề theo chủ
điểm quen thuộc.
2. Thực trạng:
Qua thực tế giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm nhiều năm, tôi nhận thấy,
muốn học sinh viết tốt đoạn văn, trước hết học sinh phải viết đúng yêu cầu và
nhận thức được tầm quan trọng của phân môn Tập làm văn.

Thực tế hiện nay, việc rèn cho học sinh viết đoạn văn tốt chưa được giáo
viên chú tâm nhiều. Bên cạnh đó, nhiều học sinh khi viết bài còn viết cẩu thả,
không đúng yêu cầu, lan man, không đủ số câu, sai ý, trình bày ý lộn xộn, thiếu
tự nhiên, sai nhiều chính tả,… Hơn thế nữa, một số em thiếu tự tin trong giờ Tập
làm văn dễ dẫn đến hậu quả là các em chán nản, thiếu quyết tâm trong học tập.
Cụ thể chất lượng khảo sát học sinh lớp tôi đối với phân môn Tập làm văn
giai đoạn đầu năm như sau:
Lớp 2A6
(46 em)
Trước khi thực
hiện SKKN

Mức độ 1

Mức độ 2

Mức độ 3

16 em
(34,8%)

18 em
(49,1%)

12 em
(26,1%)

Mức độ 4
0


Mức độ 1: Các em chưa biết diễn đạt ý của mình.

5


Mức độ 2: Các em chỉ nói được những câu ngắn chưa đủ ý.
Mức độ 3: Các em diễn đạt câu rời rạc.
Mức độ 4: Các em diễn đạt được các câu có hình ảnh, đúng mục đích.
Là một giáo viên giảng dạy ở lớp 2, tôi rất băn khoăn, trăn trở: Làm thế nào
để giúp các em thực hiện được mục tiêu đề ra? Để khắc phục tình trạng này, đòi
hỏi người giáo viên phải có kinh nghiệm và sáng tạo trong giảng dạy, phải thật
kiên trì, nhẫn nại, giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của môn học.
Từ đó, giáo dục cho các em ý thức rèn luyện bài viết của mình đạt yêu cầu cao
hơn.
3. Các biện pháp nâng cao chất lượng học phân môn Tập làm văn lớp 2.
3.1. Đối với dạng bài kể ngắn:
Biện pháp 1: Lập nội dung chương trình giảng dạy các dạng bài kể
ngắn.
Chương trình Tập làm văn lớp Hai gồm ba dạng bài cơ bản:
* Dạng bài luyện tập về nghi thức lời nói tối thiểu.
* Dạng bài luyện tập các kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hằng ngày.
* Dạng bài kể ngắn.
Ba dạng bài này có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Bài tập của dạng bài này
ngoài tác dụng rèn luyện kĩ năng cho chính dạng bài đó, còn có tác dụng hỗ trợ
cho dạng bài khác. Ví dụ: Bài 1 (tuần 1): Tự giới thiệu – Câu và bài. Bài này
ngoài việc rèn luyện kĩ năng về nghi thức lời nói (tự giới thiệu) cũng có tác dụng
hỗ trợ cho việc rèn luyện kĩ năng nói, kể. Chẳng hạn bài tập 2: Nghe các bạn
trong lớp trả lời các câu hỏi ở bài tập 1, nói lại những điều em biết về một bạn.
Hay bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành
một câu chuyện. Để tiện việc nghiên cứu, soạn bài và chuẩn bị tốt cho các tiết

dạy dạng bài kể ngắn và tả ngắn, tôi lập nội dung chương trình như sau:
Tuần

Nội dung bài dạy

Lưu ý

1

Tự giới thiệu – Câu và bài

Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể

3

Sắp xếp câu trong bài – Lập danh Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể
sách HS

5

Luyện tập về mục lục sách

7

Kể ngắn theo tranh – Luyện tập về Bài tập 1: Kể ngắn
thời khóa biểu

8

Mời nhờ, yêu cầu, đề nghị – Kể Bài tập 2: Kể ngắn

ngắn theo câu hỏi

Bài tập 1 có tác dụng rèn kĩ năng kể

6


10

Kể về người thân

Trọng tâm cả tiết là rèn luyện
kĩ năng kể ngắn.

13

Kể về gia đình

Trọng tâm cả tiết là rèn luyện kĩ
năng kể ngắn.

15

Chia vui – Kể về anh, chị, em

Bài tập 3 có tác dụng rèn kĩ năng kể

16

Khen ngợi – Kể về con vật – Lập Bài tập 2: Kể ngắn

thời gian biểu.

Biện pháp 2: Lập mạng từ then chốt để dạy tốt dạng bài kể ngắn.
Thực tế, tư duy trừu tượng của học sinh lớp 2 rất hạn chế. Việc yêu cầu học
sinh kể ngay một sự việc nào đó dù là ngắn cũng rất khó khăn với các em. Do
vốn từ của các em hạn chế và nhất là việc sắp xếp ý, vì thế tôi tổ chức cho học
sinh lập mạng từ then chốt để phục vụ cho việc kể ngắn.
Ví dụ: Dạy bài Kể về gia đình em. Cuối tiết tập làm văn trước, tôi dặn dò
học sinh về nhà dựa vào câu hỏi gợi ý lập mạng từ chốt (khoảng 4 – 5 từ). Trong
tuần, trước khi học tập làm văn, tôi thường xuyên kiểm tra và nhắc nhở việc lập
mạng từ chốt của học sinh. Ngoài việc tổ chức học sinh lập mạng từ chốt, tôi
cũng lập một mạng từ chốt và ghi vào bảng phụ để chuẩn bị cho tiết dạy.
Ví dụ: Mạng từ chốt (những từ ngữ) cần dạy bài Kể về gia đình: Năm
người, ông nội, cha, mẹ, chị và em, nông dân, cần cù, vui tính, học giỏi, yêu
quý,... Đến giờ tập làm văn, tôi cho các em cầm mạng từ chốt để kể. Đối với học
sinh học tốt, tôi khuyến khích các em thoát ly mạng từ chốt để kể tự nhiên hơn.
Đối với học sinh học chưa tốt, tôi cho các em nhìn vào mạng từ chốt của giáo
viên để kể. Để đánh giá hiệu quả của biện pháp này, tôi thực hiện 2 tiết dạy ở 2
lớp 2A5 và 2A6. Bài dạy: Kể về người thân. Kết quả HS lớp 2A5 còn lúng túng
trong việc diễn đạt ý cần nói và viết câu văn cũng lủng củng, nhiều em dùng từ
viết câu chưa chính xác. Qua tiết dạy, tôi nhận thấy biện pháp đó đạt hiệu quả tốt
và vận dụng vào thực tế dạy học.
Biện pháp 3: Dạy học tốt các bài “Trả lời câu hỏi”, “Tập nói”, … để làm
nền cho học sinh kể ngắn tốt.
Kiến thức – Kĩ năng Tập làm văn lớp Hai được sắp xếp từ dễ đến khó một
cách hợp lý. Đầu lớp Hai, các em được thực hiện các bài tập “Trả lời câu hỏi”
(Tuần 1, tuần 5, tuần 8, tuần 14), bài tập “Nói lại – nhắc lại” (Tuần 1, tuần 2),
sau đó nâng lên một bước HS được làm các bài tập “Sắp xếp lại thứ tự các
tranh và dựa theo nội dung các tranh để kể lại câu chuyện”, “Sắp xếp lại các
câu cho đúng thứ tự của truyện …”. Do đó để giúp học sinh kể tốt, tôi tổ chức

các biện pháp giúp các em thực hiện tốt các bài tập trên. Ngoài việc yêu cầu học
sinh trả lời đúng nội dung, tôi yêu cầu các em phải trả lời đủ câu.
Ví dụ: Bài Tập làm văn tuần 5.
7


Câu hỏi:
- Bạn trai đang vẽ ở đâu? Trả lời: Đang vẽ ở trên tường (câu cụt). Trả lời
đầy đủ: Bạn trai đang vẽ ở trên tường. Tôi yêu cầu các em phải trả lời lại cho đủ
thành phần của câu. Thực hiện nhiều lần như thế, kết quả các em có thói quen
trả lời đủ câu. Đây cũng là cơ sở để các em kể chuyện tốt.
Đối với dạng bài tập “Kể lại theo tranh”, “Sắp xếp lại thứ tự các tranh,
sau đó dựa theo nội dung các tranh ấy, kể lại câu chuyện”, “Dựa vào tranh, trả
lời câu hỏi”, “Dựa vào tranh vẽ, kể chuyện…”, tôi gợi ý cho HS thêm các từ
ngữ để kết nối ý giữa các tranh cho câu chuyện thêm sinh động. Đầu tiên tôi gợi
ý để các em học tốt thực hiện trước, sau đó nhân ra cho cả lớp.
Ví dụ: Tuần 1, HS làm bài tập “Kể lại nội dung dưới đây bằng 1, 2 câu để
tạo thành một câu chuyện”. Theo yêu cầu của đề bài học sinh có thể kể: “Huệ
cùng các bạn vào vườn hoa (tranh 1). Huệ thấy một khóm hồng đang nở rất đẹp
(tranh 2). Huệ giơ tay định ngắt bông hồng. Tuấn thấy thế vội ngăn lại (tranh
3). Tuấn khuyên Huệ không được ngắt hoa (tranh 4).Tôi gợi ý cho học sinh
thêm từ, câu... như sau:“Một hôm, Huệ cùng các bạn vào vườn hoa (tranh 1).
Thấy một khóm hồng đang nở rất đẹp, Huệ thích lắm (tranh 2). Huệ len lén giơ
tay định ngắt một bông hồng. Tuấn thấy thế vội ngăn lại (tranh 3). Tuấn khuyên
Huệ không nên ngắt hoa trong vườn. Hoa của vườn hoa phải để cho tất cả mọi
người cùng ngắm (tranh 4).
Biện pháp 4: Tăng cường luyện nói, luyện kể, thông qua phân môn Tập
đọc, Kể chuyện.
Như chúng ta đã biết, sở dĩ học sinh diễn đạt còn hạn chế do một phần
trong học tập các em ít được nói, nhất là những em có tính rụt rè (Phương An,

Hồng Anh, Minh Thư, Phong). Do đó tôi tạo điều kiện cho các em được nói, kể
nhiều trong quá trình dạy học. Không những chỉ trong phân môn Tập làm văn
mà trong các phân môn Tập đọc, Kể chuyện tôi cũng tạo điều kiện để mọi học
sinh được nói, được kể. Chương trình môn Tiếng Việt lớp Hai có thuận lợi là các
bài Tập đọc đầu tuần đều là những truyện kể và cũng là nội dung để học sinh tập
kể chuyện.Tôi đã tận dụng thuận lợi này để giúp các em được rèn luyện kĩ năng
nói, kể như sau:
+ Đối Với phân môn Tập đọc: Khi học sinh trả lời câu hỏi, tôi hướng dẫn
trả lời theo giọng kể cho phù hợp với văn kể chuyện và có tác dụng giúp các em
trau dồi kĩ năng kể. Ngoài việc rèn đọc, tôi dành thời gian 5 phút tập kể lại từng
đoạn của truyện.
+ Đối với phân môn Kể chuyện: Tôi hướng dẫn để giúp cho tất cả các em
đều phải kể được câu chuyện. Đối với những em có tính rụt rè, ít nói, tôi kiên trì
giúp đỡ các em kể cho bằng được. Lúc đầu chỉ yêu cầu các em kể được một
đoạn, sau đó nâng dần yêu cầu lên. Cách làm như sau: Đầu tiên tôi gợi ý trả lời
từng câu. Ví dụ dạy bài “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Tôi chỉ tay vào hình
vẽ số 1 và hỏi: “Ngày xưa có một cậu bé như thế nào?” (… làm việc gì cũng
8


mau chán). Hỏi tiếp: “Khi học bài cậu học như thế nào?” (…chỉ đọc vài dòng đó
ngáp ngắn ngáp dài rồi bỏ dở). Hỏi tiếp: “Lúc tập viết cậu thế nào?” (… chỉ nắn
nót được mấy chữ đầu, rồi lại viết nguệch ngoạc). Sau mỗi câu trả lời, tôi khen
ngợi để khích lệ, động viên. Sau khi các em trả lời xong, tôi chuyển qua cho các
em chưa mạnh dạn kể, một lát sau, tôi quay lại cho em học sinh lúc đầu kể lại
đoạn 1.Trong một tiết, chỉ cần giúp đỡ cho một đến hai em rụt rè. Tôi kiên trì
hướng dẫn, kích thích các em luyện nói. Ví dụ: Cho em đó nhắc lại câu trả lời
của bạn. Qua mỗi tiết học, phải rèn cho học sinh được nói ít nhất là một đến hai
câu, nhất là những câu chuyện liên quan đến Tập làm văn.
Biện pháp 5: Thực hiện tốt quan điểm tích hợp để nâng cao chất lượng

môn Tập làm văn.
Quan điểm biên soạn sách giáo khoa Tiếng Việt 2 thể hiện từ 3 quan điểm:
Quan điểm dạy học giao tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt
động học tập của học sinh. Theo quan điểm tích hợp, các phân môn (Tập đọc,
Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập làm văn) trước đây ít gắn bó với
nhau, nay được tập hợp lại xung quanh trục chủ điểm; các nhiệm vụ cung cấp
kiến thức và rèn luyện kĩ năng cũng gắn bó chặt chẽ với nhau hơn trước. Thực
hiện tốt quan điểm tích hợp góp phần khắc phục tình trạng “nghèo ý tưởng và
vốn từ” cho học sinh, giúp học sinh diễn đạt tốt.
* Dạy tốt phân môn Chính tả.
Ví dụ: Khi dạy bài chính tả “Cô giáo lớp em”, trong phần củng cố, tôi cho
nhiều học sinh, nhất là các em còn yếu nhắc lại hình ảnh cô giáo (Cô đến lớp
sớm, cô rất chịu khó, thương yêu học sinh, luôn tươi cười với học sinh), tình
cảm của học sinh đối với cô giáo, (yêu quý cô giáo, ngắm những điểm mười cô
cho), để phục vụ cho bài Tập làm văn “Bút của cô giáo” và bài “Kể ngắn về cô
giáo”. Nhờ thực hiện biện pháp này trong tiết Tập làm văn, học sinh kể chuyện
mạch lạc, tự nhiên.
* Dạy tốt phân môn Luyện từ và câu.
Ví dụ 1: Tuần 1, phân môn Luyện từ và câu có Bài tập 3: “Hãy viết một
câu nói về người hoặc cảnh vật trong mỗi tranh sau”.Tôi tạo điều kiện cho tất
cả học sinh đều làm được bài tập này để phục cho bài tập làm văn cuối tuần (Kể
lại nội dung mỗi tranh dưới đây bằng 1, 2 câu để tạo thành một câu chuyện). Để
tất cả học sinh đều làm được bài tập này tôi tổ chức như sau: Sau khi học sinh
xác định được yêu cầu của đề bài, tôi tổ chức hoạt động nhóm đôi hỏi - đáp về
nội dung trong tranh. Sau đó tôi chỉ định những em học sinh học chưa tốt phát
biểu trước để uốn nắn, sửa chữa.
Ví dụ 2: Tuần 7, phân môn Luyện từ và câu có Bài tập 2: ″Tìm từ ngữ chỉ
hoạt động của người trong mỗi tranh dưới đây”.
Bài tập 3: Kể lại nội dung mỗi tranh trên bằng một câu. Tổ chức học sinh
thực hành tốt hai bài tập này sẽ giúp các em học tốt tiết Tập làm văn cuối tuần:


9


Dựa vào tranh vẽ, hãy kể câu chuyện có tên Bút của cô giáo. Cách tiến hành
tương tự như ví dụ 1.
3.2. Đối với dạng bài: Viết đoạn văn ngắn
Viết một đoạn văn ngắn về:
- Cô giáo (hoặc thầy giáo) của em.
- Một người thân.
- Gia đình.
- Một em bé.
- Các mùa trong năm.
- Kể một việc làm tốt.
- Một con vật.
- Một loài chim.
- Tả ngắn về biển.
- Tả ngắn về một loài cây.
- Một loài hoa.
- Viết về Bác Hồ.
Để tránh tình trạng học sinh lớp 2 không làm được bài hoặc viết lan man
quá nhiều câu dẫn đến lạc đề, giáo viên giúp học sinh cần biết làm như thế nào
để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy. Do vậy
tôi xin đưa ra những biện pháp sau nhằm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn
tốt hơn.
Biện pháp 1: Giúp học sinh lập hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng.
Trong chương trình, hầu hết các bài văn đều có câu hỏi gợi ý rõ, đầy đủ.
Giáo viên có thể tranh thủ thời gian cuối tiết học hướng dẫn học sinh chuẩn
bị, đọc câu hỏi gợi ý, suy nghĩ bài viết cho tiết sau. Hoặc chuẩn bị phần tự học
khi ở nhà, trước khi lên lớp. Đối với những bài không có câu hỏi gợi ý, giáo

viên có thể soạn, cung cấp cho các em.
Ví dụ:
Bài viết về một người thân:
- Người thân của em là ai?
- Năm nay người ấy bao nhiêu tuổi? Làm công việc gì?
- Tình cảm của người ấy đối với em ra sao?
- Em sẽ làm gì để đền đáp lại sự quan tâm của người ấy dành cho em?
Bài viết kể về một việc làm tốt mà em hoặc bạn em đã làm:
- Em (hoặc bạn em) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì?
- Em (hoặc bạn ấy) đã làm như thế nào?

10


- Em suy nghĩ gì khi làm (hoặc thấy bạn làm) việc tốt đó?
Biện pháp 2: Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một
đoạn văn.
* Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết: Có thể diễn đạt bằng một
câu.
* Phát triển đoạn văn: Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi gợi ý
có thể diễn đạt 2 đến 3 câu hoặc nhiều hơn tùy theo năng lực học sinh.
* Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm suy nghĩ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của
đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Viết về một con vật.
- Con vật em định kể là con vật gì?
- Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
- Hoạt động của nó có gì nổi bật?
- Vì sao em thích con vật đó?
Câu mở đầu: Giới thiệu con

chó.

Nhà em có nuôi một con chó tên là Ki Ki.

Phát triển: Kể về con chó.

Nó có bộ lông màu vàng mượt như tơ. Đôi mắt
của nó rất sáng và đôi tai vểnh lên trông mới đáng
yêu làm sao! Nó thường nằm trước cửa để giữ nhà.

Câu kết thúc: Tình cảm của Hằng ngày, em thường cho nó ăn. Em rất yêu quý
em đối với con chó này.
con chó của nhà em.
Giáo viên cần giúp cho học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm các
em được phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động
hình thành kỹ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và
đòi hỏi các em phải thể hiện được ngay những kỹ năng mới được hình thành.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải kiên nhẫn, luôn tái hiện và lặp lại kiến
thức cho học sinh trong suốt năm học, giúp học sinh có được nền móng tốt cho
việc học tập môn Tập làm văn ở các lớp trên.
Biện pháp 3: Tăng cường ôn tập củng cố, mở rộng kiến thức cho học
sinh.
- Giáo viên phải nắm các dạng đề Tập làm văn ở lớp 2 để tổ chức ôn tập
cho học sinh.
Khi học sinh được ôn tập tốt, kiến thức được hệ thống hóa một cách chắc
chắn, phân biệt rõ đặc điểm của các đối tượng sẽ giúp các em tránh được những
nhầm lẫn đáng tiếc, ảnh hưởng đến chất lượng bài viết của các em.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần liên hệ những nội dung kiến thức
có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
11



câu với phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về
sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề, giúp học sinh có kiến thức, không bỡ
ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh biết
vận dụng kỹ năng thực hành để bài viết đạt kết quả.
Ví dụ:
Khi học về chủ đề “Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” (từ tuần 10 đến tuần 16),
với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương yêu trong gia đình,
cùng với những tiết học phân môn Luyện từ và câu cung cấp, mở rộng vốn từ
ngữ cho học sinh.
Giáo viên hướng dẫn học sinh hình thành đoạn văn trên cơ sở các câu hỏi
gợi ý :
* Các bước hình thành:
- Hướng dẫn học sinh làm miệng, trả lời miệng từng câu hỏi. Gợi ý cho học
sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
- Nhận xét, sửa chữa những câu trả lời chưa đúng; cung cấp và gợi ý để các
em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể hướng dẫn mẫu các câu
văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn (khuyến khích
học sinh học vận dụng tốt, không bắt buộc tất cả các đối tượng học sinh thực
hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung cấp
các thành ngữ so sánh, cách nhân hóa nhưng không đưa những thuật ngữ này ra
với đối tượng học sinh lớp 2).
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để
hoàn chỉnh bài làm miệng.
- Cho một số học sinh làm miệng cả bài. Sau đó hướng dẫn học sinh viết
liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
- Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước, nhằm khích
lệ tinh thần học tập của học sinh
Biện pháp 4: Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét và chữa bài.

Đây là việc làm hết sức cần thiết, giúp học sinh nhận ra lỗi sai để tự điều
chỉnh, sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập
nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi
sai.
Ví dụ:
- Lỗi về dùng chưa đúng nghĩa của từ.
- Lỗi về kết hợp từ .
- Lỗi dùng thừa từ, lặp từ.
- Lỗi dùng từ không đúng phong cách.
- Lỗi dùng từ thiếu hình ảnh, cảm xúc…

12


Trong quá trình chấm bài, giáo viên phát hiện, giúp học sinh khắc phục,
biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ cho phù hợp. Đối với những bài làm có ý hay,
giáo viên giúp học sinh gọt giũa, trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn.
Khi sửa bài, giáo viên nên tuân theo các bước chủ yếu sau:
- Phát hiện lỗi.
- Phỏng đoán nguyên nhân mắc lỗi.
- Căn cứ vào nguyên nhân để xác định cách chữa.
Giáo viên giới thiệu những bài làm hay ở năm học trước, hoặc những bài
hay của học sinh trong lớp cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau
về cách diễn đạt trong cùng một đề tài, để các em hiểu rằng: Những bài làm thể
hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được khích lệ và tôn trọng.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi sử dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy kết quả học tập phân môn
Tập làm văn của lớp tôi có nhiều tiến bộ, các em thích thú, háo hức, chờ đợi đến
giờ học Tập làm văn để thể hiện mình trước bạn bè và thầy cô giáo. Các em rất
tự tin mỗi khi khám phá, viết đoạn văn theo cách riêng của mình. Với niềm đam

mê đó, bài viết của các em đạt yêu cầu rất cao. Nhiều em diễn đạt trôi chảy, gãy
gọn, rõ ràng, hấp dẫn và phong phú hơn trong phân môn Tập làm văn. Nhiều em
học giỏi hơn và chất lượng môn Tiếng Việt rất khả quan. Cụ thể kết quả học tập
phân môn Tập làm văn giai đoạn hiện nay của lớp tôi như sau:
Lớp 2A6
(46 em)
Trước khi thực
hiện SKKN
Sau khi thực
hiện SKKN

Mức độ 1

Mức độ 2

Mức độ 3

Mức độ 4

16 em
(34,8%)

18 em
(49,1%)

12 em
(26,1%)

0


0

7 em
(15,2%)

11 em
(23,9%)

28 em
(60,9%)

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Xác định được vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc dạy Tập làm văn cho
học sinh Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp Hai nói riêng, tôi nhận thấy
việc hướng dẫn cho các em phương pháp học phân môn Tập làm văn là hết sức
cần thiết.
Dạy Tập làm văn mà chỉ thiên về cung cấp những kiến thức thì phân môn
Tập làm văn sẽ trở nên nghèo nàn và buồn tẻ biết bao. Mỗi bài “Tập làm văn” là
một dịp cho các em có thêm kiến thức và kĩ năng chủ động tham dự vào cuộc
sống văn hoá thường ngày. Vì vậy, giáo viên cần hết sức linh hoạt để làm cho
tiết “Tập làm văn” trở thành một tiết học hứng thú và bổ ích. Điều quan trọng là
cần căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào trình độ học sinh và
13


năng lực, sở trường của giáo viên; căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
từng trường, từng lớp mà lựa chọn, sử dụng kết hợp các phương pháp và hình
thức dạy học một cách hợp lý, đúng mức.
Mỗi khi nhìn đoạn văn của học sinh với những dòng chữ đều tăm tắp, sạch

sẽ, diễn đạt đủ số câu, ý phong phú, hấp dẫn người đọc thì cả cha mẹ và thầy cô
đều dấy lên một niềm vui, sự hãnh diện và thiện cảm; tin vào tương lai con trẻ.
Việc dạy cho học sinh biết cách học tốt môn Tập làm văn còn là môi trường
quan trọng bồi dưỡng cho trẻ những phẩm chất tốt như: Tính cẩn thận, chịu khó,
tự tin, óc tư duy, sáng tạo... Bên cạnh đó, tôi nhận thấy rằng, những em tiếp thu
chậm, việc viết đoạn văn sạch sẽ, rõ ràng là yêu cầu không quá cao, nhưng muốn
viết hay thì yêu cầu trẻ phải kiên nhẫn, gắng công khổ luyện nhiều hơn.
Tôi nghĩ rằng, để gặt hái được nhiều thành công, trong mọi việc đều phải có
lòng say mê và tinh thần quyết tâm thực hiện. Chính vì vậy, ngoài những biện
pháp trên thì người giáo viên còn phải khơi dậy ở các em lòng say mê học tập;
thổi vào học sinh luồng sinh khí mới, khơi gợi ở các em lòng say mê, ham thích
học văn. Giáo viên cần biểu dương, động viên, khích lệ những em học tốt môn
học này, nhằm động viên phong trào học tập ngày một tốt hơn trong nhà trường.
Cần giữ mối liên hệ thường xuyên với cha mẹ học sinh, vì cha mẹ học sinh
là yếu tố quan trọng để cùng với cô giáo chủ nhiệm, giúp các em thực hiện tốt
nhiệm vụ học tập.
Từ thực tiễn giảng dạy, tôi rút ra một số biện pháp mang tính kinh nghiệm
trong dạy phân môn Tập làm văn. Tuy nhiên, dạy Tập làm văn là môn học khó,
và để nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn cho học sinh, nhất là học sinh lớp 2
càng khó hơn nhiều. Tôi rất mong nhận được sự chia sẻ, góp ý kiến của Hội
đồng khoa học các cấp.
2. Kiến nghị
Đề nghị Phòng giáo dục tổ chức thêm nhiều hội thảo, sinh hoạt chuyên môn
cụm để giáo viên các trường có điều kiện học hỏi kinh nghiệm chuyên môn lẫn
nhau.

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết không sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Thị Nga
14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
TT

Tên tác giả

1

Nguyễn Hữu Châu

2

3

4

Nguyễn Minh Thuyết

Tên tài liệu
tham khảo

Nhà xuất bản


Phương pháp dạy học các Nhà xuất bản
môn học ở Tiểu học.
giáo dục
Sách giáo khoa, sách giáo
Nhà xuất bản
viên Tiếng Việt Lớp 2 (tập
giáo dục
1, tập 2).

Bộ giáo dục và Đào tạo

Tạp chí Giáo dục Tiểu
học.

Lưu Thu Thủy

Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên Modun TH
15.
Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên Modun TH
16.

Nhà xuất bản
giáo dục

Năm
xuất
bản
2007


2003
2010
2011
2012
2013
2014
2015

15


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Nga
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên - Trường Tiểu học Điện Biên 2
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)

hoặc C)
1.
Rèn kỹ năng đổi các số đo
độ dài, khối lượng, diện tích,
2.

1998 - 1999

Phòng

B

2006 - 2007

Phòng

C

2013 - 2014

Phòng

C

2015 – 2016

có lời văn bằng sơ đồ.
Một số kinh nghiệm nâng
cao chất lượng viết đoạn văn


4.

B

thể tích cho học sinh lớp 5
Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 4 học tốt giải Toán

3.

Tỉnh

ngắn cho học sinh lớp 2.
Một số biện pháp nâng cao
chất lượng Đạo đức cho học
sinh Tiểu học.

16


17



×