Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu qủa viết bài văn miêu tả cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.52 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

I. PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................

2

1. Lí do chọn đề tài :.................................................................................

2

2. Mục đích nghiên cứu :...........................................................................

3

3. Đối tượng nghiên cứu:...........................................................................

3

4. Phương pháp nghiên cứu :.....................................................................

3

II. NỘI DUNG...........................................................................................

4

1. Cơ sở lí luận ..........................................................................................


4

2. Thực trạng :............................................................................................

4

3.

vận

7

dụng :..................................................................... .
4. Kết quả thực nghiệm..............................................................................

17

III. KẾT LUẬN , KIẾN NGHỊ..................................................................

19

1. Kết

19

luận: ................................................................................................
2. Kiến

19


Các

biện

pháp

nghị ...............................................................................................

1


I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài
Chương trình Tiếng Việt tiểu học phát huy bốn kỹ năng nghe, nói, đọc, viết.
Dạy học tiếng Việt trong trường Tiểu học nói chung và dạy phân môn Tập làm văn
nói riêng là một vấn đề vô cùng quan trọng. Tập làm văn là phân môn mang tính
chất tổng hợp, sáng tạo cao nhất của tất cả các phân môn Tiếng Việt khác ở bậc
Tiểu học: Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu. Ở chương trình Tập làm
văn lớp 4, các loại bài làm văn đều gắn với các chủ điểm. Quá trình thực hiện các
kỹ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, cách sử dụng các hình ảnh trong khi viết văn
là những cơ hội giúp trẻ mở rộng hiểu biết về cuộc sống theo các chủ điểm đã học.
Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả
thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt rườm rà, tối
nghĩa, câu văn chỉ mang tính chất thông báo chứ chưa có hình ảnh, chưa có cảm
xúc. Bởi ở lớp 3, việc viết văn đều dựa trên hệ thống câu hỏi gợi ý, số lượng câu
trong đoạn văn ít, mức độ chưa cao. Lên lớp 4, yêu cầu viết văn ở mức độ cao hơn:
không có hệ thống câu hỏi gợi ý, số lượng câu tăng, phải biết sắp xếp bố cục, dùng
từ, hiểu thế nào là văn miêu tả. Nắm được cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật, cây cối,
con vật (mở bài, thân bài, kết bài). Hiểu rõ vai trò của quan sát trong việc miêu tả
chi tiết của các bài văn. Biết quan sát bằng nhiều giác quan để phát hiện đặc điểm

riêng nhằm phân biệt đồ vật, cây cối, con vật mình đang tả với các đồ vật, cây cối,
con vật khác. Biết chọn lọc các chi tiết để miêu tả, nói và viết được bài văn miêu tả
hoàn chỉnh. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy- học Tập làm văn nhất là
văn miêu tả cho học sinh lớp 4 ? Tôi nhận thấy mình cần phải giúp cho các em cảm
nhận được cái hay cái đẹp trong các bài văn, bài thơ, cuộc sống xung quanh và thể
hiện “cái đẹp” đó bằng ngôn ngữ giàu hình ảnh, các biện pháp so sánh, nhân hóa...
khi miêu tả. Với những lý do trên, tôi đã cố gắng dùng mọi khả năng và kinh
nghiệm của mình để khơi dậy những tiềm năng văn học đang ẩn dấu trong mỗi học
2


sinh, tôi mạnh dạn trình bày “ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn
miêu tả cho học sinh lớp 4”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của sáng kiến này là để giúp học sinh hình thành các kỹ năng quan
sát , phân tích , đưa ra nhận xét, chính kiến của bản thân; biết truyền những rung
cảm của mình vào đối tượng miêu tả; biết sử dụng những từ ngữ có giá trị biểu
cảm, những câu văn sáng rõ về nội dung. Các em có cái nhìn hồn nhiên về thế giới
xung quanh và có tính chân thực khi miêu tả về con người, cảnh vật, đồ vật,… một
cách cụ thể, sống động nhưng nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc sống. Các em biết
sử dụng, vận dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa để bài văn miêu tả được phong
phú và sinh động, nâng cao chất lượng khi làm bài. Qua đó, bồi dưỡng cho các em
tình yêu quê hương đất nước, vốn sống, vốn ngôn ngữ và khả năng giao tiếp.
Một mục tiêu nữa là kích thích hứng thú học tập của học sinh đối với bộ môn
Tấp làm văn nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt
nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng là học sinh lớp 4A, Trường Tiểu học Cổ Lũng –
Năm học 2016 - 2017.
- Chương trình phân môn Tập làm văn lớp 4.

4. Phương pháp nghiên cứu:
4.1. Phương pháp thực hành giao tiếp.
4.2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ.
4.3. Phương pháp nêu và giải quyết vấn đề.
4.4. phương pháp rèn luyện theo mẫu
4.5. Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo. Nghiên cứu rút ra
kinh nghiệm từ thực tế của bản thân và học sinh thông qua cách dạy và cách học.

3


II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận:
Văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến trong
cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là loại văn có tác dụng rất lớn
trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và
khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng của mình, những bài văn
miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp ta cảm nhận được
văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, văn miêu tả
được đưa vào nhà trường từ rất lâu và ngay từ bậc Tiểu học. Đề tài của văn miêu tả
với các em là những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ, các em có thể quan
sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả
mình yêu thích, những con vật nuôi trong nhà.
Bài văn miêu tả nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng, góp
nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới mẻ.
Hơn nữa, bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính chất nghệ thuật cao, mang
tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngôn ngữ trong văn miêu tả là ngôn ngữ
giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ của các biện pháp tu từ. Chương trình Tập làm
văn lớp 4 gồm 62 tiết, trong đó văn miêu tả chiếm 30 tiết ( 7 tiết học kì I và 23 tiết
học kì II). Trong đó bao gồm:


+ Kĩ năng miêu tả : 1 tiết
+ Miêu tả đồ vật : 10 tiết
+ Miêu tả cây cối : 11 tiết
+ Miêu tả con vật : 8 tiết

Ngôn ngữ trong văn miêu tả cần cụ thể, giàu hình ảnh và có nét riêng biệt.
Chính vì thế để có bài văn hay đòi hỏi người viết phải biết cách dùng từ ngữ, biết
vận dụng linh hoạt các biện pháp nghệ thuật tu từ được học.
2. Thực trạng:
2.1.

Đối với giáo viên.
4


Qua dự giờ thăm lớp của đồng nghiệp ở trường Tiểu học Cổ Lũng, tôi nhận
thấy: Giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy học, bám sát nội dung trong sách giáo
khoa, biết vận dụng một số hình thức dạy học để học sinh chiếm lĩnh kiến thức.
Song việc vận dụng phương pháp, hình thức dạy lại chưa linh hoạt, giáo viên chưa
chủ động trong việc tổ chức các hoạt động, các hình thức tổ chức dạy học. Giáo
viên chỉ chú trọng lí thuyết, coi nhẹ rèn luyện kĩ năng, chỉ hướng dẫn chung chung
để học sinh tự mày mò.
Như vậy, cách dạy của giáo viên lại thường quá phụ thuộc vào sách hướng
dẫn, hình thức tổ chức dạy học đi theo đường mòn, chưa mang tính sáng tạo, chưa
đào sâu suy nghĩ về các biện pháp để hướng dẫn cho học sinh viết văn một cách có
hiệu quả, chưa mạnh dạn đưa những sáng kiến, ý tưởng của mình vào quá trình
giảng dạy. Nội dung các bài Tập Làm Văn được gắn liền với các chủ điểm , có sự
kết hợp rõ nét với các phân môn khác trong chương trình Tiếng Việt. Để có một bài
văn hay , xúc tích đòi hỏi giáo viên phải phát huy tối đa năng lực học tập và cảm

thụ văn học của học sinh. Mặt khác, giáo viên chưa tổ chức cho học sinh quan sát
thực tế để các em có thể được nhìn tận mắt, sờ tận tay sự vật miêu tả, phát hiện ra
những hình ảnh đẹp, những chi tiết cụ thể nổi bật của đối tượng cần tả vì vốn sống
thực tế sẽ giúp học sinh trình bày suy nghĩ của mình một cách mạch lạc và sống
động.
2.2.

Đối với học sinh.

Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu học ham chơi, khả năng tập
trung chú ý nhận thức các sự vật chưa đầy đủ, năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa thật
phát triển. Số học sinh trong lớp là dân tộc Thái chiếm 96%, hoàn cảnh gia đình
khó khăn, bố mẹ đi làm ăn xa ở nhà với ông bà nên phần nhiều các em thiếu vốn
sống, vốn hiểu biết nên cách diễn đạt câu từ trong nói và viết còn nhiều hạn chế.
Tài liệu tham khảo cho môn Tập làm văn lại không có, các em chưa hiểu được bản
chất các khái niệm, chưa nắm vững được nội dung, yêu cầu của các kiểu bài miêu
tả trong chương trình nên khi làm bài các em miêu tả chung chung, không có sắc
thái riêng biệt của đối tượng cần tả.
5


Năm học 2016-2017, tôi được phân công phụ trách lớp 4A với 25 học sinh.
Sau khi nghiên cứu sách giáo khoa Tiếng Việt 4, qua quá trình giảng dạy nhiều năm
và qua việc dự giờ, để trao đổi chuyên môn với các đồng nghiệp. Tôi nhận thấy
việc làm văn ở lớp 4 còn gặp nhiều khó khăn. Để biết rõ nhưng khó khăn vướng
mắc của học sinh tôi đã tổ chức khảo sát trực tiếp tại 2 lớp để nắm bắt kết quả làm
văn miêu tả của học sinh.
Đề bài: Em hãy tả cái bàn học của em.
Kết quả khảo sát như sau:


Lớp

Số họcĐiểm 9 - 10
sinh
SL
%

4A
25
(Lớp giảng dạy)

1

4B
14
(Lớp đối chứng)

0

4%

Điểm 7 - 8

Điểm 5 – 6

Điểm < 5

SL

%


SL

%

SL

%

5

20%

14

56%

5

20%

4

28,57%

6

42,86%

4


28,57%

Từ kết quả khảo sát trên cho thấy: Khi thực hiện làm văn miêu tả, các em
không biết cách diễn đạt hoặc chưa xác định được trọng tâm đề bài cần miêu tả, về
đối tượng cần tả ví dụ: Ở đề bài này học sinh phải xác định được 2 yêu cầu cơ bản
đó là: yêu cầu về thể loại là Miêu tả (thể hiện ở từ Tả) và yêu cầu về Nội dung và
trọng tâm là Cái bàn học của em . Nhiều em thường liệt kê, kể lể dài dòng, diễn
đạt vụng về, lủng củng (ví dụ: Cái bàn của em làm bằng gỗ, cái bàn của em có hai
ngăn, cái bàn của em đặt ở góc nhà, em rất thích cái bàn của em...). Nhiều em chưa
biết dừng lại để nói kĩ một vài chi tiết cụ thể nổi bật. Vốn từ ngữ của các em còn
nghèo nàn, khuôn sáo, quan sát sự vật còn hời hợt, sắp xếp ý còn lộn xộn (ví dụ:
Bàn của em được kê ở một góc nhà ngay bên cửa sổ nhìn ra vườn cây, từ khi vào
lớp 1 mẹ đã mua cho em một cái bàn ngồi học ở nhà). Các em chưa biết cách dùng
các biện pháp nghệ thuật khi miêu tả, từ ngữ khi tả thiếu chính xác, ít có hình ảnh
(ví dụ: cái bàn cao khoảng 15cm, mặt bàn rất phẳng không có chỗ nào bị xù xì...).
Nhiều bài viết câu không đủ các bộ phận vì các em chưa nắm vững kiến thức, kĩ
năng dùng từ, đặt câu, liên kết các từ trong câu (ví dụ: bàn rộng, ngồi học thoải, rất
6


chắc viết không bị lung lay...)Bởi vậy, thực tế bài làm của học sinh nhiều câu văn
còn mang tính chất sao chép, cứng nhắc, chưa thực tế, không mang tính phát hiện
của bản thân. Đây cũng chính là một thực trạng khiến tôi luôn băn khoăn, trăn trở
về việc làm văn của học sinh lớp 4 năm nay. Trước thực tế ấy, tôi đã luôn suy nghĩ
tìm tòi và tham khảo: Làm thế nào để nâng cao được chất lượng làm văn cho học
sinh? Cuối cùng tôi cũng tìm được một số biện pháp để nâng cao chất lượng và đã
áp dụng những biện pháp đó vào việc dạy dạy học phân môn Tập làm văn nói
chung và việc dạy học làm văn miêu tả ở lớp 4 nói riêng. Tôi xin mạnh dạn chia sẻ
cùng các bạn đồng nghiệp .

3. Các biện pháp vận dụng:
Xuất phát từ thực trạng trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ của một giáo
viên đang đứng trên bục giảng, để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh, để
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm đem lại hiệu quả cao trong
tiết dạy Tập làm văn, bản thân tôi đã tìm tòi và thử nghiệm mạnh dạn đưa ra một số
biện pháp sau:
3.1. Giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng và đặc điểm cơ bản về thể
loại văn miêu tả:
a) Kiến thức:
* Các kiểu bài văn miêu tả trong chương trình lớp 4.
- Miêu tả đồ vật
- Miêu tả cây cối
- Miêu tả con vật
* Hiểu thế nào là miêu tả ?
- Miêu tả là vẽ lại bằng lời những đặc điểm nổi bật của cảnh, của người, của
vật để giúp người nghe, người đọc hình dung được các đối tượng ấy.
* Cấu tạo chung của đoạn văn trong bài văn miêu tả.
- Cấu tạo bài văn miêu tả gồm có 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
+ Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người
miêu tả với đối tượng miêu tả.
7


+ Thân bài: Tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc
nhìn nhất định.
+ Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của
người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
b) Kĩ năng:
* Kĩ năng định hướng hoạt động:
- Nhận diện loại văn bản.

- Phân tích đề.
* Kĩ năng lập chương trình:
- Xác định dàn ý bài văn đã cho.
- Quan sát đối tượng, tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn.
* Kĩ năng thực hiện hóa hoạt động:
- Xây dựng đoạn.
- Liên kết các đoạn văn thành bài văn.
* Kĩ năng kiểm tra đánh giá.
- Đối chiếu văn bản viết của bản thân với mục đích và yêu cầu diễn đạt.
- Sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
c) Đặc điểm cơ bản:
- Văn miêu tả mang tính chất thẩm mĩ, dù miêu tả bất kì đối tượng nào, dù có
bám sát thực tế đến đâu thì miêu tả cũng không bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh lại
những sự vật, hiện tượng một cách máy móc mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng
tượng, đánh giá hết sức phong phú.
- Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của
người viết nhưng như vậy không có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách
tùy ý. Để tả hay, tả đúng thì phải chân thật, giáo viên cần uốn nắn học sinh tránh
thái độ giả tạo, giả dối, bệnh công thức sáo rỗng.
- Trong văn miêu tả, ngôn ngữ sử dụng phải là ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu
cảm xúc, giàu nhịp điệu âm thanh.
3.2. Hướng dẫn học sinh việc quan sát, tìm ý và dựng đoạn:
8


Đối với kiểu bài văn miêu tả, việc quan sát là cơ sở của tìm ý. Vì vậy, tôi thường
nghiên cứu trước chương trình để có kế hoạch hướng dẫn học sinh quan sát trực
tiếp đối tượng cần miêu tả, việc học sinh tự quan sát có khi và tìm ý có thể là ở
trường, cũng có khi các em quan sát ở nhà. Để quan sát có chất lượng, tôi đã hướng
dẫn các em quan sát theo trình tự nhất định (không gian, thời gian, tâm lí) và quan

sát bằng nhiều cách khác nhau (mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi ngửi...). Hành trang
cho việc quan sát có hiệu quả là giấy ,bút cộng với tư duy sáng tạo.
- Tả theo trình tự không gian: Quan sát toàn bộ đối tượng (bao quát) đến quan
sát từng bộ phận (chi tiết), tả từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ trái qua phải,...
(hoặc ngược lại).
- Tả theo trình tự thời gian: Quan sát theo diễn biến của thời gian, cái gì xảy ra
trước (có trước) thì miêu tả trước. Cái gì xảy ra sau (có sau) thì miêu tả sau. Trình
tự này thường được vận dụng khi làm Tập làm văn miêu tả cảnh vật hay tả cảnh
sinh hoạt của người .
- Tả theo trình tự tâm lí: Khi quan sát nhận thấy những đặc điểm riêng, nổi bật
nhất, thu hút và gây cảm xúc mạnh nhất đến bản thân thì quan sát trước, tả trước,
các bộ phận khác tả sau. Khi miêu tả đồ vật, loài vật, tả người nên vận dụng trình tự
này nhưng chỉ nên tả những điểm đặc trưng nhất, không cần phải tả đầy đủ chi tiết
như nhau của đối tượng.
Ví dụ 1: Quan sát và lập dàn ý cho bài văn tả đồ vật.
Đề bài: Tả chiếc đồng hồ báo thức
Dàn ý:
1. Mở bài : Giới thiệu chiếc đồng hồ nhà em( Ai mua ? Vào lúc nào ? )
- Nhân dịp đầu năm học mới
- Mẹ mua cho em chiếc đồng hồ để báo thức
2. Thân bài :
a. Tả bao quát : hình dáng, màu sắc, chất liệu
- Hình dáng tròn, bằng chiếc đĩa đựng trái cây.
- Lóp vỏ bên ngoài làm bằng nhựa
9


- Màu hồng tươi, pha lẫn màu trắng hai bên.
- Chân đế bằng làm bằng sắt xi mạ bóng loáng.
b. Tả chi tiết : mặt số, kim đồng hồ, quả lắc, bộ máy, …..

- Mặt số màu đỏ thẫm, có in hình chú chuột Mickey cầm bó hoa rất ngộ
nghĩnh.
- Có 12 chữ số màu trắng, viền đen
- Có bốn cây kim : kim giờ, kim phút, kim giây và kim báo thức
- Phía dưới có một con lắc hình tròn cũng có in hình chú chuột Mickey lúc nào
cũng lắc qua lại một cách đều đặn.
- Phía sau có một cái hộp màu đen chứabộ máy chính.
3. Kết bài :
- Chiếc đồng hồ rất có ích trong đời sống hàng ngày.
- Nó báo giờ, báo thức giúp em đi học đúng giờ
- Nó còn nhắc nhở mọi người phải biết quý trọng thời gian và dùng thời gian
vào những việc có ích.
* Từ dàn ý liên kết dựng đoạn: VD: “Những con số trên chiếc đồng hồ được
đánh dấu bằng chữ số la mã để em biết được lúc này là mấy giờ, mấy phút. Những
con số này có màu đen đậm, kể cả những bạn cận thị thì vẫn có thể nhìn thật rõ.
Chiếc đồng hồ được làm bằng nhựa cứng rất chắc chắn. Nhưng nếu để bị rơi có
thể nó sẽ hỏng. Bởi vậy mà em bảo quản, giữ gìn chiếc đồng hồ cẩn thận và không
để bị rơi...”
Ví dụ 2: Quan sát và lập dàn ý tả cây cối.
Đề bài: Tả cây bàng ở sân trường em.
Dạy bài này, tôi đã định hướng cho học sinh quan sát trước một cây mà em
thích (cây bóng mát, cây ăn qủa, cây hoa, cây cảnh, ...) và ghi chép ý quan sát
được vào giấy nháp. Đến lớp, giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào yêu cầu bài
tập, sắp xếp các chi tiết đã quan sát được thành một dàn ý chi tiết và liên kết giữa
các ý thành đoạn văn.
Dàn ý:
10


1. Mở bài: Giới thiệu cây bàng + quang cảnh sân trường

- Sân trường em có rộng không? trồng những cây gì?
- Cây bàng nằm ở đâu? Nó ở đó bao lâu rồi?
2. Thân bài:
a. Miêu tả bao quát cây bàng :
- Cao khoảng bao nhiêu mét, tán lá có rộng không?
- Thân cây có sần sùi không?
b. Miêu tả cây bàng trong 4 mùa ;
+ Mùa hè - Bàng lặng lẽ, khoe những chiếc ta to tròn, đợi chờ HS đến,.....
+ Mùa thu - Lá dần chuyển dần màu đỏ, học trò thích nhặt những lá bàng, ....
+ Mùa đông - lá bàng rụng, chỉ còn trơ lại thân cây...
+ Mùa xuân – Những chồi non mới mọc xinh xinh, lá xanh nõn,...
3. Kết bài: Kỉ niệm với cây bàng .
- Em rất yêu quý cây bàng này, xem cây như người bạn thân của mình.
* Từ dàn ý liên kết dựng đoạn: VD: “Mùa đông tới cây bàng lại trở về dáng vẻ
khẳng khiu. Khi mà những chiếc lá đỏ ối rụng gần hết, làn gió mùa heo hút thổi
qua, chỉ còn vài chiếc lá đỏ trơ trọi và đơn độc, lũ học trò chúng em vẫn nô nghịch
dưới gốc bàng nhưng em biết cây bàng phải chịu đựng lạnh giá mùa đông, chiếc
áo ấm xanh mướt đã chẳng còn nữa...”
Ví dụ 3: . Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (Tuần 29)
Dạy bài này tôi đã sử dụng một số tranh và yêu cầu học sinh quan sát ngay
trên lớp trong tiết học. Đến bài Luyện tập, học sinh nêu dàn ý vừa quan sát và ghi
nhanh được, tôi kịp thời chỉnh sửa, bổ sung các ý còn thiếu cho học sinh kết hợp cả
lời nói và chỉ trên tranh minh họa học sinh vừa quan sát.
Đề bài: Tả con gà trống.
Dàn ý:
1 . Mở bài : Giới thiệu con vật muốn tả : Một chú gà trống lai đã trưởng thành.
2. Thân bài :
11



- Tả bao quát: toàn thân được bao phủ lớp lông màu vàng rực pha lẫn những
chiếc lông đen óng ánh, nặng khoảng 2kg.
- Tả từng bộ phận
+ Đầu: cổ cao được bao phủ lớp lông mịn như nhung, mắt sáng, mào đỏ chót.
+ Chân: vừa to vừa cao, có lớp vảy sừng vàng sậm, có hai cựa nhọn hoắt.
+ Đuôi : bộ lông đuôi dài, nhiều màu sắc, cong vút về phía sau.
-Tả đặc tính hoạt động:
+ Thói quen sinh hoạt: Buổi sáng thức dậy sớm, gáy vang.
+ Tính nết: chơi thân với gà mái.
3. Kết bài : Cảm nghĩ của em về vật nuôi đó: Con gà như chiếc đồng hồ báo
thức, coi như một thành viên trong gia đình.
* Từ dàn ý liên kết dựng đoạn: VD: “Bộ lông đen óng chiếm phần lớn thân
hình, còn sắc đỏ và vàng đan vào nhau chạy dài từ chóp đầu xõa xuống như đeo
một chiếc khăn quàng trông thật oách làm sao. Cái đầu tròn của chú toát lên một
màu đỏ chót dũng mãnh, trên thì có cái mào trông rất đẹp như một chiếc vương
miện , dưới thì cái ức như đeo chiếc nơ...”
Như vậy : Quan sát, tìm ý, xây dựng đoạn là việc làm hết sức cần thiết cho việc
dạy thể loại văn miêu tả. Tuy nhiên, trong quá trình hướng dẫn, người giáo viên cần
biết lựa chọn và sử dụng phối hợp các phương pháp, giúp tiết học đỡ nhàm chán và
hiệu quả tiết dạy cao hơn.
3.3. Tích hợp, lồng ghép trong các phân môn khác của môn Tiếng Việt:
Sự tích hợp các phân môn trong môn Tiếng Việt được thể hiện ở việc sắp
xếp, bố trí thứ tự các phân môn trong một đơn vị kiến thức của một tuần. Để học tốt
phân môn Tập làm văn học sinh phải thu thập được những kiến thức từ các phân
môn khác như: Tập đọc, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Từ ngữ là nhân tố
cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có một vị trí và ý nghĩa vô cùng
quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội
dung, ý kiến của mình khi làm văn.
* Phân môn Tập đọc: Nhằm cung cấp kiến thức văn học.
12



Những bài tập đọc mang phong cách nghệ thuật chiếm tỉ lệ cao trong chương
trình Tập đọc lớp 4 như: Chú Đất Nung, Cánh diều tuổi thơ( miêu tả đồ vật): Sầu
riêng, Hoa học trò (miêu tả cây cối); Con Sẻ, Con chuồn chuồn nước, Con chim
chiền chiện (miêu tả con vật). Thông qua bài Tập đọc, tôi cho các em nêu và giải
nghĩa một số từ ngữ có tính chất liên quan đến kiểu bài văn trong tuần và yêu cầu
các em đặt câu. Từ đó giúp các em hiểu được cách quan sát các sự vật, cách dùng
từ, đặt câu , diễn đạt ý và cách sử dụng nghệ thuật trong khi làm bài văn miêu tả.
Ví dụ: Bài: Sầu riêng
Trong quá trình tìm hiểu bài, tôi cho học sinh tìm và nêu một số từ ngữ chỉ
đặc điểm của Sầu riêng như: ngào ngạt, quyến rũ, khẳng khiu, thẳng đuột, thơm
mùi thơm của mít chín, quyện với hương bưởi, ngọt cái ngọt của mật ong già...Các
em sẽ đặt câu không phải gắn với cây Sầu riêng mà gắn với một số các cây khác.
Bài: Con chuồn chuồn nước ( Tiếng Việt lớp 4 tập 2 trang 127).
Khi dạy bài này tôi giúp cho học sinh nhận thấy: Qua các chi tiết (Màu vàng
trên lưng chú lấp lánh. Bốn cánh mỏng như giấy bóng. Cái đầu tròn và hai con
mắt long lanh như thủy tinh. Thân chú nhỏ và thon vàng như màu vàng của nắng
mùa thu), cách sử dụng từ láy, từ ngữ giàu hình ảnh đã nói lên vẻ đẹp sinh động
của chú chuồn chuồn nước, cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời theo cánh bay của chú
chuồn chuồn. Sau đó tôi yêu cầu học sinh nói câu về miêu tả con vật khác qua các
từ ngữ: long lanh, nhỏ xíu, mênh mông, thung thăng, ... bên cạnh đó bộc lộ cảm xúc
của mình đối với con vật mà mình tả.
Mỗi bài Tập đọc đều có tác dụng giáo dục học sinh về cách sống, cách nhìn
nhận thế giới quan một cách chân thực, để từ đó các em có cảm xúc thực sự. Do đó
khi dạy các bài tập đọc, tôi luôn giúp các em cảm nhận và vận dụng kiến thức đó
vào thực tế để các em khi viết văn được sinh động hơn.
* Phân môn Chính tả: Rèn kĩ năng viết đúng chính tả và kĩ năng trình bày.
Nội dung bài viết chính tả là các văn bản được chọn trong bài tập đọc hoặc các
văn bản chọn ngoài thường xoay quanh chủ đề bài học. Phân môn chính tả nhằm

rèn cho học sinh cách nghe và viết đúng chính tả bởi Tiếng việt nếu viết sai chính tả
13


sẽ dẫn đến sai nghĩa của từ, của câu. Qua việc viết chính tả tôi giúp học sinh biết
cách sử dụng từ ngữ, cách sử dụng các dấu câu và cách trình bày bài văn một cách
khoa học.
* Phân môn Luyện từ và câu: Rèn kĩ năng chọn từ, điền từ.
Nhiệm vụ chủ yếu của phân môn Luyện từ và câu là cung cấp vốn từ, cách
sử dụng từ và câu trong Tiếng Việt. Bởi vậy, phân môn Luyện từ và câu có tác
dụng hỗ trợ rất đắc lực cho phân môn Tập làm văn. Vì thế, trong khi dạy Luyện từ
và câu, tôi đã thay đổi các hình thức tổ chức dạy học để học sinh tích cực tham gia
vào việc tự tìm từ, ghép từ, phát hiện từ miêu tả, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ
thành nhóm miêu tả như nhóm từ ngữ miêu tả ngoại hình, nhóm từ ngữ miêu tả đặc
điểm cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động,... Trong các tiết mở rộng vốn từ, cách xác
định các từ loại danh từ, động từ, tính từ,... và thực hành đặt câu, sử dụng dấu câu.
Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu: Tính từ.
Từ việc nhận xét mức độ trắng khác nhau của: tờ giấy này trắng; tờ giấy này
trăng trắng; tờ giấy này trắng tinh. Tôi đã hướng dẫn để các em tìm thêm các từ
ghép từ tính từ trắng như: trắng xóa, trắng nõn, trắng như phấn, trắng như cước,...
và cho các em đặt câu để cung cấp thêm vốn từ cho học sinh.
Hay: Từ láy gợi tả âm thanh : ríu rít, líu lo, liếp chiếp, rộn ràng, tấp nập bì bọp, ì
ọp, ì ầm, xôn xao, ào ào...) cho học sinh đặt câu dưới dạng miêu tả có sử dụng từ.
3.4. Hướng dẫn học sinh sử dụng các biện pháp nghệ thuật khi làm văn
miêu tả:
Song song với việc tìm từ ngữ, định loại từ để dùng từ liên kết thành câu văn
cho sinh động thì việc sử dụng các biện pháp tư từ ( so sánh, nhân hóa) để kết hợp
và đưa vào câu văn cũng giữ một vai trò quan trọng, nó làm cho bài văn miêu tả
thêm phong phú và có “ hồn”. Điều này tôi đã chú ý cung cấp vốn từ cho các em
khi dạy Tập đọc, luyện từ và câu. Và theo mức độ tăng dần, bước đầu chỉ yêu cầu

học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hóa, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm thanh hay những
từ biểu lộ cảm xúc.
14


Ví dụ: Câu “Bông hướng dương như vầng mặt trời vãi tung toé những tia nắng
vàng rực rỡ”; “Hoa xoan bồng bềnh như một chùm mây tim tím ngủ quên trên
cành”; “Bãi cỏ như một tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn”...Tôi phân tích cách
sử dụng biện pháp so sánh: Tác giả lấy hình ảnh mặt trời để tả bông hướng dương;
lấy chùm mây tím để tả hoa xoan, lấy tấm thảm khổng lồ xanh mơn mởn để tả bãi
cỏ,... Từ đó, tôi đưa ra một số câu và yêu cầu học sinh tìm từ thích hợp vào chỗ
chấm để tạo thành câu văn có hình ảnh so sánh gợi tả.
- Nhìn từ xa, cây bàng..….. một chiếc ô khổng lồ lợp bằng lá xanh tươi.
- Những trái chuối cong cong…... vầng trăng khuyết.
(Ở dạng bài này, tôi hướng dẫn các em chọn các từ sau để điền: như, giống như,
tựa, tựa như, tựa hồ, như là, giống hệt).
Ở dạng khác, tôi yêu cầu học sinh thêm vế câu để được hình ảnh so sánh thích
hợp vào mỗi chỗ chấm để mỗi dòng trở thành câu văn có ý nghĩa mới mẻ, sinh
động.
- Lá cọ tròn xoè ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như ........(bàn tay vẫy hoặc
một mặt trời mới mọc)
- Đôi cánh mẹ gà xoè ra như .........(hai mái nhà hoặc chiếc ô dù vững chãi) che
chở cho các chú gà con.
Sau khi học sinh đã hiểu cách vận dụng hình ảnh so sánh trong câu, tôi đưa ra
một số sự vật và yêu cầu học sinh tìm hình ảnh so sánh và diễn đạt câu: tán lá
bàng, đồng lúa chín, tàu dừa,...
Chẳng hạn: Tán lá bàng lan rộng như một chiếc ô dù khổng lồ.
Đối với biện pháp nhân hóa cũng vậy. Nhân hóa là gọi hoặc tả con vật, cây
cối, đồ vật… bằng những từ ngữ vốn được dùng để gọi hoặc tả con người; làm cho

thế giới loài vật, cây cối, đồ vật trở nên gần gũi với con người, biểu thị được những
suy nghĩ, tình cảm của con người. Nhân hóa có tác dụng làm cho các sự vật trở nên
sống động gần gũi với con người.Ví dụ: “Cái đuôi dài trắng điểm đen phe phất
thướt tha cùng với tấm thân thon dài mềm mại, uyển chuyển trông thật đáng yêu”
15


(Tả con mèo). “Cô hồng nhung kiêu hãnh vươn cao, hình như nó rất tự hào với sắc
đẹp của mình”( Tả cây hoa hồng).
Như vậy, việc sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa trong khi viết bài văn
miêu tả không phải một tiết, 2 tiết hay 3 tiết mà phải được luyện tập thường xuyên
qua các tiết Tập làm văn“Luyện tập xây dựng đoạn văn” hoặc “Luyện tập miêu tả”
vì nếu không luyện tập các kiến thức đó sẽ mai một dần, học sinh sẽ không tích tụ
được vốn từ ngữ, vốn hình ảnh phong phú để phục vụ cho đời sống cũng như trong
học tập của các em.
3.5. Sửa lỗi dùng từ, đặt câu:
Muốn một bài văn hay, có "hồn", có chất văn thì các em phải có vốn từ ngữ
phong phú và phải biết cách lựa chọn từ ngữ khi miêu tả cho phù hợp. Đồng thời
nếu không nắm vững được quy tắc đặt câu thì vốn từ có phong phú cũng không
trình bày được ý kiến của mình một cách đúng đắn, mạch lạc, rõ ràng. Vì vậy, khi
dạy Tập làm văn cho học sinh giáo viên phải gắn liền việc dạy từ, dạy câu với việc
chữa lỗi về từ, về câu. Đó là hai quá trình không thể tách rời.
Ví dụ: Trả bài văn miêu tả cây cối.
Trong bài làm học sinh có viết: Đu đủ có một cái cuống dài khoảng 3 cm cũng
màu vàng. Và có cái đầu nhọn nhưng hơi tròn một tí. Khi cắt ra trông rất ngon.
Thịt đu đủ màu cam. Và có hột màu đen…
Như vậy, trong đoạn văn này, về ý, học sinh đang tả về quả đu đủ nhưng cách sử
dụng một số từ để liên kết các ý giữa các câu chưa phong phú, làm cho đoạn văn
mất đi cái “hồn”. Tôi hướng dẫn học sinh có thể sửa lỗi như sau: Đu đủ có một cái
cuống dài khoảng 3 cm cũng màu vàng. Phần đầu nhọn nhưng hơi tròn một tí. Khi

cắt ra trông rất ngon. Thịt đu đủ màu cam. Bên trong có hột màu đen…
Các lỗi về câu thường gặp ở tiểu học là câu thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ, câu què,
câu chỉ có thành phần phụ chỉ địa điểm hoặc thời gian, nguyên nhân, kết quả...
thiếu thành phần chính ( tức là cả cụm chủ vị ), nêu ý chưa chọn vẹn (câu cụt), câu
có nhiều từ ngữ thừa, rườm rà, lủng củng.

16


Ví dụ: Bài làm học sinh dùng dấu câu chưa đúng: Gốc hơi phình to ra pha lẫn
những đốm trắng cành lá xum xuê, tỏa bóng rợp một góc vườn, lá mít tròn dày,
xanh bóng...
Hướng dẫn học sinh sửa lại: Gốc hơi phình to ra pha lẫn những đốm trắng.
Cành lá xum xuê, tỏa bóng rợp một góc vườn. Lá mít tròn, dày, xanh bóng.
Hoặc nội dung diễn đạt rườm rà : Trong nhà em có một con vật mà em thích nhất
đó là con gà trống em rất yêu quý.
Hướng dẫn học sinh sửa lỗi : Trong nhà em, con vật em yêu thích nhất là con gà
trống. Hay: Trong nhà em, con gà trống là con vật mà em yêu thích nhất.
Với hình thức này, tôi cho học sinh tạo thành nhóm đôi theo năng lực ( giỏi, khá,
trung bình) hoặc đôi bạn cùng tiến. Các em đổi vở, đọc bài của bạn, phát hiện lỗi,
nêu lỗi và hướng sửa, trao đổi xem bạn có đồng ý với cách sửa như vậy không. Sau
đó cùng trao đổi, kiểm tra, chia sẻ kinh nghiệm làm bài và chữa lỗi với bạn.
4. Kết quả của sáng kiến:
Qua quá trình vừa nghiên cứu, vừa áp dụng thực hiện các biện pháp nêu trên
về phương pháp giảng dạy tập làm văn cho học sinh lớp 4, tôi thấy được vai trò của
việc dạy viết văn miêu tả trong phân môn Tập làm văn theo hướng đổi mới và tầm
quan trọng của việc dạy tốt các phân môn trong môn Tiếng Việt để bổ trợ cho phân
môn Tập làm văn là rất quan trọng và thiết thực. Với nỗ lực ấy, tôi đã thu được
những kết quả như sau:
a) Về phía giáo viên:

Qua những lần sinh hoạt chuyên môn khối để chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy,
các đồng chí trong tổ khối luôn tán thành và rất hưởng ứng sáng kiến của tôi đưa ra
và đã áp dụng vào tiết dạy cụ thể của mình. Mỗi giáo viên trong tổ cũng đã tránh
được những thắc mắc, những lúng túng, khi giảng dạy tập làm văn, đã biết vận
dụng sáng tạo phương pháp giảng dạy theo hướng đổi mới là lồng ghép tích hợp
các phân môn của môn Tiếng Việt trong dạy Tập làm văn kiểu bài văn miêu tả lớp
4. Kết quả của các tiết dạy đã được nâng lên một cách rõ rệt.
b) Về phía học sinh:
17


Học sinh đã hứng thú và yêu thích phân môn tập làm văn. Các em đã biết
diễn đạt rõ ràng mạch lạc những suy nghĩ, cảm xúc của mình một cách mạch lạc,
biết chọn những chi tiết độc đáo, nổi bật, viết câu giàu hình ảnh, biết sử dụng biện
pháp so sánh, nhân hoá khi miêu tả làm bài văn trở nên sinh động, có cảm xúc chân
thật. Nhìn chung các em không ngại làm tập làm văn như trước nữa, các em đã có
sự ham mê học tập, sự quan sát tinh tế, cách cảm nhận, rung động, thẩm mỹ trước
các đồ vật có xung quanh mình, cái đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống đang diễn
ra. Tuy vẫn còn một số ít bài viết khô cứng, liệt kê các chi tiết của đối tượng miêu
tả nhưng không có hiện tượng sao chép văn mẫu, không có bài làm na ná như nhau.
Mặc dù chỉ là sự chuyển biến ít ỏi song trong giảng dạy Tập làm văn thì kết quả
như vậy cũng là điều đáng quý. Mặt khác các biện pháp trên mới chỉ được áp dụng
khi dạy văn miêu tả lớp 4, nếu có thể thực hiện từ khi dạy Tập làm văn miêu tả ở
lớp 2,3 thì tôi tin chắc rằng chất lượng làm văn của các em sẽ khả quan hơn rất
nhiều.
Sau khi áp dụng những biện pháp trên vào dạy Tập làm văn lớp 4A kết quả cụ
thể như sau:
họcĐiểm 9 - 10

Điểm 7 - 8


Điểm 5 - 6

Điểm < 5

%

SL

%

SL

%

SL

Lớp

Số
sinh

4A

25

5

16%


7

28%

13

52%

4B

14

1

7,14%

3

21,42%

10

71,44%

SL

%

Kết quả cho thấy tuy chưa phải là cao, nhưng sự chuyển biến của học sinh đã
rõ. Cụ thể khi chấm bài tôi thấy, bài viết của các em có bố cục rõ ràng, lời lẽ của

câu văn chân thực, cách miêu tả đã có sự sáng tạo và đã có cảm xúc thực sự trong
khi miêu tả. So với lớp đối chứng (4B) các em có sự vượt trội hơn rất nhiều

18


III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận:
Sau hơn một học kì áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ
nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 4 làm được bài văn miêu tả sinh
động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên
cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Thầy
cô giáo đã miệt mài, tận tuỵ thì việc mong muốn có nhiều học sinh giỏi văn sẽ
không còn là khó. Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng
học sinh cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi
nghĩ rằng nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng
ngày của giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm
chưa tốt thì bây giờ ta dốc hết tâm huyết, tận tuỵ với học sinh, soạn giảng nghiêm
túc thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành công.
Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho học
sinh lớp 4 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục
áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 4 các năm sau và phổ biến trong
cả khối với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn
Tiếng Việt cấp Tiểu học.
2. Kiến nghị:
- Đối với BGH nhà trường : Nâng cao hiệu quả các giờ sinh hoạt chuyên
môn, khuyến khích giáo viên đầu tư trao đổi kế hoạch bài học, cùng thống nhất
cách soạn giảng và vận dụng tập thể để phát huy sở trường của từng cá nhân và sức
mạnh của tập thể.
19



- Đối với đồng nghiệp dạy lớp 4: Thầy, cô giáo cần phải đầu tư hơn nữa về
phương pháp và biện pháp cho mỗi giờ học phân môn Tập làm văn (từng thể loại,
từng kiểu bài cụ thể ) để từng bước giúp các em nắm vững kiến thức, chủ động nói
lên những suy nghĩ hồn nhiên của mình; nói đúng, nói hay, làm giàu thêm vốn từ
ngữ và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt .
* Trên đây là bài học kinh nghiệm mà tôi đã rút ra trong quá trình nghiên cứu,
vận dụng và viết SKKN " Một số biện pháp nâng cao hiệu quả viết bài văn miêu
tả cho học sinh lớp 4”.
Trong quá trình viết không tránh khỏi những hạn chế, rất mong được sự góp
ý, bổ sung của BGH, các đồng nghiệp để sáng kiến này đạt hiệu quả cao hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Cổ Lũng, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác

Đoàn Thị Thao

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Tạp chí giáo dục Tiểu học Tập 27 - Nhà xuất bản Giáo dục 2007
2. Sách giáo viên Tiếng Việt 4 - Tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục 2005 .
3. Tiếng Việt 4 tập I + II - Nhà xuất bản Giáo dục ( năm 2005)
4. Phương pháp dạy học tiếng Việt ở Tiểu học Tập II. (Tác giả: GSTS Lê Phương
Nga - Nguyễn Trí )

20



21



×