1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài.
Trong bốn kĩ năng: (Nghe, nói, đọc, viết) thì kỹ năng nói có vị trí thứ hai
trong yêu cầu cơ bản cần đạt của học sinh. Kỹ năng nói góp một phần quan
trọng đáng kể giúp học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 1 nói riêng học tốt
các phân môn Kể chuyện, Luyện từ và câu... Kỹ năng nói tốt sẽ giúp chúng ta
chiếm được tình cảm của mọi người, giúp chúng ta tự tin hơn khi diễn đạt một
vấn đề gì đó trước tập thể. Học sinh đầu cấp nói tốt sẽ giúp các em diễn đạt rõ
ràng, mạch lạc, trình bày suy nghĩ của mình cũng như trong việc góp ý xây dựng
bài. Với phương pháp mới: phát huy tính tích cực của học sinh phải trình bày lời
nói trong giải thích, mô tả...rất cần đến kỹ năng nói. Trong sinh hoạt, kỹ năng
nói là một phần quan trọng trong kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng sống rất cần
cho mỗi học sinh. Ngày nay trong sự phát triển của nền kinh tế tri thức, thời đại
bùng nổ công nghệ thông tin, ngôn ngữ nói được thay bằng ngôn ngữ viết qua
máy tính (gửiE.mall, chát, nhắn tin...trên mạng). Các em là một thế hệ trẻ chập
chững mới bước vào đời lại không có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ, khả
năng giao tiếp còn hạn chế, chưa đáp ứng được theo chuẩn kiến thức, kĩ năng
của bậc học. Các em còn nhút nhát, chưa tự tin, tìm tiếng, tìm từ còn chậm trong
khi nói, nói không thành câu. Nói không rõ lời, chưa phát âm đúng, nhiều học
sinh nói còn kéo dài, chưa trôi chảy, chưa lưu loát, chưa biểu cảm, nói không đủ
ý, cọc lóc, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gíc. Đó là những vấn đề bức
xúc của những giáo viên dạy lớp 1 nói riêng, giáo viên Tiểu học và những người
làm công tác giáo dục nói chung. Chính vì vậy, là một giáo viên dạy lớp 1 tôi đã
mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học
sinh lớp 1 ”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Giúp cho học sinh có ý thức trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp,
rèn cho học sinh nói đủ câu, lưu loát, suy nghĩ mạch lạc, diễn đạt rõ ràng, trong
sáng, có khả năng làm chủ được tiếng nói và chữ viết của mình.
- Giúp cho học sinh biết ứng xử các tình huống khi giao tiếp một cách
nhạy bén, lễ phép hơn.
- Đưa ra những biện pháp rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1.
- Tạo cơ hội cho các em mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp, khám phá, diễn đạt
ý tưởng trước đám đông, thành công trong công việc. Đồng thời góp phần phát
triển nhân cách toàn diện cho học sinh, giúp các em có được kỹ năng sống tốt để
trở thành người có ích cho xã hội.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Qua trao đổi, dự giờ thăm lớp đồng nghiệp tôi nhận thấy vấn đề luyện nói
cho các em vẫn chưa thực sự được quan tâm sâu sát và thói quen của học sinh địa
phương đã quen với cách nói tự do, nói câu rút gọn ( thiếu chủ ngữ ) gây cảm giác
khó nghe, ít gây thiện cảm, thêm vào đó là thái độ rụt rè, ít cởi mở trong giao tiếp,
không mạnh dạn khi bày tỏ ý kiến của mình. Cho nên tôi tập chung vào nghiên
cứu “ Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ”.
1
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình hình thành và rèn kỹ năng nói cho học sinh tôi đã kết hợp
các phương pháp sau:
- Phương pháp trực quan, phương pháp quan sát, giảng giải để giải quyết
vấn đề.
- Phân tích những nguyên nhân dẫn đến yếu kém trong việc rèn kĩ năng
nói của học sinh.
- Thực hành, luyện tập. Tiến hành trên lớp chủ nhiệm, lồng ghép trong các
môn học khác, các tiết sinh hoạt ngoại khoá, sinh hoạt lớp...
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Nhân dân ta từ rất lâu đã có câu: “ Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà
nói cho vừa lòng nhau ”. Qua câu nói cho ta thấy ông cha ta đã xác định lời nói
rất quan trọng. Trong giao tiếp lời lẽ phải có sự lựa chọn, cân nhắc vì một khi đã
nói ra thì không sao rút lại được. Chính vì thế để giúp học sinh có được ý thức
nói năng rõ ràng, gãy gọn, đủ ý và phù hợp trong mọi tình huống là rất cần thiết.
Thông qua hoạt động nói các em sẽ phát huy được vốn ngôn ngữ mẹ đẻ, nói
đúng cấu trúc ngữ pháp, mở rộng thêm vốn từ, làm cơ sở cho việc tiếp thu tri
thức sau này. Cũng nhằm hình thành thói quen, ý thức giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Vì ngoài việc cung cấp cho học sinh hệ thống câu từ, lời nói còn
rèn luyện cho các em tính cẩn thận, sự tự tin trước đám đông, trách nhiệm với
bản thân và tôn trọng người tham gia giao tiếp.
Thế nhưng trong thực tế hiện nay ở những giờ luyện nói tình trạng học
sinh nói không đủ ý, ngôn ngữ diễn đạt còn lộn xộn, chưa lô gíc. Nhiều học sinh
nhút nhát không muốn trình bày, chia sẻ với các bạn những điều mình nghĩ,
mình biết hoặc có nói thì cũng nói trống không, không rõ nghĩa, chưa trôi chảy.
Đây là vấn đề nhiều giáo viên gặp khó khăn cần có hướng khắc phục.
Trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 1, nội dung dạy luyện nói cho học
sinh được coi như một nội dung độc lập, giúp học sinh bước đầu hình thành và
rèn luyện kỹ năng nói đây là một trong những kỹ năng quan trọng của con người
để học sinh luyện nói lưu loát, đạt hiệu quả giáo viên cần có cách tổ chức dạy
học để khơi gợi, kích thích học sinh có khả năng hứng thú bộc lộ cảm xúc, ý
nghĩ của mình nhằm phát huy kỹ năng nói cho các em. Trong thực tế, học sinh
đầu cấp chưa có thói quen rèn kỹ năng nói, còn nói theo người lớn. Đa số học
sinh nói không thành câu, rút gọn câu nói, nói ngắc ngứ, không có sự liên kết
trong bài nói, thiếu tự tin, có khi còn dùng những câu nói thiếu văn hóa, không
lễ phép khi giao tiếp.
- Tình trạng này còn kéo dài sẽ dẫn đến các em ngại tiếp xúc, ngại giao
tiếp. Do biến đổi về mặt tâm lí, khi chưa đi học, trẻ nói một cách tự do không
chủ định nhưng khi vào lớp 1 các em phải nói theo từng chủ đề.
- Các em rụt rè, sợ hãi khi đứng trước đám đông.
2
- Tư duy học sinh lớp 1 là tư duy trực quan, hình ảnh, tư duy cụ thể qua
tranh ảnh minh họa nhưng khả năng quan sát chi tiết kém.
- Bên cạnh đó người giáo viên chưa ý thức được vai trò của việc rèn luyện
kĩ năng nói, nên đã quá coi trọng hai kĩ năng đọc, viết mà bỏ qua kĩ năng nói,
dần dần trở thành thói quen “lướt qua” dạy kỹ năng này hoặc có dạy nhưng
không thường xuyên liên tục.
- Một số giáo viên chưa biết vận dụng tích hợp nội dung dạy - học kỹ
năng nói với các kỹ năng còn lại (nghe, viết, đọc ) vào các môn học khác.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
a. Thuận lợi :
Đa số học sinh vào lớp 1 các em đều có được vốn ngôn ngữ nhất định.
Nội dung dạy luyện nói lớp 1 đã bám sát trình độ chuẩn và quán triệt những định
hướng đổi mới mục tiêu dạy học ở Tiểu học. Nên việc dạy luyện nói cho học
sinh sẽ được thuận lợi hơn.
Trong môn Tiếng Việt 1, nội dung dạy luyện nói được cấu trúc chặt chẽ
hợp lí, sắp đặt xen kẽ vào cuối tiết học thứ hai môn Tiếng Việt. Chủ đề luyện nói
bao giờ cũng có tiếng chứa âm vần mới học. Nội dung các bài luyện nói đa dạng
phong phú về mọi lĩnh vực và tương đối gần gũi với học sinh và được tăng dần
ở mức độ theo các chủ đề giúp học sinh dễ tiếp thu bài. Sách giáo khoa trình bày
hình vẽ rõ ràng, gây hứng thú học tập cho học sinh.
b. Khó khăn:
Với lớp tôi chủ nhiệm có 21/24 học sinh là con em dân tộc thái còn nhiều
thiếu thốn. Phụ huynh sống bằng nghề nông, kinh tế còn khó khăn phải vất vả lo
cái ăn, cái mặc, nên việc tiếp xúc, dạy dỗ con cái còn hạn chế. Chưa dành nhiều
thời gian quan tâm đến việc học của con em mình, chưa cho con đi chơi, giải trí
trong những dịp lễ tết để các em có điều kiện giao tiếp với mọi người.
Khi các em bước vào lớp 1 các em phải nói có chủ định, theo từng chủ đề,
luyện nói theo tranh, ảnh minh họa, đồ dùng trực quan... trong môn Học vần và
Tập đọc nên các em gặp rất nhiều khó khăn trong cách sử dụng ngôn từ và câu
cú để diễn đạt.
Một số giáo viên còn xem nhẹ hoạt động nói của học sinh trước lớp, chỉ
chú trọng đến kĩ năng đọc, viết nên trong giờ học Tiếng Việt thời lượng dành
cho hoạt động nói của học sinh quá ít. Chính vì thời lượng ít nên số lượng học
sinh tham gia nói về nội dung bài không được nhiều mà chỉ qua loa một vài em
mà thôi, chưa đầu tư nhiều khi dạy luyện nói cho học sinh, rất ít sử dụng đồ
dùng dạy học cho học sinh quan sát, chỉ dạy lướt qua,...nên chưa phát triển được
vốn từ và cách diễn đạt cho học sinh. Thêm vào đó học sinh còn rụt rè, thiếu tự
tin, nói chưa thành câu .
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Dạy rèn kỹ năng nói trong phân môn Tiếng việt.
* Bước 1:
Trong giờ dạy Tiếng Việt lớp 1, giáo viên nên phân chia thời lượng rõ
ràng phù hợp với các hoạt động của bài để đảm bảo nội dung kiến thức được
3
truyền đạt đúng, đủ và vừa sức đối với học sinh. Khi tiến hành soạn giáo án cho
hoạt động luyện nói nên thiết kế hệ thống câu hỏi theo cấu trúc từ dễ đến khó
phù hợp với năng lực học tập của học sinh trong lớp. Khi tổ chức đàm thoại ở
lớp trước tiên là giáo viên nên yêu cầu một cách rõ ràng cho mọi đối tượng đều
hiểu được vấn đề mà giáo viên đặt ra. Khi nêu câu hỏi thì phải chọn học sinh có
trình độ phù hợp để trả lời, không chỉ tập trung vào những học sinh hoàn thành
tốt mà phải tạo điều kiện cho mọi đối tượng (Hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa
hoàn thành) trả lời.
Ví dụ:
Khi dạy hoạt động nói theo chủ đề “bê, nghé, bé” ở bài 25: ng - ngh giáo
viên xây dựng hệ thống câu hỏi dành cho mọi đối tượng trong lớp như sau:
+ Tranh vẽ gì ? (Tranh vẽ bê, nghé, bé) Dành cho học sinh Hoàn thành và
chưa hoàn thành
+ Bê và nghé ăn gì ? (bê và nghé ăn cỏ) Dành cho học sinh Hoàn thành và
chưa hoàn thành
+ Bê là con của con gì ? (bê là con của con bò) Dành cho học sinh Hoàn
thành tốt
+ Nghé là con của con gì ? (Nghé là con của con trâu) Dành cho học sinh
Hoàn thành tốt
+ Ba nhân vật trong tranh có gì chung ? (ba nhân vật đều còn nhỏ)
- Nếu các em trả lời đúng nhưng chưa thành câu, giáo viên chú ý uốn nắn
sửa chữa ngay và cho học sinh nói lại để các em nhớ.
Ví dụ:
Khi giáo viên hỏi: + Bức tranh vẽ gì ?
Học sinh trả lời: + bê (nghé, bé).
Lúc này giáo viên yêu cầu học sinh nói lại cho thành câu như sau:
+Bức tranh vẽ bê (nghé và bê).
Cần lưu ý để tạo nên ấn tượng tốt cho các em khi giảng dạy nói chung và
khi đàm thoại nói riêng giáo viên phải thực sự gương mẫu trong việc nói năng,
nói đủ ý, diễn đạt gãy gọn và trong quá trình rèn luyện cho học sinh qua từng
câu, từng bài nên kiên trì, không nóng vội mà quát nạt, giận dỗi hay trách móc
học sinh. Phải hết sức cởi mở, nhã nhặn với các đối tượng trong lớp tạo không
khí vui vẻ, phấn khởi giúp các em có cảm giác thoải mái thì hoạt động nói mới
diễn ra một cách thuận lợi.
Nên chú trọng tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, những khó khăn, bất hạnh
của học sinh trong lớp để có sự chia sẻ, thông cảm động viên các em nói nhiều
và mạnh dạn hơn bắt đầu từ những điều đơn giản nhất, dần dần tăng mức độ khó
lên theo thời gian.
* Bước 2:
Hướng dẫn học sinh thực hành luyện nói trong nhóm. Giáo viên chia
nhóm cho học sinh tự luyện nói trước nhóm để cả nhóm thảo luận, góp ý, dưới
sự hướng dẫn gợi ý, bằng các câu hỏi của giáo viên. Để các em luyện nói nhiều
hơn, chính xác hơn và những em lười hay học yếu không đứng ngoài “ rìa ”của
4
hoạt động, giáo viên chia nhóm, mỗi nhóm hai học sinh để mỗi học sinh sẽ được
nói ít nhất 1 lần trong nhóm. Để đảm bảo về mặt thời gian, với những học sinh
yếu, giáo viên khuyến khích các em tập nói nhiều lần trong nhóm từ một câu rồi
đến hai câu. Tạo cho các em mạnh dạn, tự nhiên khi giao tiếp, bằng những lời
xưng hô phù hợp với từng đối tượng. Giáo viên theo dõi, quan sát để kịp thời
uốn nắn, chữa từng tiếng, từng câu xoay quanh chủ đề đang nói.
( Các em thực hành luyện nói theo cặp)
Ví dụ:
Chủ đề: Nói lời xin lỗi, Nói lời cảm ơn, Vâng lời cha mẹ...Với các chủ đề
này, giúp các em biết nói lời xin lỗi khi có lỗi, biết chào hỏi, cám ơn,... bằng
những câu đơn giản làm cho người nghe dễ hiểu khi giao tiếp trong cuộc sống.
* Bước 3.
Luyện nói trước lớp. Sau khi các em luyện nói trong nhóm, giáo viên cử
đại diện lên trình bày. Nếu để cho các nhóm trưởng cử, thường thì các em cử các
bạn có năng lực luyện nói tốt. Tuy nhiên để tránh tình trạng chây lười, ỷ lại các
em học tốt, giáo viên có thể cho các em khác bất kì trong nhóm lên luyện nói,
đặc biệt là các em hay rụt rè, không dám nói trước đám đông.
* Bước 4. Hướng dẫn học sinh nhận xét.
Cho học sinh nhận xét cách luyện nói của mình, không nhận xét chung
chung, mà yêu cầu các em khác nhận xét cụ thể về một nội dung luyện nói, tác
phong luyện nói có tự nhiên, đã thành câu, hay rụt rè, chưa thành câu... Với học
sinh này giáo viên hướng dẫn các em khác nhận xét về mức độ tiến bộ của bạn
nhằm giúp các bạn đó tự tin và tiến bộ hơn.
* Bước 5.
5
Giáo viên nhận xét, tổng kết. Sau khi các em nhận xét về cách luyện nói
của bạn mình, của nhóm này với nhóm khác, Giáo viên đi đến tổng kết nhận xét
chung. Nhận xét một cách cụ thể cần khen ngợi, khuyến khích các em luyện nói
tốt. Đồng thời chỉ ra những chi tiết, những vấn đề mà các em chưa làm tốt,
khuyến khích các em bổ sung sửa chữa vào những bài luyện nói tiếp theo.
Ví dụ:
Khi dạy luyện nói về chủ đề: “ Mai sau khôn lớn ” trong bài 46 phần học
vần trong SGK Tiếng Việt 1, tập1, trang 94 tôi đã hướng dẫn học sinh luyện các
bước sau:
* Bước 1
Cho học sinh đọc tên chủ đề luyện nói. Đưa tranh phần luyện nói ( đã có
sẵn trong bộ đồ dung ) để kích thích sự hứng thú của học sinh. Học sinh quan sát
toàn bộ bức tranh.
* Bước 2
Giáo viên chia nhóm đôi để học sinh thực hành nói trong nhóm trước khi
nói trước lớp với sự gợi ý, dẫn dắt của giáo viên. ( Một học sinh hỏi và một học
sinh trả lời và ngược lại ).
Học sinh quan sát thật chi tiết nội dung các bức tranh và trả lời
Hình 1: Trong tranh vẽ một em bé còn nhỏ.
Hình 2: Trong tranh vẽ một chiến sĩ biên phòng
- Bạn nhỏ trong tranh đã mơ ước điều gì? ( Bạn nhỏ trong tranh mơ ước
lớn lên trở thành một chiến sĩ biên phòng ) Hoặc: Hai học sinh nói cho nhau
nghe theo tranh và tự phát triển chủ đề nói Mai sau lớn lên, bạn thích làm nghề
gì?
Tại sao bạn thích nghề đó? Với học sinh chưa hoàn thành, giáo viên sẽ gợi
ý kĩ hơn. Chẳng hạn: Nghề đó đem lại lợi ích gì cho bản thân và cho mọi người?
Với học sinh hoàn thành tốt thì gợi ý mở rộng thêm: Em đã nói hoặc sẽ nói ý
định đó với ai? Muốn trở thành người như em mong muốn, ngay từ bây giờ em
phải làm gì? Với học sinh hoàn thành tốt nói, gợi ý trên một cách tự nhiên thành
công, bước đầu biết liên kết các câu lại thành một bài nói.
* Bước 3:
Nói trước lớp Giáo viên cho nhóm trưởng nói hoặc cử đại diện nhóm nói
trước lớp.
- Đại diện các nhóm trình bày.
- Khi cử đại diện nói trước lớp phải lưu ý gọi nhiều đối tượng khác nhau
trong lớp vừa uốn nắn, sửa chữa vừa học tập lẫn nhau để các em cùng nhau tiến
bộ.
* Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét. Cho học sinh nhận xét cách
luyện nói của bạn mình, cụ thể:
+ Nội dung bài nói của bạn đã phù hợp với chủ đề “Mai sau khôn lớn”
chưa?
6
+ Với các bạn chưa hoàn thành đã tiến bộ chưa, về cách nói và nội dung
nói. Học sinh nhận xét cụ thể từng bạn về những điểm đạt được và chưa đạt
được, cần khắc phục ở điểm nào?
* Bước 5:
Giáo viên nhận xét, tổng kết, cụ thể những điều đã làm được để khuyến
khích khen ngợi các em. Chỉ ra chi tiết vấn đề chưa làm được, động viên các em
khắc phục trong bài luyện nói sau. Hoặc hướng dẫn học sinh tự luyện nói theo chủ
điểm “Nhà trường” trong bài đọc: “Trường em” sách giáo khoa Tiếng Việt 1, tập 2.
Giáo viên chia lớp thành hai nhóm và yêu cầu học sinh quan sát tranh
trong sách giáo khoa, đọc câu mẫu, dựa vào câu mẫu nói câu mới theo yêu cầu.
Giáo viên cho một bên nhóm này nói câu có vần “ai”, nhóm bên kia nói câu có
vần “ay” hoặc ngược lại.
Ví dụ: Khi đi học mình phải rửa tay chân...Khi học sinh tập nói câu, giáo
viên theo dõi chỉnh sữa câu nói của học sinh cho phù hợp nội dung, diễn đạt
được ý trọn vẹn. Cho học sinh hỏi đáp với nhau theo đề tài: Hỏi nhau về trường
lớp. (Các em hỏi đáp theo câu mẫu và câu các em tự nghĩ ra).
(Các em thực hành luyện nói theo nhóm đôi trước lớp)
Giải pháp 2: Dạy luyện nói trong kể truyện.
Giờ kể chuyện là giờ thực hành nói của học sinh. Sau khi nghe giáo viên
kể chuyện, học sinh nhớ được nội dung chính của câu chuyện, kể lại ( hoặc nói )
được câu chuyện một cách tóm tắt ( dựa theo tranh ). Vì vậy để dạy học sinh
luyện nói tốt trong giờ kể chuyện, theo tôi có những yêu cầu và biện pháp sau:
b.1.Những yêu cầu đối với giáo viên
7
Cần rèn giọng kể linh hoạt, phù hợp với nội dung, làm cho lời kể thật sự
hấp dẫn với học sinh. Muốn vậy, cần đọc kĩ văn bản cho thật hiểu và nhớ để xác
lập được giọng điệu kể chuyện.
b.2. Các bước tiến hành để dạy học sinh luyện nói trong giờ kể chuyện.
* Bước 1: Giới thiệu câu chuyện
Biết mở đầu câu chuyện là một cách tạo hứng thú, sự chờ đợi, kích thích
trí tò mò của các em.
* Bước 2: Giáo viên kể chuyện 2, 3 lần
Lần 1: Kể toàn bộ câu chuyện
Lần 2, 3: Kể tiếp nối từng đoạn ( kết hợp tranh minh họa ) Khi kể cần chú ý cách
kể:
+ Giọng kể: vui hoặc buồn, hào hứng hoặc bi lụy......
+ Nhịp điệu: nhanh hoặc chậm, gấp gáp hoặc hiền hòa, khoan thai.
+ Ngắt giọng tâm lý: ngắt giọng với các chủ ý gây ấn tượng câu chuyện.
+ Biết bổ sung hợp lí một vài từ ngữ vào văn bản chuyện vốn cô đọng,
hàm xúc, sẽ làm cho lời kể chuyện thêm sinh động, lôi cuốn thêm.
* Bước 3: Học sinh kể từng đoạn câu chuyện theo tranh và gợi ý dưới tranh. Vì
đây là bước học sinh thực hành nói nên để học sinh nào cũng được tham gia.
Giáo viên sẽ chia lớp theo nhóm 2, 4 học sinh kể trong nhóm đoạn 1, cả
nhóm thảo luận, góp ý. Đại diện 2, 3 nhóm lên kể, cả lớp lắng nghe bạn kể và
nhận xét. Các đoạn 2, 3, 4 thực hiện tương tự.
* Bước 4: Kể toàn bộ câu chuyện (học sinh Hoàn thành tốt)
- Có thể tiến hành theo nhiều hình thức và thay đổi các hình thức hợp tác
thực hiện một nhiệm vụ học tập ở mỗi tiết học để tạo sự hấp dẫn.
- Tổ chức cho các em tham gia các trò chơi như: Kể chuyện tiếp sức, kể
chuyện phân vai, đóng vai, dựng hoạt cảnh...
Ví dụ:
Khi dạy bài kể chuyện “Sói và Sóc” trang 108 sách giáo khoa Tiếng việt
lớp 1, tập 2. Để rèn kỹ năng nói cho học sinh tôi đã tiến hành các bước như sau:
* Bước 1: Giới thiệu câu chuyện.
Một lần Sóc bị rơi trúng người Sói. Sóc bị Sói bắt. Tình thế thật nguy
hiểm. Liệu Sóc có thể thoát khỏi tình thế nguy hiểm đó không? Các em hãy theo
dõi câu chuyện để tìm câu trả lời.
Bước 2: Giáo viên kể chuyện
- Lần 1: Kể toàn bộ câu chuyện.
- Lần 2, 3: Kể tiếp nối từng đoạn (kết hợp tranh minh họa) Chú ý giọng
điệu kể:
+ Lời mở đầu truyện: kể thong thả, dừng lại ở các chi tiết Sói định ăn thịt
Sóc, Sóc van nài.
+ Lời Sóc khi còn trong tay Sói: Kể mềm mỏng, nhẹ nhàng.
+ Lời Sói thể sự băn khoăn. Lời Sóc khi đứng trên cây giải thích: ôn tồn
nhưng rắn rỏi, mạnh mẽ.
* Bước 3: Học sinh kể từng đoạn theo tranh.
8
Giáo viên chia nhóm 2 học sinh giao nhiệm vụ. Tranh 1: Học sinh quan
sát tranh đọc các câu hỏi dưới tranh. Học sinh kể lại từng đoạn dựa theo tranh
trong nhóm. Đại diện vài nhóm thi kể, cử 2 học sinh làm giám khảo nhận xét.
cụ thể: Bạn đã nhớ nội dung đoạn chuyện chưa, kể còn thiếu hay thừa chi tiết
nào không ? Có diễn cảm không ? Sau đó giáo viên sửa chữa từ ngữ, câu, ý cho
học sinh diễn đạt được trôi chảy. Tương tự các tranh còn lại. Giáo viên hướng
dẫn bằng những câu hỏi gợi ý để giúp các em tự tin hơn khi kể chuyện, tạo điều
kiện cho các em được nói trước lớp.
(Các em luyện kể từng đoạn trước lớp)
* Bước 4: Học sinh phân vai kể toàn bộ câu chuyện ( học sinh Hoàn thành tốt )
Mỗi nhóm gồm 3 em đóng vai: Người dẫn chuyện, Sói và Sóc. Để việc
phân vai thật hứng thú, hấp dẫn với các em, nên cho các em trang phục mặt nạ
Sói và Sóc. Để học sinh nhớ chắc chắn, kể được toàn bộ câu chuyện, giáo viên
tăng dần yêu cầu với mỗi nhóm:
+ Nhóm 1: Giáo viên là người dẫn chuyện các nhân vật nhìn tranh minh
họa và câu hỏi gợi ý dưới tranh trong SGK để kể chuyện.
+ Nhóm 2: Người dẫn chuyện nhìn sách.
+ Các nhóm sau: Kể thoát li sách, thực sự nhập vai.
Giúp các em luyện nói qua phần tìm hiểu ý nghĩa câu chuyện. Giáo viên
gơị ý một số câu hỏi chẳng hạn như:
- Sói và Sóc con vật nào thông minh hơn?
- Vì sao con biết?
- Muốn thông minh các con phải làm gì ?
Tóm lại: Dạy luyện nói trong phân môn kể chuyện người giáo viên chú ý
rèn cho các em mạnh dạn, tự tin, khi học sinh kể, giáo viên chú ý sửa về ngữ
9
điệu, chỉnh sửa sao cho rõ, gọn, diễn đạt đủ ý, phù hợp với nội dung câu chuyện
muốn kể. Từ đó giúp các em áp dụng được vào cuôc sống thực tế.
Giải pháp 3: Dạy luyện nói kết hợp với các môn học khác
Luyện nói có vai trò quan trọng và diễn ra trong nhiều môn học khác
nhau. Cho nên, trong bất kì một tiết học hay một môn học nào khác giáo viên
đều cho học sinh luyện nói. Bằng cách cho các em tập phát biểu miệng khi xây
dựng bài, hay trao đổi sôi nổi khi tham gia thảo luận nhóm. Thực tế luyện nói
không chỉ diễn ra trong môn Tiếng Việt mà ở các môn Tự nhiên và xã hội, môn
Đạo đức,... cũng là môi trường rất tốt để các em luyện nói. Thông thường thời
gian luyện nói của môn Tự nhiên - Xã hội, môn Đạo đức diễn ra thường xuyên ở
các hoạt động: quan sát tranh, thảo luận nhóm, đàm thoại giữa giáo viên với học
sinh, hoạt động đóng vai... Các hoạt động này giúp cho học sinh tính cực tham
gia sử dụng ngôn ngữ rất nhiều, chính vì vậy đây là môi trường thuận lợi để các
em luyện nói, phát triển ngôn ngữ của mình.
Ví dụ:
Khi dạy bài 11 “ Gia đình ” môn Tự nhiên và Xã hội, giáo viên gợi ý cho
học sinh nói về gia đình của mình cho bạn nghe. Hoạt động theo nhóm đôi sau
đó nói trước lớp hoặc ở hoạt động 1 cho học sinh quan sát tranh theo nhóm nhỏ
3,4 học sinh rồi nói theo câu hỏi gợi ý.
Gia đình Lan có những ai ? Lan và những người trong gia đình đang làm
gì ?
Gia đình Minh có những ai ? Minh và những người trong gia đình đang làm gì?
Đại diện nhóm kể trướng lớp. Gọi học sinh nhận xét cách kể của bạn đã
đầy đủ chưa, rõ lời, lưu loát chưa... Giáo viên tuyên dương cách nói hay, đầy đủ
và kết luận.
10
(Em Sơn Tùng tự giới thiệu về những người trong gia đình mình )
Trong môn đạo đức giáo viên cũng thực hiện kết hợp tương tự để học sinh
luyện nói.
Ví dụ:
Khi dạy bài 13 “ Chào hỏi và tạm biệt ” vở bài tập Đạo đức trang 42. Hoạt
động đầu tiên ở bài tập 1 là quan sát tranh 1 và tranh 2 ở vở bài tập Giáo viên
gợi ý: Trong tranh con thấy vẽ những gì ? ( Trong tranh con thấy 1 cụ già và 2
bạn nhỏ). Các bạn trong tranh đang làm gì ? ( Bạn đang chào bà cụ: Chúng cháu
chào bà ạ)...Giáo viên cho học sinh thảo luận trong nhóm đôi hay nhóm ba (ở
hoạt động 2) theo các câu hỏi gợi ý để học sinh luyện nói với nhau trong nhóm
sau đó xung phong lên trình bày ý kiến trước lớp. Em cảm thấy thế nào khi:
+ Được người khác chào hỏi?
+ Em chào hỏi họ và được họ đáp lại ?... Giáo viên cho học sinh đứng lên
nói trước lớp về cách ứng xử của mình. Học sinh khác nhận xét bạn từ, lời nói,
thái độ... và giáo viên sửa chữa, uốn nắn các em, giúp các em nhận ra cách thể
hiện, ứng xử hay nhất, lời nói hay nhất.
Giải pháp 4: Dạy luyện nói trong giao tiếp .
Hoạt động nói đã được hình thành trước khi vào lớp 1, nhưng để trở thành
kĩ năng thì phải được uốn nắn, rèn luyện cả quá trình giao tiếp với thầy cô, bạn
bè, người thân, ...
Ví dụ: Khi tiếp xúc với giáo viên: Giáo viên hỏi: “ Em đã chuẩn bị đồ
dùng học tập trước khi đến lớp chưa? ” Học sinh trả lời: “ rồi” Khi đó giáo viên
phải chỉnh sửa ngay cho học sinh: “ Em không được nói trống không như thế mà
phải nói thành câu trọn vẹn và thể hiện thái độ tôn trọng thầy cô”. Chẳng hạn:
“ Thưa cô, em đã chuẩn bị rồi ạ !” Hoặc khi giao tiếp với bạn bè, các em xưng
hô với bạn mày, tao...hay trả lời rút gọn đôi khi còn thô lỗ, cộc cằn với bạn mà
không hề biết cách nói của mình không hay, thiếu tế nhị. Hay khi nói chuyện với
người lớn, đôi khi các em chưa hiểu nên các em nói chuyện còn thiếu lễ phép,
cộc lốc, như trong trường hợp sau: Có một phụ huynh đến xin phép cho con nghỉ
học vì học sinh đó bị ốm nhưng không biết phòng học của con (Vì mỗi lần họp
phụ huynh đều do bố đi dự họp) nên hỏi một học sinh: “ Lớp 1B học ở phòng
nào hả con ?” Lập tức em đó trả lời: “ Kia kìa! ”. Lớp tôi đang giảng dạy có 23
em nói cộc lốc tiếng một, trong trường hợp thế này: Hôm đó có tiết tập viết vở ô
li nhưng thấy em không có vở nên tôi hỏi: “ Vở ô li của con đâu ? ”, Em đó đứng
im một lúc sau rồi trả lời: “ Ở nhà ”. Qua thời gian rèn luyện, chỉ dẫn, các em đã
hiểu biết, nói dễ nghe hơn, lời nói đủ câu, lưu loát, tế nhị hơn. Thực tế không chỉ
là học sinh lớp 1 mà học sinh ở các lớp trên đều nói câu rút gọn, thiếu chủ ngữ,
đôi khi thể hiện câu nói thiếu lễ phép, thiếu văn hoá,...
Giải pháp 5: Giáo viên là tấm gương thể hiện hành vi giao tiếp để học sinh
noi theo.
Ngoài các hoạt động dạy học trên, giáo viên chủ nhiệm cần thường xuyên
gần gũi, bám sát học sinh trong mọi hoạt động (trong sinh hoạt lớp, sinh hoạt 15
11
phút đầu giờ, khi lao động dọn vệ sinh...). Giúp các em luyện nói ở mọi lúc, mọi
nơi khi cảm thấy cần thiết, khi trò chuyện trao đổi, với các bạn, giáo viên cần
quan tâm để ý từng lời nói, hành động của các em để các em sửa sai kịp thời.
Hướng dẫn cho các em cách nói, xưng hô với người lớn, với thầy cô, bạn
bè. Tập cách nói thành câu khi trả lời người lớn hỏi, câu nói phải có chủ ngữ,
giáo viên là tấm gương thực tế nhất giúp cho học sinh luyện nói. Cho nên khi
giao tiếp, giáo viên cần chú mọi lúc, mọi nơi khi thể hiện lời nói của mình để
học sinh noi theo.
Ví dụ: Khi kiểm tra bài của học sinh, giáo viên thường gọi: Em lên đọc
bài...(Giáo viên nên gọi: Thầy (Cô) mời em lên trước lớp đọc bài)...Trong lúc
tiếp chuyện với phụ huynh, giáo viên cũng cần chú ý từng lời nói, hành động, cử
chỉ để học sinh noi theo.
Giải pháp 6: Dạy luyện nói khi tổ chức các hoạt động ngoại khoá.
Trong các buổi sinh hoạt sao hàng tuần, giáo viên chủ nhiệm cũng cần
hướng dẫn các em phụ trách sao soạn sẵn nội dung sinh hoạt, sao cho các câu
hỏi, câu trả lời đầy đủ về ý, rõ lời, diễn đạt được nội dung cần giao tiếp được lưu
loát, bóng bẩy hơn để các em học hỏi.
Ví dụ:
Khi các em gặp anh(chị) phụ trách sao ở mỗi lần sinh hoạt:
- Anh (Chị) chào các em!
- Chúng em chào anh (chị) ạ!
- Anh (chị) sẽ hướng dẫn cho các em chơi các trò chơi mới, các em có
thích không nào?
- Thưa anh (chị) thích ạ!...Hay lúc sinh hoạt đầu tuần, cuối tuần ngoài việc
trao đổi với nhau vấn đề học tập, giáo viên cũng nên dành ít thời gian nói
chuyện với các em. Chính lúc này các em mới cởi mở, thể hiện tâm tư, tình cảm,
lời nói của mình. Chắc chắn sẽ có em thể hiện câu nói đúng, trôi chảy, lưu loát,
đủ câu... nhưng cũng có em chưa nói lưu loát, vụng về trong câu nói của mình.
Từ đó giáo viên chỉnh sửa câu nói của các em cho phù hợp với hoàn cảnh giao
tiếp. Hoạt động ngoại khoá là một trong những hoạt động các em rất yêu thích
nên các em nhanh nhớ và nhớ rất lâu. Giáo viên có thể lồng ghép, hướng dẫn
theo dõi, uốn nắn các em nói thuận lợi, mang lại hiệu quả cao.
Ví dụ:
+ Hôm nay ai đưa em đi học ? ( Hôm nay bố đưa em đi học )
+ Em thích học nhất là môn nào ? ( Môn Toán là môn em thích học nhất )
Giải pháp 7: Kết hợp các mối quan hệ: Nhà trường, gia đình và xã hội.
Giáo viên thường xuyên tiếp cận và tác động tích cực để gia đình nhận
thức một cách đúng đắn về tầm quan trọng của việc học nói chung và về kĩ năng
nói nói riêng. Bên cạnh việc giáo dục, động viên các em thì phụ huynh phải thực
sự gương mẫu trong việc nói năng có chừng mực, lịch sự, nhã nhặn với mọi
người xung quanh để các em học tập, noi theo.
Giáo viên chủ nhiệm nên khuyến khích các phụ huynh về nhà chú ý tới
việc luyện nói của con em mình.
12
Ví dụ: Hướng dẫn các em chào hỏi khi gặp thầy cô, khi có khách tới nhà.
Hướng dẫn luyện nói trong khi mọi người ăn cơm, hỏi thăm sức khoẻ của người
ở xa...Học sinh hay nói chưa đủ câu, nói cộc lốc, chưa lưu loát...Gia đình uốn
nắn sửa chữa khi chào hỏi! Con chào bác ạ! Khi ăn cơm con mời bố, mẹ ăn cơm.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường .
Qua một năm áp dụng và thực hiện “ Một số kinh nghiệm Rèn kỹ năng
nói cho học sinh lớp 1 ” năm học 2016-2017 trong quá trình giảng dạy của
mình, tôi nhận thấy học sinh rất hứng thú khi học môn Tiếng việt nhất là phần
luyện nói. Học sinh tham gia tích cực, các em đã tự giác giơ tay để phát biểu,
nói đủ nghe, diễn đạt rõ ràng, gãy gọn, có khả năng làm chủ được suy nghĩ lời
nói của mình. Những em chưa hoàn thành cũng đã nói được thành câu đơn giản
và giải thích sự việc theo ý hiểu của mình. Còn những em nhút nhát, rụt rè đã
nhanh nhẹn, tích cực hơn, đã biết cách ứng xử các tình huống giao tiếp. Nó còn
phù hợp với việc đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy và học hiện
nay.
Bằng tâm huyết của mình tôi đã vận dụng tốt việc rèn luyện kĩ năng nói
cho học sinh lớp 1 sẽ giúp cho các em rèn luyện phẩm chất đạo đức. Tạo cho các
em tính mạnh dạn, tự tin khi nói. Đồng thời góp phần phát triển nhân cách toàn
diện cho học sinh. Đó là điều làm cho tôi cảm thấy rất vui vì đã uốn nắn được
các em phát huy theo hướng tích cực. Càng đáng mừng hơn là đóng góp đó cũng
Phát triển theo thời gian.
Sau đây là bảng so sánh chất lượng nói của học sinh khi áp dụng sáng kiến:
Năm học
2016-2017
Đầu năm
Cuối năm
TS
HS
24
24
Số học sinh
Số học sinh
nói mạch lạc,
nói đủ ý
diễn đạt tốt
SL
%
SL
%
1
4,1
3
12,5
6
25,0
13
54,2
Số học sinh Số học sinh
nói chưa đủ nhút nhát, ít
ý
phát biểu
SL
%
SL
%
10 41,7
10
41,7
4
16,7
1
4,1
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận
Diễn đạt bằng ngôn ngữ nói là một kĩ năng khó đối với học sinh lớp 1 nói
riêng, Tiểu học nói chung. Để có một kĩ năng nói tốt, đòi hỏi người giáo viên
phải có phương pháp, hình thức rèn luyện phù hợp với trình độ, điều kiện thực
tiễn, khả năng tâm lý lứa tuổi của học sinh. Vì vậy, mỗi người giáo viên phải hết
sức năng động và sáng tạo, phải biết lựa chọn và kết hợp nhiều phương pháp dạy
học tích cực để giúp học sinh vừa có kiến thức vừa có kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng sống tốt đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Với những giải pháp trên,
tôi đã vận dụng ngay vào quá trình hình thành và rèn luyện kĩ năng nói cho học
sinh lớp 1, các em rất hứng thú khi học môn Tiếng Việt, các em đã biết nói thành
câu tự nhiên phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp. Những em nhút nhát, rụt rè, thụ
13
động đã trở nên mạnh dạn, tự tin hơn trước đám đông, biết ứng xử các tình
huống giao tiếp một cách nhạy bén, sử dụng ngôn ngữ có biểu cảm, có văn hoá
hơn. Giáo viên có hứng thú, tích cực tìm tòi tranh ảnh, vật thật để áp dụng cho
phần luyện nói có hiệu quả hơn. Sự phối hợp giữa các gia đình, hội phụ huynh,
ban đại diện cha mẹ học sinh, cũng có chiều hướng tiến bộ. Chính vì vậy hiệu
quả dạy học luyện nói đã được nâng cao rõ rệt.
Tóm lại: Rèn kĩ năng nói cho học sinh là một quá trình lâu dài người giáo
viên tuyệt đối không nóng vội khi rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh. Giáo viên
cần lưu ý không thể có kết quả nói tốt trong một sớm, một chiều mà cần có thời
gian để giúp các em sửa chữa tiến bộ trong quá trình giao tiếp được tốt hơn.
3.2. Kiến nghị
Trên đây là kinh nghiệm nghiên cứu của bản than tôi về “ Một số kinh
nghiệm Rèn kỹ năng nói cho học sinh lớp 1 ”. Thực tế đã áp dụng có hiệu quả.
Rất mong được sự trao đổi, góp ý, bổ sung của Hội đồng khoa học nhà trường,
ngành Giáo Dục và Đào Tạo để cho đề tài được hoàn thiện hơn.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh hóa, ngày 9 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Ngêi viÕt
Bùi Thị Thanh
14
MỤC LỤC
1. Mở đầu...............................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu.....................................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................2
1.5. Những điểm mới của Sáng kiến kinh nghiệm................................................2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.......................................................................3
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm........................................................3
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm........................3
a. Thuận lợi : .........................................................................................................3
b. Khó khăn: .........................................................................................................3
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề..............................................4
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với bản
thân, đồng nghiệp và nhà trường.........................................................................15
3. Kết luận, kiến nghị..........................................................................................15
3.1. Kết luận........................................................................................................15
3.2. Kiến nghị......................................................................................................15
15