Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Bài giảng quản lý hành chính nhà nước và quản lý nghành giáo dục và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.81 MB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÀNH
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Dành cho sinh viên ngành CĐSP)

Tác giả: Nguyễn Thị Diễm Hằng
Hoàng Thị Tường Vi

1


MỤC LỤC
MỤC LỤC ................................................................................................................................. 2
LỜI NÓI ĐẦU ........................................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN ................................................................................ 6
VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC, CÔNG VỤ, VIÊN CHỨC................................... 6
1.1. Một số vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam.......... 6
1.1.1. Khái niệm Quản l ý hành chính nhà nước ................................................................... 6
1.1.1.1. Quản lí ............................................................................................................... 6
1.1.1.2. Quản lí nhà nước ................................................................................................ 6
1.1.1.3. Hành chính nhà nước.......................................................................................... 7
1.1.1.4. Nền hành chính nhà nước ................................................................................... 7
1.1.1.5. Quản lí hành chính Nhà nước ............................................................................. 8
1.1.2. Những quan điểm cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước .................. 9
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước CHXHCN Việt
Nam.................................................................................................................................. 10


1.1.3.1. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước, quản lí xã hội.. 10
1.1.3.2. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam ....................................................................................... 10
1.1.3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ ........................................................................... 11
1.1.3.4. Nguyên tắc pháp chế ........................................................................................ 12
1.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam................. 13
1.1.4.1. Quốc hội........................................................................................................... 13
1.1.4.2. Chủ tịch nước ................................................................................................... 13
1.1.4.3. Chính phủ......................................................................................................... 14
1.1.4.4. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là hệ thông tổ chức thực hiện quyền
tư pháp.......................................................................................................................... 15
1.4.5. Cơ quan chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ............. 16
1.1.5. Quản lý nhà nước về Giáo dục và đào tạo................................................................ 16
1.1.5.1. Những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước về Giáo dục và đào tạo.................. 16
1.1.5.2. Bộ máy quản lý Giáo dục và đào tạo................................................................. 22
1.1.5.3. Quá trình phát triển hệ thống quản lí nhà nước về Giáo dục và đào tạo ở Việt
Nam và xu hướng đổi mới............................................................................................. 24
1.1.5.4. Phương hướng đổi mới quản lý nhà nước về Giáo dục và đào tạo ..................... 27
1.2. Giới thiệu Luật viên chức............................................................................................... 28
1.2.1. Những quy định chung ............................................................................................ 28
1.2.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của viên chức ....................................................................... 31
1.2.2.1. Quyền của viên chức ........................................................................................ 31
1.2.2.2. Nghĩa vụ của viên chức .................................................................................... 32
1.2.3. Những việc viên chức không được làm.................................................................... 33
1.2.4. Tuyển dụng, sử dụng viên chức ............................................................................... 33
1.2.4.1. Tuyển dụng: ..................................................................................................... 33
1.2.4.2. Hợp đồng làm việc ........................................................................................... 34
1.2.5. Khen thưởng và xử l ý vi phạm ................................................................................ 35
1.3. Viên chức ngành Giáo dục và Đào tạo giáo viên Trung học ........................................... 36
1.3.1. Khái quát chung về viên chức ngành Giáo dục và Đào tạo....................................... 36

1.3.2. Giáo viên trung học................................................................................................. 36
CHƯƠNG 2. ĐƯỜNG LỐI, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ
GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ..................................................................................................... 38
2.1. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong Giáo dục và Đào tạo hiện nay......................... 38
2.1.1. Tình hình giáo dục Việt Nam hiện nay .................................................................... 38
2.1.2. Bối cảnh và thời cơ, thách thức đối với giáo dục nước ta trong vài thập kỷ tới......... 41
2.3. Các giải pháp phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020................................................. 47
2


2.3.1. Đổi mới quản lý giáo dục ........................................................................................ 48
2.3.2. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục............................................ 48
2.3.3. Đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, thi, kiểm tra và đánh giá chất lượng giáo
dục.................................................................................................................................... 49
2.3.4. Tăng nguồn lực đầu tư và đổi mới cơ chế tài chính giáo dục.................................... 50
2.3.5. Tăng cường gắn đào tạo với sử dụng, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
đáp ứng nhu cầu xã hội ..................................................................................................... 51
2.3.6. Tăng cường hỗ trợ phát triển giáo dục đối với các vùng khó khăn, dân tộc thiểu số và
đối tượng chính sách xã hội .............................................................................................. 51
2.3.7. Phát triển khoa học giáo dục.................................................................................... 51
2.3.8. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về giáo dục...................................... 52
CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỐI VỚI BẬC TRUNG HỌC ...................................... 53
3.1. Điều lệ trường trung học ................................................................................................ 53
3.2. Các quy chế, quy định về hoạt động giảng dạy ở bậc Trung học..................................... 53
3.2.1. Quy định về giảng dạy............................................................................................. 53
3.2.2. Quy định về công tác chủ nhiệm lớp........................................................................ 58
3.2.3. Quy chế về cho điểm, đánh giá xếp loại học sinh..................................................... 59
3.3. Các quy chế, quy định về thanh tra, kiểm tra bậc Trung học........................................... 61
3.3.1. Thanh tra một nhà trường ........................................................................................ 61
3.3.3.Quy định về hình thức, tiêu chuẩn, danh hiệu thi đua khen thưởng đối với cá nhân, tập

thể học sinh, sinh viên....................................................................................................... 63
3.3.3.1. Danh hiệu thi đua cá nhân................................................................................. 63
3.3.3.2. Danh hiệu thi đua tập thể .................................................................................. 63
3.3.3.3. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua ............................................................................ 64
3.3.3.3.1. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua cá nhân ............................................................ 64
3.3.3.3.2. Tiêu chuẩn danh hiệu thi đua tập thể.............................................................. 66
3.4. Quy chế công nhận trường Trung học đạt chuẩn quốc gia .............................................. 67
CHƯƠNG 4. LUẬT GIÁO DỤC ............................................................................................. 69
4.1.1. Xuất phát từ tình hình giáo dục................................................................................ 69
4.1.2. Quan điểm đổi mới giáo dục của Đảng, các quy định mới của Hiến pháp 1992 được
sửa đổi bởi Nghị quyết 51/2001/QH10.............................................................................. 69
4.1.3. Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế........................................................................... 70
4.2. Nội dung cơ bản của Luật giáo dục ................................................................................ 70
CHƯƠNG 5. THỰC TIỄN GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG .......................................................... 71
5.1. Thành tựu và yêu cầu phát triển chất lượng nguồn nhân lực của đất nước và tỉnh Quảng
Bình...................................................................................................................................... 71
5.1.1. Những thành tựu đạt được trong thời kỳ đổi mới ..................................................... 71
5.1.1.1. Những thành tựu chủ yếu về phát triển nguồn nhân lực của giáo dục đào tạo Việt
Nam.............................................................................................................................. 71
5.1.1.3. Kết quả thực hiện nhiệm vụ các cấp học và trình độ đào tạo ............................. 72
5.1.1.3.1. Huy động số lượng ........................................................................................ 72
5.1.1.3.2. Công tác phổ cập giáo dục ............................................................................ 73
5.1.1.3.3. Nâng cao chất lượng các bộ môn văn hóa, nghiệp vụ ..................................... 73
5.1.2. Những hạn chế của giáo dục đào tạo so với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất
nước và tỉnh Quảng Bình .................................................................................................. 77
5.1.2.1. Những hạn chế của giáo dục đào tạo Việt Nam so với nhu cầu phát triển nguồn
nhân lực của đất nước ................................................................................................... 77
5.1.2.2. Những hạn chế của giáo dục đào tạo Quảng Bình so với nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh ................................................................................................ 78
5.1.3. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Bình ....................................... 79

5.1.3.1.Đẩy mạnh sản xuất – kinh doanh, phát triển ngành nghề, tạo việc làm ............... 79
5.1.3.2. Đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo nghề ...................................................... 80
3


5.1.3.3. Quản lý, sử dụng nguồn nhân lực...................................................................... 80
5.1.3.4.Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực .................................................... 81
5.1.3.5.Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền ........................ 81
5.2. Thực tiễn giáo dục vùng dân tộc, miền núi ..................................................................... 82
5.2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về phát triển giáo dục vùng dân tộc,
miền núi............................................................................................................................ 82
5.2.1.1.Các quan điểm lớn của Đảng và Nhà nước ........................................................ 82
5.2.2. Tình hình phát triển giáo dục đào tạo ở vùng dân tộc, miền núi ............................... 82
5.2.2.1. Thuận lợi và khó khăn ...................................................................................... 82
5.2.2.2. Tình hình phát triển giáo dục đào tạo ở vùng dân tộc, miền núi......................... 83
5.2.3. Giải pháp phát triển giáo dục vùng dân tộc, miền núi............................................... 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 85

4


LỜI NÓI ĐẦU
Để đáp ứng yêu cầu học tập và nghiên cứu của sinh viên khối ngành CĐSP trường
Đại học Quảng Bình, nhóm giảng viên bộ môn Cơ sở ngành biên soạn giáo trình Quản
lý hành chính nhà nước và Quản lý ngành Giáo dục và Đào tạo nhằm trang bị cho sinh
viên những kiến thức cơ bản về quản lý hành chính nhà nước và quản lý ngành giáo dục
đào tạo. Nội dung giáo trình gồm có 5 chương:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản lý hành chính nhà nước, công vụ, viên chức
Chương 2: Đường lối, quan điểm của Đảng và nhà nước Việt Nam về Giáo dục và
Đào tạo

Chương 3: Điều lệ, quy chế, các quy định của Bộ giáo dục và đào tạo đối với bậc
trung học
Chương 4: Luật giáo dục
Chương 5: Thực tiễn giáo dục địa phương
Do tính chất phức tạp và phạm vi rộng lớn về quản lý hành chính nhà nước cũng như
các vấn đề về quản lý giáo dục đào tạo nên mặc dù nhóm tác giả đã cố gắng biên soạn
nhưng vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy rất mong nhận được ý kiến đóng góp
của đồng nghiệp và sinh viên để giáo trình được tiếp tục hoàn thiện hơn.

Tác giả

5


CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN
VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC, CÔNG VỤ, VIÊN CHỨC
1.1. Một số vấn đề cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước CHXHCN Việt Nam
1.1.1. Khái niệm Quản lý hành chính nhà nước

Để nắm vững nội hàm khái niệm quản lí hành chính nhà nước chúng ta lần lượt
nghiên cứu các khái niệm quan trọng sau đây:
- Quản lý
- Quản lý nhà nước
- Nền hành chính nhà nước
- Quản lý hành chính nhà nước
1.1.1.1. Quản lí
Quản lí là khái niệm được xem xét theo hai góc độ:
+ Theo góc độ chính trị – xã hội, quản lí được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với
lao động. Vận hành sự kết hợp này cần có cơ chế quản lí phù hợp. Cơ chế đúng, hợp lí thì
xã hội phát triển, ngược lại thì xã hội phát triển chậm hoặc rối ren.

+ Theo góc độ hành động, quản lí được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành.
Theo C. Mác, quản lí (quản lí xã hội) là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội
hoá loa động. Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông
qua hoạt động của con người và thông qua quản lí (con người điều khiển con người).
Người viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên
quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những
hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc
trưởng” (C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, T.23, trang 480).
Từ phân tích cơ sở lí luận trên, ta có thể đi đến định nghĩa như sau:
Quản lí là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm chỉ
huy điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục
đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lí là một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội phát triển
càng cao thì vai trò của quản lí càng lớn, phạm vi càng rộng và nội dung càng phong phú,
phức tạp.
1.1.1.2. Quản lí nhà nước
Quản lí nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là sự quản lí của Nhà
nước đối với xã hội và công dân. Quản lí nhà nước là sự chỉ huy, điều hành xã hội để
thực thi quyền lực Nhà nước; là tổng thể về thể chế, về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà
nước có trách nhiệm quản lí công việc hàng ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà nước
(lập pháp,hành pháp và tư pháp) có tư cách pháp nhân công pháp (công quyền) tiến hành
bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền
6


hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành
vi của công dân.
Cần lưu ý phân biệt hai khái niệm “Quản lí nhà nước” và “Nhà nước quản lí”:

+ “Quản lí nhà nước” là dạng quản lí xã hội thực thi quyền lực Nhà nước; dạng quản
lí này được thể hiện trong các cơ quan hành chính Nhà nước. Điều 12, Hiến pháp 1992 đã
ghi: “Nhà nước quản lí xã hội theo pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa”. Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc, quản lí nhà nước tương đồng với khái
niệm quản lí quốc gia (Govermance), nghĩa là: quản lí nhà nước một cách hợp lí, có hiệu
quả, công khai, minh bạch và có sự tham gia của các chủ thể liên quan.
+ “Nhà nước quản lí” là nói đến các chủ thể quản lí; đó là hệ thống tổ chức của các
cơ quan nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính Nhà nước.
1.1.1.3. Hành chính nhà nước
Hành chính là một hoạt động xã hội rộng và rất phức tạp.
Trong cuộc sống, mọi hoạt động của con người đều mang tính xã hội; các cá nhân
luôn có quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Khi hoạt động có từ hai người trở lên để thực
hiện một mục tiêu chung, mà nếu chỉ có một người không thể làm được, thì sẽ xuất hiện
yếu tố tổ chức và quản lí hoạt động. Hành chính là một dạng của sự quản lí các hoạt động
đó.
Thuật ngữ “hành chính” (Tiếng Anh là Administration).
+ Theo nghĩa rộng, hành chính là sự thi hành chính sách và pháp luật của Chính phủ
tức là hoạt động quản lí hành chính Nhà nước. Quản lí hành chính nhà nước là một hình
thức quản lí, mà chủ thể quản lí là Nhà nước. Hành chính nhà nước là một bộ phận quản
lí của Nhà nước – nó là hoạt động của cơ quan hành pháp, thực thi quyền hành pháp bằng
quyền lập quy và quyền hành chính.
+ Theo nghĩa hẹp, hành chính là công tác hành chính của các cơ quan nhà nước ở
địa phương như: quản lí hộ khẩu, trật tự, an ninh công cộng, quản lí công văn giấy tờ
không thuộc văn bản pháp luật,… và có cả nghĩa thông thường như hỗ trợ, dịch vụ hành
chính,…
Hành chính quan hệ mật thiết với quản lí, tổ chức, chính trị tạo nên các phạm trù:
hành chính và quản lí, hành chính và tổ chức, hành chính và chính trị, hành chính và pháp
luật.
Nhà nước quản lí hành chính bằng pháp luật. Còn hành chính nhà nước là “hành
pháp trong hành động”, là sự thực thi pháp luật trong quản lí, điều hành mọi lĩnh vực đời

sống của đất nước.
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa: Hành chính là hoạt động quản lí nhà
nước, trong đó cơ quan quyền lực nhà nước tác động lên các đối tượng quản lí (cơ quan,
tổ chức, cá nhân) trong lĩnh vực hành pháp, nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối
ngoại quản lí hành chính nhà nước do các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện.
1.1.1.4. Nền hành chính nhà nước

7


Nền hành chính nhà nước (hành chính công) là tổng thể cơ chế được cấu thành bởi
ba yếu tố sau đây:
Một là, hệ thông thể chế quản lí xã hội theo Pháp luật bao gồm: Hiến pháp, Luật,
Pháp lệnh và các văn bản, Quyết định, Nghị định, Thông tư của Chính phủ, Bộ, Ủy ban
nhân dân tỉnh, quy phạm pháp luật của các cơ quan hành pháp và quản lí nhà nước. Xây
dựng thể chế của nền hành chính nhà nước dân chủ, thực hiện quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, phục vụ lợi ích và nguyện vọng của dân, thiết lập kỷ cương Nhà nước, ý
thức và trật tự pháp luật, cải cách và hoàn thiện thủ tục hành chính… Xây dựng thể chế
quản lí kinh tế của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lí của Nhà nước và tạo sự thích nghi về thể chế trong quan hệ đối ngoại,
với luật pháp và tập quán quốc tế.
Hai là, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ
sở. Quy định thẩm quyền của từng cấp, từng cơ quan, mối quan hệ dọc, ngang, trung
ương và địa phương. Vận dụng tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc kết hợp quản
lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ. Các cơ quan trong hệ thống phải đủ mạnh về uy
tín, năng lực và phẩm chất để phát huy hiệu lực và hiệu quả quản lí nhà nước.
Ba là, đội ngũ cán bộ và công chức nhà nước, chế độ công vụ và quy chế công
chức, các quy định về hệ thống ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh và chế độ tiền lương,
các quy chế bổ nhiệm, tuyển dụng, miễn nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng, đãi ngộ… là
những cơ sở để nâng cao chất lượng công tác, nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động và

làm căn cứ cho đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức nhà nước.
Thực tế hoạt động của nền hành chính nhà nước xuất phát từ bản chất nhà nước
pháp quyền, sống và làm việc theo khuôn khổ pháp luật để quản lí xã hội, đưa đường lối
chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, là tạo lập môi trường cho mọi tổ chức
và công dân sống và làm việc theo Hiến pháp và Pháp luật.
1.1.1.5. Quản lí hành chính Nhà nước
Bộ máy Nhà nước được cấu thành bởi ba tổ chức giữ ba quyền: quyền lập pháp,
quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền hành pháp là quyền chấp hành luật
(lập quy), tổ chức thực hiện luật (quản lí hành chính). Hai quyền này đều tập trung vào
Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương, được
thực hiện bằng các văn bản quy phạm pháp luật hành chính.
Bộ máy hành chính Nhà nước còn được gọi là bộ máy quản lí Nhà nước.
Hành pháp mang tính quyền lực chính trị (quyền lực nhà nước), còn quản lí hành
chính nhà nước là “Hành pháp hành động”, là quyền thực thi quyền hành pháp. Bản thân
quản lí hành chính nhà nước không chỉ là chính trị, mà còn là hành chính.
Ví dụ: Bộ trưởng có vai trò:
– Là thành viên của Chính phủ (chính trị).
– Là người đứng đầu về quản lí hành chính nhà nước của một bộ, ngành hay lĩnh
vực (quản lí hành chính).
Chủ tịch Ủy ban nhân dân có vai trò:
8


– Là thành viên của Hội đồng nhân dân bầu ra để chấp hành các nghị quyết của Hội
đồng nhân dân (chính trị).
– Là người đứng đầu về quản lí hành chính nhà nước ở địa phương (quản lí hành
chính).
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa quản lí hành chính Nhà nước như sau:
Quản lí hành chính Nhà nước là sự tác động có tổ chức, và điều chỉnh bằng quyền
lực Nhà nước đối với các quá trình và hành vi hoạt động của công dân do các cơ quan có

tư cách pháp nhân công pháp trong hệ thống hành pháp và quản lí hành chính nhà nước
tiến hành bằng những văn bản quy phạm pháp luật dưới luật để thực hiện những chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an
ninh công, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng ngày của nhân dân.
Nói một cách đơn giản hơn, quản lí hành chính nhà nước là việc tổ chức thực thi
quyền hành pháp để quản lí, điều hành các lĩnh vực đời sống xã hội bằng pháp luật và
theo pháp luật.
Như vậy, có thể thấy ba nội dung chính của khái niệm quản lí hành chính nhà nước:
Một là, quản lí hành chính nhà nước với tư cách là quyền lực nhà nước được gọi là
quyền quản lí hành chính, tức là “quyền hành pháp trong hành động”.
Hai là, quản lí hành chính nhà nước với tư cách là hoạt động thực tiễn hàng ngày, tổ
chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân bằng việc ra
các quyết định hành chính mang tính quy phạm hành chính, phục vụ cho các nhà cầm
quyền, các nhà lãnh đạo và quản lí đất nước.
Ba là, quản lí hành chính nhà nước, với tư cách là pháp nhân công pháp, chính là hệ
thống thiết chế tổ chức hành chính nhà nước. Trong hệ thống này, đứng đầu là Chính phủ
và Thủ tướng Chính phủ, các bộ, các cơ quan quản lí hành chính nhà nước trung ương,
các cấp quản lí hành chính nhà nước địa phương và các tổ chức công quyền khác có chức
năng tổ chức và điều hành các quá trình kinh tế kỹ thuật, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an
ninh, nội vụ, ngoại giao… và các hoạt động của tổ chức và công dân.
1.1.2. Những quan điểm cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước
- Quan điểm 1. Xây dựng nhà nước XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân, lấy
liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng do Đảng
cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Quan điểm này định hướng, chỉ đạo cho nhận thức về tư tưởng của Nhà nước ta là
nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhân dân là chủ thể, là người làm chủ, tổ chức, giám
sát hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Quan điểm 2. Tổ chức bộ máy nhà nước trên cơ sở học thuyết pháp quyền Việt
Nam, có sự nghiên cứu, vận dụng có chọn lọc các mô hình tổ chức bộ máy của các nước
có thể chế dân chủ khác nhau và những biến thể của chúng. Vì vậy, xâ dựng bộ máy nhà

nước theo quan điểm: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp chặt
chẽ giữa cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

9


- Quan điểm 3. Tăng cường hơn nữa quản l xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật,
sử dụng tối đa các phương pháp giáo dục, thuyết phục, rèn luyện các phẩm chất đạo đức
cho công dân
1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước
CHXHCN Việt Nam
1.1.3.1. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước, quản lí xã
hội
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở
nước ta, thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã làm thay đổi chủ thể quyền lực
nhà nước. Nhân dân từ vị trí người nô lệ phụ thuộc bởi chế độ thuộc địa nửa phong kiến
trở thành người chủ đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện nguyên tắc này, Hiến pháp nước ta ghi nhận: “công dân có quyền tham
gia quản lí nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với nhà nước và địa phương, biểu
quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” (điều 53 Hiến pháp 1992). Đây là sự bảo
đảm bằng pháp luật khả năng nhân dân tham gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội, Hiến
pháp là văn bản có giá trị pháp lí cao nhất.
Hiến pháp còn ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lí nhà nước và quản lí xã
hội qua việc ghi nhận quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất và
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan đại diện ở địa phương (điều 54). Ghi nhận quyền
khiếu nại, tố cáo những hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan nhà nước và của các cá
nhân trong bộ máy nhà nước (điều 74). Những người làm việc trong cơ quan bảo vệ pháp
luật làm trái pháp luật đều phải chịu trách nhiệm trước pháp luật (điều 74).
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo ra những khả năng, điều kiện và phương
tiện để nhân dân tham gia vào quản lí nhà nước và quản lí xã hội. Trong quá trình phát

triển xã hội các chức năng quản lí ngày càng đơn giản hơn và ngược lại trình độ dân trí
ngày một nâng cao hơn, do vậy mọi người đều có thể làm được nó không còn là chức
năng riêng của một lớp người đặc biệt nữa, chức năng quản lí sẽ được mọi người thay
nhau đảm nhiệm.
1.1.3.2. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, nó được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Vai trò đó
đã được ghi nhận ở hai bản Hiến pháp gần nhất: bản Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992
(đều ở điều 4).
Đảng lãnh đạo nhà nước trước hết thông qua việc xây dựng và hoàn chỉnh cương
lĩnh, chiến lược, định ra các chủ trương chính sách cho hoạt động của nhà nước và toàn
xã hội để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đảng lãnh đạo bằng tuyên truyền, thuyết phục, bằng công tác tư tưởng và tổ chức,
bằng vai trò gương mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng. Đảng xây dựng đường lối phù
10


hợp với lợi ích của nhân dân, được nhân dân ủng hộ và thực hiện. Như vậy, thực chất sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là sự lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo
điều kiện để nhà nước tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ, thực hiện chức năng quản lí bằng
những công cụ, biện pháp của mình.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác cán bộ. Là Đảng cầm quyền nên Đảng
ta lựa chọn những đảng viên ưu tú của mình tham gia vào các cơ quan nhà nước trước hết
là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp bằng con đường giới thiệu để nhân dân lựa
chọn bầu ra. Vì vậy, cơ chế dân chủ cũng là thước đo uy tín và năng lực của Đảng trước
xã hội và nhân dân. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng không “hoá thân thành nhà nước”, do
vậy việc phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò quản lí của nhà nước là
yêu cầu khách quan. Song, cũng cần phải đề phòng và đấu tranh chống lại những quan

điểm sai lầm muốn tách Đảng ra khỏi nhà nước, cần phải cảnh giác trước bọn cơ hội và
các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chủ nghĩa Mác –
Lêmn, đưa đất nước đi chệch khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
1.1.3.3. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước ta. Nguyên tắc này đã được ghi ở điều 4 các bản Hiến pháp 1959, 1980 và
1992. Nguyên tắc tập trung dân chủ chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Một nhà nước “của dân, do dân” được thể hiện từ mục đích đến tổ chức hoạt động.
Bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo quy định của Hiến pháp bao
gồm ba cơ quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp,
Chính phủ thực hiện quyền hành pháp và Toà án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Hoạt
động của các cơ quan này theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan
nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện khác nhau.
Đối với Quốc hội khi phải quyết định những vấn đề hệ trọng, các đại biểu thường
cân nhắc đến:
– Lợi ích của cả nước khi biểu quyết lựa chọn một phương án trong nhiều phương
án được đề xuất.
– Lợi ích của địa phương, ngành, khi biểu quyết các đại biểu không chỉ thể hiện ý
chí của cả nước mà còn chú ý tới nguyện vọng của cử tri nơi đã bầu ra họ.
Do những chi phối đó nên Quốc hội không có cách nào tốt hơn là biểu quyết theo
nguyên tắc đa số. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là thiểu số
phục tùng đa số trong mọi trường hợp.
Đối với Chính phủ: Chính phủ vừa là thiết chế làm việc với chế độ tập thể quyết
định theo đa số về những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vai trò cá nhân của Thủ tướng
Chính phủ - người quyết định những vấn đề trong điều hành công việc thường xuyên của
Chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của Chính phủ vừa đảm bảo sự
lãnh đạo tập thể, vừa đảm bảo sự quản lí của người đứng đầu Chính phủ.
Đối với cơ quan tư pháp: Trong các hoạt động xét xử, nguyên tắc tập trung dân
chủ đòi hỏi thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội thẩm và các thành viên
11



khác trong hoạt động tố tụng, xác lập quan hệ giữa các cấp xét xử, quan hệ giữa các cơ
quan điều tra v.v…
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố đảm bảo hiệu lực quản lí của bộ
máy nhà nước ta trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của các cơ quan trung ương
cũng như ở địa phương.
1.1.3.4. Nguyên tắc pháp chế
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì thế tổ chức và hoạt động
của nó phải tuân theo nguyên tắc pháp chế.
Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các
quan hệ xã hội làm cơ sở một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy
đủ pháp luật trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, của các cơ quan đơn vị, tổ chức và
đối với công dân. Khi nói tới một trật tự pháp chế đòi hỏi phải có:
– Một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh trong cuộc sống, từ các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội và công dân.
Như vậy, không phải cứ có nhà nước, có pháp luật là có pháp chế, nhưng pháp luật
lại đóng vai trò tiền đề, cơ sở cho một trật tự pháp chế. Bởi vì pháp luật là thước đo, là
tiêu chuẩn thẩm định trật tự xã hội và tình trạng pháp chế cụ thể trong từng thời kỳ. Để
nhận ra một xã hội có pháp chế trước hết người ta xem xét pháp luật đã có hay chưa, có
đầy đủ hay không? Pháp luật được thực hiện hay chỉ là hình thức; tính xã hội của pháp
luật ra sao?
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
– Thứ nhất, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời và có
hệ thống. Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất, thống nhất giữa chủ thể và
phương tiện. Để nhà nước hoạt động đảm bảo nguyên tắc pháp chế, các văn bản luật và
các văn bản pháp quy để thi hành luật (văn bản dưới luật) phải được ban hành kịp thời và
đồng bộ.

– Thứ hai, các cơ quan nhà nước được lập ra và hoạt động trong khuôn khổ pháp
luật quy định về địa vị pháp lí, quy mô và thẩm quyền. Nguyên tắc này không chấp nhận
hai khả năng thường xảy ra ở những nơi mà tình trạng pháp chế bị vi phạm: khả năng thứ
nhất là các hoạt động quản lí vượt thẩm quyền được giao, khả năng thứ hai là buông lỏng,
bỏ trống một số lĩnh vực thuộc thẩm quyền được giao.
– Thứ ba, sự tôn trọng hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước. Nhà nước thay
mặt nhân dân ban hành luật pháp, nhưng nhà nước cũng bị luật pháp điều chỉnh. Nghĩa
là: nếu cơ quan nhà nước trong hoạt động phạm sai lầm, vi phạm pháp luật thì phải chịu
trách nhiệm về những sai lầm đó trước pháp luật. Nhà nước vì vậy vừa là chủ thể của luật
pháp nhưng cũng vừa là đối tượng để luật pháp điều chỉnh. Đây là đòi hỏi sự tôn trọng
của nguyên tắc pháp chế, đồng thời thể hiện tính dân chủ của nhà nước ta, cũng là yêu

12


cầu rất quan trọng trong quản lí hành chính, trong hoạt động của các cơ quan tư pháp ở
nước ta hiện nay.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước có mối quan hệ biện chứng với
nhau, tác động qua lại lẫn nhau, thực hiện tốt các nguyên tắc trên nhằm đảm bảo cho nhà
nước ta là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân” trong tổ
chức và hoạt động.
1.1.4. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Theo Hiến pháp 1992 cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta gồm có: Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân
dân; Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
1.1.4.1. Quốc hội
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất
của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83, Hiến pháp 1992); Quốc hội
do nhân dân trực tiếp bầu ra bằng chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín; Quốc hội thống nhất mọi quyền lực (thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp

và tư pháp). Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội là cơ quan cao nhất quyết định những chính sách về đối nội, đối ngoại,
nhiệm vụ kinh tế – xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ
yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước. Hoạt động cơ
bản nhất, quan trọng nhất của Quốc hội là các kỳ họp Quốc hội. Đại biểu Quốc hội về
nguyên tắc cũng phải hoạt động thường xuyên trong cả nhiệm kỳ, chịu sự giám sát và có
thể bị cử tri hoặc Quốc hội bãi miễn bất cứ lúc nào nếu tỏ ra không còn xứng đáng. Quốc
hội có các Hội đồng và Ủy ban. Trong điều kiện hiện nay ở các Hội đồng và Ủy ban của
Quốc hội có một bộ phận cán bộ làm việc theo chế độ chuyên trách còn phần lớn đại biểu
Quốc hội là kiêm nhiệm, phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Ở nước ta hiện nay, Quốc hội chưa hoạt động thường xuyên nên Quốc hội lập ra Ủy
ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc
hội do Quốc hội bầu ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội
được giao một số quyền hạn theo quy định của Hiến pháp như: quyền quyết định ra pháp
lệnh do Quốc hội giao, quyền trong thời gian Quốc hội không họp phê chuẩn đề nghị của
Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng, các thành viên của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất; quyền
giám sát các hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao; quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với hiến pháp và luật…
Quyền quyết định trong thời gian Quốc hội không họp tuyên bố tình trạng chiến tranh khi
nhà nước bị xâm lược: quyền quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ.
1.1.4.2. Chủ tịch nước
13


Chủ tịch nước “là người đứng đầu nhà nước thay mặt nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước do

Quốc hội bầu ra, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định ở điều 103 Hiến
pháp 1992, theo đó người đứng đầu quốc gia là một cá nhân. Chủ tịch nước ký công bố
các văn bản luật pháp (của Quốc hội) và pháp lệnh (của Ủy ban thường vụ Quốc hội)
nhưng Chủ tịch nước có quyền đề nghị xem xét lại pháp lệnh của Ủy ban thường vụ
Quốc hội và nếu không nhất trí thì trình ra Quốc hội quyết định. Chủ tịch nước đề nghị
Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối
cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên
họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, cũng như xét thấy cần thiết thì có quyền tham dự
các phiên họp của Chính phủ. Với quy chế của Hiến pháp 1992 thiết chế Chủ tịch nước
cùng với thiết chế Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội, vừa
đảm bảo tính tập thể trong việc quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước trong khi
Quốc hội không họp, vừa đảm bảo vị trí của người đứng đầu nhà nước.
1.1.4.3. Chính phủ
Theo quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất và phân công ba quyền, thì Quốc
hợi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và nắm quyền lập pháp. Dưới quyền lực tối
cao và thống nhất đó của Quốc hội là những cơ quan quyền lực nhà nước về hành pháp
và tư pháp. Chính phủ là cơ quan quyền lực hành pháp cao nhất. Chính phủ gồm có Thủ
tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành viên khác. Chính phủ do Quốc hội
bầu ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Trong kỳ họp này Quốc hội bầu
Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và giao cho Thủ tướng đề nghị
danh sách các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ để Quốc hội phê chuẩn.
Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội vừa là cơ quan hành chính nhà
nước cao nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy
ban Thường vụ quốc hội. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chỉnh phủ.
Theo điều 112 Hiến pháp 1992 và chương II Luật Tổ chức Chính phủ, thì thẩm
quyền của Chính phủ bao gồm:
– Quyền kiến nghị lập pháp: Dự thảo các văn bản luật trình Quốc hội, và dự thảo
pháp lệnh trình bày Ban Thường vụ Quốc hội. Dự thảo kế hoạch nhà nước, ngân sách,
các chính sách lớn về đối nội, đối ngoại của nhà nước trên cơ sở đường lối của Đảng để

trình Quốc hội.
– Quyền lập quy: Ban hành các văn bản pháp quy có giá trị pháp lí trong cả nước.
– Quyền quản lí và điều hành toàn bộ công việc của đất nước: Xây dựng kinh tế,
văn hoá, xã hội theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và hệ thống pháp
quy của Chính phủ.
– Quyền xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức cơ quan quản lí nhà nước,
thành lập các cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan giúp Thủ tướng, lãnh đạo Ủy ban

14


nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, chỉ đạo việc tổ chức các cơ quan chuyên
môn ở địa phương.
– Quyền hướng dẫn, kiểm tra hội đồng nhân dân các cấp.
Chính phủ hoạt động bằng các hình thức cơ bản sau:
Một là: Hoạt động tập thể là các phiên họp của Chính phủ.
Hai là: Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng là những người
giúp Thủ tướng theo sự phân công của Thủ tướng, khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó
Thủ tướng được Thủ tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Ba là: Hoạt động của Bộ trưởng với tư cách là thành viên của chính phủ đứng đầu
một Bộ hay cơ quan ngang Bộ.
1.1.4.4. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là hệ thông tổ chức thực hiện
quyền tư pháp
– Cơ cấu tổ chức toà án gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa
phương, Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định. Toà án nhân dân là cơ quan xét
xử của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (điều 127 – Hiến pháp 1992). Trong
hệ thống toà án thì Toà án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Có chức năng và quyền giám đốc việc xét xử của Toà
án nhân dân địa phương và Toà án quân sự, giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt và
các Toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó. Chánh

án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm báo cáo công việc trước
Quốc hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác
trước Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Nguyên tắc hoạt động của Toà án là “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật” (điều 130 – Hiến pháp 1992) và “Toà án nhân dân xét xử công
khai, trừ trường hợp do luật định. Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” (điều
131 – Hiến pháp 1992).
– Cơ cấu tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp “Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, thực hiện quyền công tố, đảm bảo cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (điều 137 – Hiến pháp 1992).
Để đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm minh, thống nhất, Viện Kiểm sát
nhân dân được tổ chức thành một hệ thống. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp
dưới chịu Sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; các Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống
nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng, các Phó Viện trưởng,
kiểm sát viên nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự do Viện trưởng Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và
báo cáo công tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách
15


nhiệm báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng các Viện
Kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình
hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của Hội đồng nhân dân.
1.4.5. Cơ quan chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Hội đồng nhân dân địa phương là “cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương; đại
diện ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra,

chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (điều 118 –
Hiến pháp 1992). Hội đồng nhân dân địa phương phải chấp hành Hiến pháp, luật, các quy
định và nhiệm vụ của cấp trên giao cho và vận dụng phù hợp với điều kiện địa phương tự
quyết định những vấn đề thuộc quyền lợi của nhân dân địa phương trong phạm vi được
phân cấp theo luật định. Vì vậy, Hội đồng nhân dân phải đặt dưới sự giám sát, hướng dẫn
của Quốc hội, sự hướng dẫn kiểm tra của Chính phủ.
Ủy ban nhân dân nhân theo quy định của Hiến pháp do Hội đồng nhân dân bầu ra, là
cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên
và nghị quyết của Hội đồng nhân dân (điều 123 – Hiến pháp 1992).
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước hoạt động thường xuyên, thực
hiện chức năng quản lí nhà nước ở địa phương, vừa do Hội đồng nhân dân cùng cấp, vừa
do Ủy ban nhân dân cấp trên giao cho và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ.
1.1.5. Quản lý nhà nước về Giáo dục và đào tạo
1.1.5.1. Những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước về Giáo dục và đào tạo
a. Khái niệm
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh
bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo, do các cơ quan quản
lí giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, duy trì
trật tự, kỉ cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục và đào tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu
giáo dục và đào tạo của nhà nước.
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo chính là việc nhà nước thực hiện quyền
lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm
vi toàn xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.
Trong khái niệm quản lí nhà nước về giáo dục có 3 yếu tố cơ bản là: chủ thể, đối
tượng và mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục.
Chủ thể quản lí nhà nước về giáo dục là các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan
lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp), chủ thể trực tiếp là bộ máy quản lí giáo
dục từ trung ương đến cơ sở (các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục được quy định cụ

thể trong điều 87 của Luật Giáo dục).
Đối tượng của quản lí nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục quốc dân, là mọi
hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.

16


Mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo, về tổng thể đó là bảo đảm trật
tự, kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách của công dân.
Mỗi cấp học, ngành học có những mục tiêu cụ thể được quy định trong Luật Giáo dục và
các điều lệ nhà trường.
Tóm lại, quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự quản lí của các cơ quan
quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến cơ sở đối với hệ
thống giáo dục quốc dân và các hoạt động giáo dục của xã hội nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách cho công dân.
b. Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
* Tính chất của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là quản lí nhà nước về một lĩnh vực cụ
thể, cho nên nó có những tính chất chung của quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà
nước, cụ thể như sau:
– Tính lệ thuộc vào chính trị: quản lí nhà nước về giáo dục phục tùng và phục vụ
nhiệm vụ chính trị; tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
– Tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội. Trong quản
lí nhà nước về giáo dục cần phải coi trọng tính xã hội và dân chủ hoá giáo dục. Giáo dục
và đào tạo luôn phát triển trong mối quan hệ với sự phát triển của kinh tế xã hội.
– Tính pháp quyền: quản lí nhà nước là quản lí bằng pháp luật Quản lí nhà nước
về giáo dục và đào tạo cũng phải tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho
một hoạt động quản lí các hoạt động giáo dục và đào tạo, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa.

– Tính chuyên môn nghiệp vụ: cán bộ – công chức hoạt động trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo cần được đào tạo có trình độ tương ứng với yêu cầu về tiêu chuẩn các
ngạch, chức danh đã được quy định. Việc tuyển dụng cán bộ – công chức tuân theo các
tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức danh mà nhà nước đã ban hành.
– Tính hiệu lực, hiệu quả, lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để
đánh giá cán bộ – công chức ngành giáo dục và đào tạo; chất lượng, hiệu quả và sự bảo
đảm trật tự kỷ cương trong giáo dục và đào tạo là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của
các cơ sở giáo dục và đào tạo và của các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào
tạo.
* Đặc điểm của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Trong một số tính chất nêu trên, có những tính chất có nét đặc biệt mà ta có thể
nhấn mạnh hơn và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý.
Quản lí nhà nước là việc thực thi ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp để
điều chỉnh mọi quan hệ xã hội và hành vi của công dân.
Quản lí hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội, hành vi công dân.

17


Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, một hoạt động mang tính xã hội cao, quản lí
nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cấp cơ sở thực chất là thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền do nhà nước phân cấp và thực tế là thực thi quản lí hành chính nhà nước đối
với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Vì vậy ở cấp cơ sở khái niệm quản lí nhà nước và quản
lí hành chính nhà nước đối với giáo dục và đào tạo giao thoa với nhau. Bởi vì đây chính
là cấp tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hành chính giáo dục. Trên cơ
sở nhận thức đó cần nhấn mạnh 3 đặc điểm sau:
- Đặc điểm kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt động
quản lí giáo dục
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cơ sở thực chất là triển khai các hoạt

động hành chính nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt động giáo dục ở cơ sở. Nó
vừa theo nguyên tắc quản lí hành chính nhà nước vừa theo nguyên tắc hành chính giáo
dục đối với một cơ sở giáo dục. Đặc điểm hành chính – giáo dục là đặc điểm quan trọng
nhất trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục và chỉ đạo với nhà trường.
Hành chính giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do
nhà nước ủy quyền, thay mặt nhà nước triển khai sự nghiệp giáo dục và vào tạo và điều
hành, điều chỉnh các hoạt động giáo dục và đào tạo trên địa bàn nhằm bảo đảm các quy
định, quy chế về giáo dục và thực hiện được mục tiêu giáo dục mà nhà nước quy định.
Với vai trò trên, các hoạt động quản lí như bảo đảm môi trường giáo dục, đảm bảo điều
kiện giáo dục, bảo đảm trật tự, kỉ cương nhà trường; thanh tra, kiểm tra để bảo đảm quá
trình giáo dục và đào tạo thực hiện đúng quy định của nhà nước về mục tiêu, nội dung,
quy chế… là hoạt động mang nhiều tỉnh quản lí hành chính, mặt khác các hoạt động quản
lí quá trình sư phạm… lại mang nhiều tính quản lí chuyên môn. Rõ ràng quản lí cơ sở
giáo dục (nhà trường) thực chất là quản lí các hoạt động hành chính – sư phạm thâm nhập
vào nhau, chúng là hai mặt của một quá trình quản lí: quản lí nhà trường. Tuy nhiên, khi
ta thực hiện tốt những quy chế chuyên môn chính là ta đang bảo đảm trật tự, kỷ cương
trong các hoạt động sư phạm. Mặt khác khi ta chú ý thích đáng tới việc bảo đảm môi
trường kinh tế – xã hội, môi trường giáo dục tốt thì chúng cũng góp phần không nhỏ
trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục. Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng
đến đặc điểm này sẽ giúp cho các cán bộ quản lí giáo dục giải quyết tốt mối quan hệ giữa
quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ trong hoạt động quản lí giáo dục của mình.
Chính vì vậy, một mặt cần phải nắm chắc những quy định, quy chế để chỉ đạo việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ ở cơ sở (quản lí hành chính), mặt khác cần phải hiểu rõ nghiệp
vụ sư phạm, đặc điểm của quá trình giáo dục để chỉ đạo chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết
kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn thì mới có thể chỉ đạo tốt hoạt động
giáo dục và đào tạo, tiến tới thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của Nhà nước.
- Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí
Đặc điểm thứ hai của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng là đặc điểm
nổi bật của quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước nói chung ở mọi lĩnh vực,
đó là tính quyền lực nhà nước trong các hoạt động quản lí. Đặc điểm này biểu hiện ở ba

18


vấn đề cơ bản là: tư cách pháp nhân trong quản lí, công cụ và phương pháp quản lí và
quan hệ thứ bậc trong quản lí.
+ Điều kiện để triển khai quản lí nhà nước là phải có tư cách pháp nhân và yêu cầu
về tính hợp pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách pháp nhân để quản
lí phải được bổ nhiệm và khi đã được bổ nhiệm cần phải thực hiện đúng, đủ chức năng,
thẩm quyền. Không lạm quyền cũng không đùn đẩy trách nhiệm; thực hiện đúng chế độ
thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc chịu trách nhiệm về các quyết định quản
lí trước tập thể và cấp trên. Trong quản lí nhà nước sẽ không có tư cách pháp nhân để “ra
quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên, mỗi tư cách pháp nhân đều có trách nhiệm
và quyền hạn tương ứng, việc hiểu cho đúng, làm cho đủ thẩm quyền là thước đo khả
năng sử dụng quyền lực Nhà nước của một tư cách pháp nhân. Trong thực tế có những
vấn đề phát sinh do không nhận thức đúng tính quyền lực Nhà nước trong các hoạt động
quản lí. Thoái quyền và lạm quyền là hai thái cực của sự vi phạm thẩm quyền, mặt khác
khái niệm thẩm quyền cũng gắn với sự phân cấp và tuân thủ thứ bậc chặt chẽ trong quản
lí nhà nước.
+ Phương tiện quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là các văn bản pháp luật và
pháp quy. Phương pháp chủ yếu để quản lí nhà nước là phương pháp hành chính tổ chức.
Cần nhận thức rằng pháp luật, pháp quy là sự cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, phản ảnh lợi ích của toàn dân, vì vậy đây chính là hành lang pháp lí cho
việc triển khai các hoạt động quản lí giáo dục, bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong
quản lí. Việc không tuân thủ hành lang pháp lí trong các hoạt động quản lí giáo dục tức là
vi phạm trật tự kỷ cương và sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật.
+ Trong quản lí nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí theo sự
phân cấp rõ ràng và mệnh lệnh – phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong
quản lí nhà nước. Tính quyền lực nhà nước ở đây cũng chính là việc cán bộ quản lí giáo
dục cấp phòng cần nhận thức đầy đủ rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương
phải phục tùng trung ương trong quá trình quản lí giáo dục.

- Kết hợp nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lí nhà nước về giáo dục
và đào tạo
Chúng ta đều biết giáo dục và đào tạo là một hoạt động mang tính xã hội cao và
Đảng ta cũng đã nhấn mạnh tư tưởng giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của nhà nước và
của toàn xã hội.
Rõ ràng, dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính
chiến lược và nó có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và quản lí
giáo dục nói riêng. Nhiều bài toán quản lí giáo dục sẽ rất khó giải quyết nếu không có sự
tham gia của đông đảo lực lượng xã hội. Đây cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận
thức trong quản lí giáo dục.
Tóm lại: Quản lí nhà nước về giáo dục là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền do nhà nước quy định, phân cấp trong các hoạt động quản lí giáo dục. Ở một
cơ sở giáo dục (nhà trường), quản lí nhà nước về giáo dục thực chất là quản lí các hoạt
19


động hành chính – giáo dục, vì vậy nó có hai mặt quản lí thâm nhập vào nhau, đó là quản
lí hành chính sự nghiệp giáo dục và quản lí chuyên môn trong quá trình sư phạm.
* Nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục cần quán triệt hai nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ
Mọi cơ sở giáo dục thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo sự chỉ
đạo ngành dọc, nhưng các cơ sở giáo dục đều đóng trên một địa bàn cụ thể nào đó, vì vậy
cũng phải tuân thủ sự quản lí hành chính của địa phương theo quy định phân cấp của nhà
nước.
Mọi hoạt động quản lí không thể tách rời sự chỉ đạo theo ngành dọc và theo lãnh
thổ và chúng được coi là một nguyên tắc quan trọng trong quản lí nhà nước nói chung và
quản lí nhà nước về giáo dục nói riêng.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này dưới góc độ vĩ mô có thể diễn đạt như sau:
sự nghiệp giáo dục, hệ thống giáo dục quốc dân là một hệ thống nhất. Bộ Giáo dục và

Đào tạo là cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo thống nhất trong phạm vi cả
nước. Chính quyền địa phương quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo theo phân lãnh
thổ của mình thông qua cơ quan chuyên môn, theo nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước quy
định phù hợp với cơ chế phân cấp.
Để thực hiện được điều đó nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của
ngành và địa phương như sau:
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo được nhà nước quy định,
như:
– Xét duyệt và cho phát hành các loại sách giáo khoa.
– Quy đình tiêu chuẩn đánh giá, thể lệ cấp phát và thu hồi văn bằng, chứng chỉ
giáo dục và đào tạo.
– Xây dựng tiêu chuẩn định mức giáo viên, tổ chức, quản lí thống nhất việc đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên các cấp.
– Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục trong cả nước
+ Nhiệm vụ, quyền hạn Hội đồng nhân dân địa phương:
– Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục của địa phương.
– Giám sát việc thi hành pháp luật và chủ trương chính sách về giáo dục ở địa
phương.
– Quyết định chủ trương huy động và sử dụng nguồn lực ở địa phương nhằm phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo ở địa phương.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Nhân dân địa phương.
– Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục, bảo đảm các điều
kiện cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục trên địa bàn.
– Quản lí các trường, các cơ sở giáo dục theo sự phân cấp.
– Chỉ đạo thực hiện xã hội hoá giáo dục, tổ chức thực hiện phổ cập, xoá mù chữ.

20


Nói chung, chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm môi trường kinh tế –

xã hội lành mạnh cho các hoạt động giáo dục diễn ra đúng mục tiêu của nhà nước.
Trong hoạt động quản lí ở một cơ sở giáo dục và đào tạo địa phương phải tuân thủ
những quy định, quy chế chuyên môn của ngành dọc (thực hiện quy chế thi cử, văn bằng
chứng chỉ, chỉ thị năm học…). Sự kết hợp có hiệu quả sự chỉ đạo của ngành và lãnh thổ
trong việc triển khai các hoạt động quản lí giáo dục làm một nguyên tắc quan trọng trong
quản lí nhà nước về giáo dục.
- Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí giáo dục và đào tạo
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị xã
hội ở nước ta, đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước. Quản lí nhà nước về giáo dục cũng tuân thủ nguyên tắc này.
Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu nhà nước thống nhất quản lí hệ thống giáo dục
quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung… quy chế thi cử và hệ thống văn bằng
(Điều 13, Luật Giáo dục). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về quản lí giáo dục cho địa
phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng đòi hỏi trong quá trình triển khai quản lí, chỉ
đạo cần tuân thủ những quy định chung của cấp trên về chủ trương, đường lối, phát triển
giáo dục; đòi hỏi cơ sở phải tuân thủ hành lang pháp lí đã quy định nhưng tuyệt đối
không được áp đặt, cần tạo điều kiện cho cơ sở phát huy quyền chủ động sáng tạo của họ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có thể vận dụng được trong hoạt động quản lí nhà
nước về giáo dục ở cơ sở cần suy nghĩ trả lời cho câu hỏi: làm thế nào giải quyết tốt mối
quan hệ giữa chế độ thủ trưởng và thực hiện dân chủ cơ sở ở một trường học?
Rõ ràng nguyên tắc tập trung dân chủ đối với quản lí nhà nước về giáo dục có
nghĩa là Nhà nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục, về mục
tiêu, nội dung giáo dục và quy chế văn bằng… Tuy nhiên, tạo điều kiện cho cơ sở chủ
động sáng tạo trong việc triển khai các hoạt động giáo dục và quản lí giáo dục cụ thể,
tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp, phân quyền về quản lí giáo dục
rõ ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ. Đối với cơ sở, phát huy quyền làm
chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng
đối với việc quản lí nhà nước. Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các tư
tưởng lớn, tuy nhiên việc dựa vào các văn bản pháp luật, pháp quy để đảm bảo quyền và

nghĩa vụ đối với mọi đối tượng tham gia hoạt động giáo dục là điều cần nắm chắc khi
triển khai nguyên tắc tập trung dân chủ ở cơ sở.
Tóm lái, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy
quyền chủ động của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được quy định bởi Luật Giáo dục và
những văn bản pháp quy trong hoạt động quản lí giáo dục đồng thời nâng cao tinh thần cá
nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và phát huy dân chủ của tập thể theo quy chế dân chủ cơ
sở do Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
c. Nội dung quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo

21


Quản lí nhà nước đối với các cấp quản lí đào tạo bao gồm bốn nội dung chủ yếu
sau đây:
Một là: Hoạch định chính sách cho giáo dục và đào tạo. Lập pháp và lập quy cho
các hoạt động giáo dục và đào tạo. Thực hiện quyền hành pháp trong quản lí giáo dục.
Hai là: Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục.
Ba là: Huy động và quản lí các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục.
Bốn là: Thanh tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự kỷ cương pháp luật trong hoạt
động quản lí giáo dục và phát triển sự nghiệp giáo dục.
Tuy nhiên quản lí nhà nước ở các cấp độ khác nhau được cụ thể hoá nội dung
không hoàn toàn giống nhau.
– Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan thay mặt Chính phủ thực hiện quyền
quản lí nhà nước về giáo dục, theo khuyến cáo của Hội đồng Giáo dục Quốc gia tập trung
làm tốt những nội dung sau:
+ Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển ngành.
+ Xây dựng cơ chế chính sách và quy chế quản lí nội dung và chất lượng giáo dục
và đào tạo.
+ Tổ chức thanh tra, kiểm tra và thẩm định.
– Đối với cấp địa phương (tỉnh, huyện, cơ quan chuyên môn là sở, phòng giáo dục

và đào tạo) cần tập trung làm tốt những nội dung chủ yếu sau:
+ Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục ở địa phương và chỉ đạo thực
hiện.
+ Quản lí chuyên môn nghiệp vụ các trường theo sự phân cấp và quản lí nhà nước
về các hoạt động giáo dục ở địa phương.
+ Thực hiện kiểm tra, thanh tra giáo dục ở địa phương.
Đối với cơ sở giáo dục và đào tạo (trường) tập trung làm tốt những nội dung chủ
yếu sau:
+ Tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách giáo dục thông qua việc thực hiện
mục tiêu, nội dung giáo dục và bảo đảm các quy chế chuyên môn…
+ Quản lí đội ngũ sư phạm, cơ sở vật chất, tái chính… theo các quy định chung,
thực hiện kiểm tra nội bộ bảo đảm trật tự an ninh trong nhà trường.
+ Điều hành các hoạt động của nhà trường theo Điều lệ nhà trường đã được ban
hành và giám sát sự tuân thủ điều lệ đó.
1.1.5.2. Bộ máy quản lý Giáo dục và đào tạo
a. Khái niệm về cơ cấu tổ chức quản lí
Cơ cấu tổ chức quản lí là tập hợp các bộ phận (đơn vị hay cá nhân) có mối liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá, có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn nhất
định, được bố trí theo những cấp khác nhau nhằm thực hiện chức năng quản lí và mục
tiêu chung đã được xác định.
b. Các kiểu cơ cấu tổ chức quản lí
– Cơ cấu trực tuyến:
22


Cơ cấu trực tuyến chỉ rõ mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới được quy định
theo nguyên tắc trực tuyến (đường thẳng). Người thủ trưởng thực hiện tất cả các chức
năng quản lí và chịu trách nhiệm trực tiếp trước mọi hoạt động của cấp dưới. Người thừa
hành (bộ phận hay cá nhân) chỉ nhận nhiệm vụ và chịu trách nhiệm với một cấp trên trực
tiếp.

– Cơ cấu chức năng:
Đặc trưng cơ bản của kiểu cơ cấu này là thủ trưởng ủy quyền trực tiếp cho các
khối chức năng được ra quyết định và trực tiếp giải quyết các công việc có liên quan đến
những chức năng do mình đảm nhiệm. Như vậy các cấp cơ sở và những người thừa hành
đồng thời chịu sự chỉ đạo và quyết định của người lãnh đạo trực tiếp và người lãnh đạo
các khối chức năng.
– Cơ cấu trực tuyến – tham mưu:
Cơ cấu này dựa trên cơ sở lấy cơ cấu trực tuyến làm nền tảng, thủ trưởng và
những người lãnh đạo trực tuyến được sự giúp đỡ của một bộ phận tham mưu tư vấn
trong việc đề ra quyết định. Thủ trưởng và người lãnh đạo trực tuyến vẫn toàn quyền
quyết định trong phạm vi tổ chức của mình. Các bộ phận tham mưu không được quyền ra
lệnh trực tiếp cho người thừa hành mà chỉ hoàn toàn với tư cách tư vấn (giúp việc) nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả các quyết định của người lãnh đạo.
– Cơ cấu trực tuyến – chức năng:
Khác với cơ cấu chức năng; ở kiểu cơ cấu này nhiệm vụ, vai trò của các bộ phận
chức năng chỉ là tham mưu, tư vấn, đề xuất cho thủ trưởng và hướng dẫn phần chuyên
môn của mình cho lãnh đạo tuyến. Mọi quyền quyết định vẫn thuộc về thủ trưởng.
– Cơ cấu chương trình – mục tiêu:
Để điều phối việc thực hiện những chương trình – mục tiêu, đề án hay dự án nhằm
vào những mục tiêu nhất định, trong thời gian nhất định người thủ trưởng có thể hình
thành các bộ phận đặc biệt: bộ phận tham mưu (Hội đồng, Ủy ban…), cử lãnh đạo đề án
M1, M2. Khi chương trình hoàn thành, các bộ phận điều hành, quản lí đề án, dự án… tự
giải thể.
c. Nguyên tắc xây dựng cơ cấu tổ chức quản lí
- Nguyên tắc tính đẳng cấu hay nguyên tắc tính phù hợp giữa cơ cấu tổ chức của
cơ quan quản lí với tính phức tạp của chức năng, nhiệm vụ quản lí, tính đa dạng của các
mục tiêu quản lí, quy mô và độ phức tạp của đối tượng quản lí với các điều kiện quản lí.
– Nguyên tắc bảo đảm khả năng quản lí được hay nguyên tắc đảm bảo khối lượng
có thể kiểm tra được.
– Một cán bộ lãnh đạo hay một cơ quan điều hành chỉ có thể quản lí có hiệu quả

với một số lượng tối ưu các đối tượng quản lí (số người, số khâu đơn vị, bộ phận dưới
quyền). Nếu vượt quá giới hạn thì hiệu quả quản lí sẽ bị giảm sút.
– Nguyên tắc nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm phải được quy định rõ ràng và
tương xứng với nhau.

23


– Nhiệm vụ và quyền hạn giao cho từng người, từng bộ phận, từng cấp phải rõ
ràng, hợp lí, không có sự chồng chéo, quyền hạn phải đi đôi tương xứng với trách nhiệm.
Nếu chỉ giao nhiệm vụ mà không giao quyền hạn là không đảm bảo điều kiện tối thiểu
cho việc hoàn thành nhiệm vụ. Ngược lại, giao quyền hạn mà không xác định rõ trách
nhiệm hay không tương xứng với trách nhiệm sẽ sinh ra lạm quyền.
– Nguyên tắc đảm bảo tính linh hoạt
– Cơ cấu tổ chức quản lí phải linh động và dễ thích nghi, nghĩa là dễ có khả năng
cải tiến và biến đổi tuỳ theo mục đích chung và riêng của quản lí, tuỳ theo chất lượng của
các thành tố trong quan hệ quản lí và những điều kiện của quản lí để đáp ứng những yêu
cầu mới của tình hình thực tế, đồng thời cũng có khả năng tự hoàn thiện khi đã có nhiều
kinh nghiệm tích luỹ.
d. Phương pháp xây dựng tổ chức quản lí
– Phương pháp xây dựng theo mẫu:
Dựa trên các mô hình cơ cấu tổ chức quản lí tương tự có sẵn trong thực tế, ở đó
các nhiệm vụ quản lí được thực hiện một cách trôi chảy, có chất lượng cao (kể cả trong
nước hoặc ngoài nước) từ đó đưa ra một mô hình cơ cấu tổ chức lí tưởng trên cơ sở phân
tích cơ cấu tổ chức hiện tại, các điều kiện quản lí cụ thể của cơ quan quản lí, rồi so sánh
với mô hình lí tưởng xác định tính đồng nhất của chức năng, nhiệm vụ quản lí, của kết
quả cuối cùng (sản phẩm), tính tương tự của các đặc điểm về con người, xã hội, lãnh
thổ… từ đó điều chỉnh cải tiến cho sát gần với mô hình lí tưởng và mô hình của đơn vị
mình sao cho phù hợp và khả thi.
– Phương pháp thử nghiệm và loại suy

+ Làm thực nghiệm theo mô hình dự kiến ở một số vùng điển hình (thành phố,
đồng bằng, trung du, miền núi…).
+ Từ kết quả thực nghiệm chọn ra một số mô hình hợp lí.
+ Vận dụng các mô hình đó theo đặc điểm của từng vùng.
+ Phương pháp phân tích – tổng hợp
– Căn cứ vào các văn bản pháp quy, từ chức năng, nhiệm vụ chung của cơ quan
quản lí phân tích, liệt kê tất cả các nhiệm vụ của đối tượng quản lí.
+ Nhóm chúng lại thành các nhóm nhiệm vụ phải quản lí.
+ Từ các nhóm nhiệm vụ mà xác định các bộ phận, thiết kế cơ cấu các tầng bậc
của cơ quan quản lí.
– Phương pháp kết cấu hoá các mục tiêu quản lí
Phương pháp này dựa vào việc thiết lập một hệ thống các mục tiêu quản lí. Cơ cấu
được xây dựng trên quan điểm hệ thống, bao quát tất cả các hoạt động của cơ quan, đồng
thời sử dụng cách mô tả cơ cấu bằng biểu đồ cho các phương án thành lập và hoạt động
của bộ máy quản lí.
1.1.5.3. Quá trình phát triển hệ thống quản lí nhà nước về Giáo dục và đào tạo ở
Việt Nam và xu hướng đổi mới
a. Quá trình phát triển
24


Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời,
và cùng với nó là sự ra đời của nền giáo dục dân chủ nhân dân. Đến nay, hệ thống giáo
dục quốc dân đã trải qua ba cuộc cải cách.
– Cải cách giáo dục lần thứ nhất: Sau khi nước Việt Nam tuyên bố độc lập, tháng
10–1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 34/SL thành lập Hội đồng cố vấn học
chính, Hội đồng có trách nhiệm giúp Chính phủ nghiên cứu một chương trình cải cách
giáo dục. Do hoàn cảnh chiến tranh chống thực dân Pháp nên đến tháng 7–1950 Hội đồng
Chính phủ mới thông qua chương trình cải cách giáo dục và quyết định thực hiện cuộc
cải cách này, với hệ thống giáo dục phổ thông 9 năm.

– Cải cách giáo dục lần thứ hai: tháng 5–1956 Chính phủ thông qua chương trình
cải cách giáo dục lần thứ hai và tháng 8–1956 Chính phủ ban hành chính sách giáo dục
phổ thông của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Hệ thống giáo dục phổ thông thời kỳ này gồm:
+ Cấp 1: 4 năm, gồm các lớp 1, 2, 3, 4 không kể lớp vỡ lòng.
+ Cấp 2: 3 năm, gồm các lớp 5, 6, 7.
+ Cấp 3: 3 năm, gồm các lớp 8, 9, 10.
– Cải cách giáo dục lần thứ ba: Sau khi nước Việt Nam thống nhất Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị định số 14 (01/1979) về việc tiến hành cải cách
giáo dục nhằm thống nhất hệ thống giáo dục phổ thông trong cả nước. Hệ thống giáo dục
phổ thông gồm 12 năm:
+ Cấp I: 5 năm, gồm các lớp từ lớp 1 đến lớp 5.
+ Cấp II: 4 năm, gồm các lớp từ lớp 6 đến lớp 9.
Cấp I và cấp II thống nhất thành trường phổ thông cơ sở.
+ Cấp III: 3 năm, gồm các lớp từ lớp 10 đến lớp 12. Trường cấp III gọi là trường
phổ thông trung học.
Hiện nay, theo Luật Giáo dục (1998), hệ thống giáo dục có cấu trúc hoàn chỉnh
như sau:
– Giáo dục mầm non: Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi với các cơ sở nhà trẻ, trường mẫu giáo và
trường mầm non. Nhà trẻ, nhóm trẻ nhận trẻ từ 3 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi (3 tuổi).
Trường, lớp mẫu giáo nhận trẻ từ 3 tuổi đến 6 tuổi. Trường mầm non là cơ sở giáo dục
kết hợp nhà trẻ và trường mẫu giáo.
– Giáo dục phổ thông gồm
+ Giáo dục tiểu học: 5 năm, gồm các lớp từ lớp 1 đến lớp 5.
+ Giáo dục trung học cơ sở: 4 năm, gồm các lớp từ lớp 6 đến lớp 9.
+ Giáo dục trung học phổ thông: 3 năm, gồm các lớp từ lớp 10 đến 12.
– Trung học chuyên nghiệp: 3 – 4 năm đối với người có bằng tốt nghiệp trung học
cơ sở; 1 – 2 năm đối với người có bằng tốt nghiệp trung học phổ thông.
– Dạy nghề: dưới 1 năm đối với các chương trình dạy nghề ngắn hạn; 1 – 3 năm

đối với các chương trình dạy nghề dài hạn.
25


×