Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

NHỮNG vấn đề CHUNG CỦA GIÁO dục học ĐHTH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.44 MB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON

BÀI GIẢNG
(Lưu hành nội bộ)

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC
(Dành cho sinh viên ngành ĐHGD Tiểu học)

Tác giả: Nguyễn Thị Thùy Vân
Nguyễn Thị Diễm Hằng

1


MỤC LỤC
Trang
CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC ................................... 4
1.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học................................................... 4
1.2. Những khái niệm cơ bản của giáo dục học............................................... 5
1.3. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt.............................................. 7
1.4. Chức năng và nhiệm vụ của giáo dục....................................................... 9
1.5. Cấu trúc của quá trình giáo dục ............................................................. 10
1.6. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục học ................. 13
1.7. Hệ thống các khoa học về giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục học với
các khoa học khác ........................................................................................ 17
1.8. Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục ................................... 19
CHƯƠNG 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH .................... 21
2.1. Sự phát triển nhân cách của con người................................................... 21
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách................................. 24
CHƯƠNG 3. MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC VÀ................................ 29


HỆ THỐNG GIÁO DỤC QUỐC DÂN ............................................................ 29
3.1. Khái niệm mục đích, mục tiêu giáo dục và mối quan hệ giữa mục đích và
mục tiêu giáo dục ......................................................................................... 29
3.2. Mục đích giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay .......................... 31
3.3. Hệ thống giáo dục quốc dân................................................................... 40
CHƯƠNG 4. NGƯỜI GIÁO VIÊN TIỂU HỌC............................................... 45
4.1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của người giáo viên tiểu học ..................... 45
4.2. Đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên tiểu học ..................... 48
4.3. Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của người giáo viên tiểu học ........... 52
4.4. Các mối quan hệ công tác của người giáo viên tiểu học trong hoạt động
sư phạm........................................................................................................ 57
4.5. Vấn đề bồi dưỡng, hoàn thiện nhân cách của người giáo viên tiểu học .. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 61

2


LỜI NÓI ĐẦU
Những vấn đề chung của giáo dục học là một trong những môn học then chốt của chương
trình đào tạo đại cương ở các trường Đại học và Cao đẳng. Để đáp ứng nhu cầu giảng dạy
và học tập của sinh viên thuộc ngành giáo dục tiểu học, chúng tôi biên soạn tập giáo trình
này.
Trong khi biên soạn, nhóm tác giả đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc nhiều tài liệu hiện có
trong và ngoài nước, đồng thời mạnh dạn mở rộng, bổ sung nhiều vấn đề hiện đại mang tính
cập nhật như: Vấn đề di truyền; vai trò, chức năng, nhiệm vụ người giáo viên mầm non, đặc
điểm lao động sư phạm người giáo viên mầm non… cho nên giáo trình này là tài liệu tham
khảo bổ ích đối với cán bộ giảng dạy, sinh viên thuộc ngành giáo dục tiểu học.
Trong quá trình biện soạn giáo trình khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định, mong
nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp và độc giả
Xin chân thành cảm ơn


3


CHƯƠNG 1. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC

1.1. Đối tượng nghiên cứu của giáo dục học
Đối tượng của GDH là một trong những phạm trù cơ bản nhất của GDH. Nó trả
lời cho câu hỏi: GDH nghiên cứu cái gì? Trong điều kiện KHKT và CN phát triển như
vũ bão hiện nay đối tượng của các khoa học luôn luôn biến động và thường phải điều
chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, tìm hiểu đối tượng GDH là cần thiết.
Trước khi nghiên cứu đối tượng của GDH, ta hãy tìm hiểu đối tượng của khoa
học nói chung.
Đối tượng của khoa học là vùng, miền, lĩnh vực của thực tiễn khách quan mà
khoa học đó nghiên cứu. Mỗi khoa học có một đối tượng riêng và trong việc quản lí hệ
thống các lĩnh vực khoa học nó có kí hiệu riêng mà người ta gọi là mã số.
Đối tượng của GDH là một vấn đề đã được trao đổi, thảo luận và biên soạn trong
nhiều tài liệu khác nhau. Tuy nhiên, đến nay đối tượng của GDH được nhiều ngành
thừa nhận đó là quá trình dạy học- giáo dục.
Quá trình dạy học - giáo dục là một quá trình xã hội phức tạp, nhiều mặt và lâu
dài. Đó là một khái niệm rất quan trọng và khó. Có thể xem quá trình dạy học- giáo
dục là một hệ thống bao gồm những yếu tố sau:
- Mục đích giáo dục
- Nội dung giáo dục
- Phương pháp giáo dục
- Hình thức giáo dục
- Phương tiện giáo dục
- Kiểm tra và đánh giá trong giáo dục
Quá trình dạy học - giáo dục diễn ra liên tục, bao gồm nhiều hoạt động, nhiều
quá trình kế tiếp nhau: giờ học, năm học, cấp học... Mỗi quá trình có mục đích riêng

ngày càng được nâng cao và vận động từ điểm xuất phát tới mục đích cuối cùng.
Vận dụng mô hình trên đây cho các lứa tuổi và bậc học khác nhau (mầm non,
phổ thông, đại học), ở các vùng đại lí khác nhau (thành thị, nông thôn, miền núi...), các
quy mô khác nhau (xã, huyện, tỉnh, toàn quốc...) ta sẽ có những mô hình dạy học- giáo
dục cụ thể.
Quá trình dạy học- giáo dục cũng có thể được tiếp cận dưới các quan điểm khoa
học khác nhau: nhận thức luận, tâm lí học, xã hội học, điều khiển học, kinh tế học...
Nếu quan niệm quá trình dạy học- giáo dục như trên thì phạm vi nghiên cứu bao
gồm nhiều vấn đề rộng lớn. Nhưng trước một đối tượng rộng lớn như vậy điều quan
trọng là trong từng giai đoạn phải xác định được một số điểm trọng tâm nhằm làm cho
việc tổ chức nghiên cứu có tính định hướng và tập trung, tránh tản mạn là một trong
những nguyên nhân cơ bản đưa đến hiệu quả giáo dục thấp.
Mặt khác, dạy học- giáo dục là một hiện tượng xã hội xuất hiện sớm trong lịch sử
loài người, giáo dục học và khoa học nói chung đã ra đời từ nhiều thế kỷ. Nhưng hệ
4


thống tri thức giáo dục phát triển chậm, đến nay vẫn còn nghèo nàn, chưa giải quyết
được nhiều vấn đề xã hội đặt ra. Điều đó đòi hỏi phải tìm kiếm những giải pháp kiên
quyết, tích cực, có hệ thống nhằm phát triển nhanh chóng hệ thống tri thức giáo dục
học.
1.2. Những khái niệm cơ bản của giáo dục học
1.2.1. Một số khái niệm giáo dục học
Khi nói đến hệ thống tri thức của một khoa học thì thành phần cơ bản và quan
trọng nhất phải kể đến các khái niệm. Nói cách khác, khái niệm và phạm trù là những
viên gạch tạo nên tri thức khoa học. Vì vậy, một đề tài, một công trình nghiên cứu
thường được bắt đầu bằng việc tìm hiểu các khái niệm, phạm trù. Sau đây là một số
kahí niệm giáo dục học mà chúng ta thường gặp:
- Giáo dục, dạy học, giáo dưỡng, giáo dục (theo nghĩa hẹp);
- Mục đích, nội dung, phương tiện, kết quả;

- Đức dục, trí dục, thể dục, mĩ dục, giáo dục lao động và hướng nghiệp;
- Giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại
học;
- Giáo dục chính quy, giáo dục không chính quy, giáo dục thường xuyên;
- Giáo dục trên lớp, giáo dục ngoài lớp, ngoài trường;
- Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội vv...
Cùng với những khái niệm này, nhiều khái niệm triết học, văn hoá học, xã hội
học, tâm lí học vv... cũng đã gia nhập vào hệ thống các khái niệm giáo dục học với
những nội dung vừa mang tính chất chung vừa mang tính đặc thù, như: nhân cách và
giáo dục nhân cách trong quá trình giáo dục, nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan
trong giáo dục, nhân tố sinh học và nhân tố xã hội trong giáo dục, các laọi hình hoạt
động và các dạng giao lưu trong quá trình giáo dục, xã hội hoá con người, hệ thống giá
trị và định hướng giá trị vv...
1.2.2. Những khái niệm cơ bản
1.2.2.1. Giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình tổ chức một cách có mục đích, kế
hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được
giáo dục nhằm phát triển sức mạnh vật chất và tinh thần của thế hệ đang lớn lên, trên
cơ sở giúp họ chiếm lĩnh những kinh nghiệm lịch sử xã hội loài ngưòi.
Việc tổ chức quá trình đó chủ yếu do những người có kinh nghiệm, có chuyên
môn, gọi là nhà giáo dục, nhà sư phạm đảm nhiệm, nói tổ chức chủ yếu quá trình đó
gọi là nhà trường.
Có thể thấy quá trình giáo dục gồm 3 thành phần cơ bản: thầy giáo, học sinh và
tài liệu giáo khoa. Quá trình giáo dục không thể xảy ra nếu thiếu một trong 3 thành
phần này.
Trong khoa học và đời sống, ngoài khái niệm quá trình giáo dục ta còn gặp các
khái niệm quá trình hình thành con người, quá trình xã hội hoá con người, quá trình
hình thành nhân cách...
5



Quá trình hình thành con người rộng hơn quá trình giáo dục. Quá trình hình
thành con người bao gồm các mặt: sinh học, tâm lí xã hội, giáo dục học... diễn ra do
ảnh hưởng của các nhân tố bên trong(bẩm sinh di truyền, kinh nghiệm, tính tích cực
của chủ thể...) và các nhân tố bên ngoài (môi trường tự nhiên, xã hội).
Quá trình hình thành con người chịu ảnh hưởng các tác động tự phát, ngẫu nhiên
không kiểm soát được và của các tác động có mục đích, có tổ chức, kiểm soát được.
Như vậy, quá trình hình thành con người là việc làm của toàn xã hội chứ không
riêng của ngành giáo dục.
Quá trình xã hội hoá con người là quá trình hình thành con người nhưng chỉ bao
hàm các tác động do những nhân tố xã hội gây nên, vừa mang tính chất tự phát, ngẫu
nhiên, vừa mang tính tự giác, có mục đích, có tổ chức.
Theo nghĩa rộng, xã hội hoá con người là một quá trình hai mặt, bao gồm: một
mặt cá nhân lĩnh hội kinh nghiệm xã hội bằng cách gia nhập môi trường xã hội, hệ
thống các quan hệ xã hội, mặt khác cá nhân tích cực tham gia vào các mối liên hệ xã
hội, bằng hoạt động sống của mình, bằng sự tham gia tích cực vào môi trường xã hội.
Tuy về lí luận hai khái niệm qua strình giáo dục và quá trình hình thành con
người được xác định tương đối rõ. Nhưng trong đời sống, trong hoạt động thực tiễn
hiện nay khái niệm quá trình giáo dục thường được mở rộng ra. Nhất là trong điều kiện
hiện đại, khi xã hội đòi hỏi phải giáo dục con người ở mọi nơi, mọi lúc, giáo dục
thường xuyên, suốt đời...thì khái niệm quá trình giáo dục trước đây được mở rộng
cũng là điều hợp lí. Đó là điều chú ý khi nghiên cứu các vấn đề giáo dục học.
1.2.2.2. Dạy học là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng) là quá trình
tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội những kinh
nghiệm lịch sử xã hội loài người (kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo) để phát triển nhưũng năng
lực và phẩm chất của người học theo mục đích giáo dục.
Thế mạnh của dạy học là hình thành hệ thống tri thức (bao gồm các khái niệm,
phạm trù, quy luật, phương pháp nhận thức...) hình thành các kĩ năng và kĩ xảo chung
và riêng, làm cơ sở cho việc hình thành năng lực chung, năng lực chuyên biệt và phẩm
chất của người học.
Bằng con đường nhận thức lí luận, những kinh nghiệm đồ sộ của xã hội loài

người có thể được khái quát hoá và truyền thụ cho thế hệ đang lớn lên trong một thời
gian ngắn và có hệ thống. Nhờ đó, họ có điều kiện để kế thừa và phát triển sức mạnh
tinh thần và vật chất của bản thân và góp phần vào việc phát triển xã hội. đó là vai trò
quan trọng đặc biệt của dạy học.
1.2.2.3. Giáo dục (nghĩa hẹp) là một bộ phận của quá trình giáo dục (nghĩa rộng)
là quá trình hình thành niềm tin, lí tưởng, tình cảm, thái độ...
Việc hình thành lí tưởng, niềm tin, thái độ... là thế mạnh của quá trình giáo dục
và thường được tiến hành thông qua sinh hoạt tập thể, các hoạt động xã hội, lao động
xã hội công ích, trong và ngoài nhà trường...
Tóm lại, mối quan hệ giữa quá trình giáo dục (QTGD) theo nghĩa rộng, quá trình
dạy học (QTDH) và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp) có thể biểu diễn dưới sơ đồ
sau:
6


QTGD (nghĩa rộng) = QTDH + QTGD (nghĩa hẹp)
Lưu ý:
- QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) đều có một mục đích chung là đào tạo con người
phát triển toàn diện nhưng mỗi quá trình có một thế mạnh riêng.
- QTDH và QTGD (nghĩa hẹp) trong thực tế luôn gắn bó chặt chẽ với nhau rất ít
trường hợp diễn ra một cách độc lập.
- QTDH không chỉ làm nhiệm vụ hình thành hệ thống tri thức, kĩ năng, kĩ xảo.
Bởi vì khi các em đã nhận thức được vấn đề bao giờ cũng có thái độ với nó, dẫu thầy
giáo có chú ý đến điều đó hay không. Tuy nhiên, thái độ của các em phụ thuộc rất lớn
vào nghệ thuật trình bày vấn đề và thái độ của thầy giáo.
- Trong thực tiễn dạy học hiện nay, nhà trường thường tập trung mọi nỗ lực của
mình vào quá trình dạy học, ít chú ý đến quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) nghĩa là ít tổ
chức sinh hoạt tập thể, hoạt động xã hội, hoạt động lao động công ích và lao động sản
xuất..., ít chú ý đến việc học tập, rèn luyện trong đời sống, vận dụng kiến thức để giải
quyết các vấn đề thực tiễn, không có điều kiện rèn luyện ý chí, phẩm chất và năng lực

ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường nên học sinh rất bỡ ngỡ khi bước vào cuộc
sống. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm giảm chất lượng giáo dục
hiện nay.
Vì vậy, việc tách quá trình giáo dục (nghĩa hẹp) ra khỏi quá trình dạy học là để
nhấn mạnh tầm quan trọng của nó trong đời sống nhà trường.
1.3. Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt
1.3.1. Tại sao gọi giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt?
Từ khi xuất hiện xã hội loài người, để có thể tồn tại và phát triển, trong lao động
và trong cuộc sống hằng ngày, con người không ngừng tìm tòi và khám phá thế giới,
tích luỹ kinh nghiệm lịch sử, xã hội. Nhờ đó loài người đã dần dần phát triển và nắm
vững ngày càng nhiều quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan, tích luỹ, hệ
thống hoá ngày càng nhiều kinh nghiệm phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực hoạt
động.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội, con người có nhu cầu truyền lại cho
nhau những kinh nghiệm đã tích luỹ được. Thế hệ trước truyền đạt cho thế hệ sau vốn
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, đến lượt mình thế hệ sau kế thừa và phát triển, tiếp thu có
chọn lọc, sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Chính nhu cầu này là nguồn gốc phát sinh của hiện tượng giáo dục.
Ban đầu giáo dục diễn ra một cách tự phát theo lối quan sát, bắt chước nhưng về
sau nó được diễn ra một cách tự giác, có kế hoạch, có ý thức, có nội dung, có phương
pháp.
Có thể khẳng định: Giáo dục là nhu cầu tất yếu của xã hội. Nó là một hiện tượng
nảy sinh, tồn tại và phát triển vĩnh hằng cùng với sự nảy sinh, tồn tại và phát triển của
xã hội loài người.Việc truyền thụ và lĩnh hội những kinh nghiệm là nét đặc trưng cơ
7


bản của hoạt động giáo dục với tư cách là một thiết chế xã hội, là một hiện tượng xã
hội đặc biệt, là nhu cầu quan trọng của xã hội loài người.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại đã có nhiều kiểu giáo dục liên tục phát

triển. Mỗi kiểu giáo dục đều phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội và hoàn cảnh lịch sử
đã sản sinh ra nó. Lịch sử giáo dục đã chứng minh giáo dục là một hiện tượng xã hội
đặc biệt, là thành phần trong cơ cấu, thiết chế xã hội, gắn liền với sự thoả mãn nhu cầu
phát triển và tiến bộ xã hội.
1.3.2. Tính quy định của xã hội đối với giáo dục
1.3.2.1. Tính lịch sử - xã hội của giáo dục
Mỗi chế độ xã hội khác nhau có mỗi nền giáo dục tương ứng. Mỗi nền giáo dục
phản ánh yêu cầu và trình độ phát triển của xã hội. Do đó, giáo dục bao giờ cũng biến
đổi không ngừng, bao giờ cũng mang tính lịch sử cụ thể.
Ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, sản xuất nông nghiệp đóng vai trò chủ đạo trong
nền kinh tế, giáo dục chủ yếu giành cho tầng lớp trên, đi học với mục đích thi cử làm
quan.
Giáo dục Việt Nam hiện nay nhằm đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá hiện
đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
- Ở mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử đều có nền giáo dục tương ứng với
đặc trưng về mục đích, nhiệm vụ, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức. Vì thế,
không nên sao chép, áp đặt nguyên bản mô hình giáo dục của các nước phương Tây
cho nền giáo dục Việt Nam hoặc cũng không nên giữ nguyên mô hình giáo dục đã
hình thành trước đây áp dụng cho nền giáo dục hiện đại.
1.3.2.2. Tính giai cấp của giáo dục
Trong xã hội có sự phân chia giai cấp thì giáo dục mang tính giai cấp vì giai cấp
thống trị sử dụng giáo dục làm công cụ bảo vệ quyền lợi của mình, sử dụng giáo dục
để truyền bá tư tưởng, đường lối, chủ trương của giai cấp đó. Mặt khác, giai cấp thống
trị biến giáo dục thành phương tiện để đào tạo lớp người phục vụ xã hội. Tính giai cấp
của giáo dục được thể hiện rõ nét ở mục đích, nội dung, nhiệm vụ và phương pháp đào
tạo.
Xã hội Việt Nam hiện nay có sự phân chia giai cấp. Giáo dục cũng mang tính

giai cấp. Tuy nhiên, các giai cấp trong xã hội Việt Nam không mâu thuẫn về quyền lợi
mà bình đẳng với nhau, tính giai cấp là tiếng nói chung của toàn xã hội. Nền giáo dục
hướng vào việc phát triển toàn diện hài hoà nhân cách của mọi thành viên trong xã hội.
1.3.2.3. Tính kế thừa của giáo dục

8


Giáo dục bao giờ cũng có tính kế thừa. Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau, kế
thừa giữa các nền giáo dục vì đặc trưng của giáo dục là sự kế thừa kinh nghiệm, kế
thừa những thành tựu mà nhân loại đã đúc kết lại trong quá trình xây dựng và phát
triển giáo dục theo lịch sử phát triển xã hội.
Tính kế thừa của giáo dục đòi hỏi một mặt phải nghiên cứu, tiếp thu, phát triển
những yếu tố tiến bộ, những kinh nghiệm quý báu của các nền giáo dục trước, mặt
khác phải biết phê phán, loại bỏ những yếu tố lạc hậu, không phù hợp với sự phát triển
mới của giáo dục, của xã hội.
1.4. Chức năng và nhiệm vụ của giáo dục
1.4.1. Chức năng của giáo dục
1.4.1.1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Trong điều kiện phát triển của cách mạng khoa học kỹ thuật, không chỉ tăng
cường mối liên hệ giữa khoa học với sản xuất để biến khoa học thành một lực lượng
sản xuất trực tiếp mà phải thực hiện sự tác động qua lại giữa khoa học giáo dục và sản
xuất. Hiệu quả của nền sản xuất vất chất phụ thuộc trực tiếp vào sự phát triển chung về
mặt nhận thức và trình độ chuyên môn của người lao động. Trình độ học vấn và
chuyên môn giúp cho người lao động có khả năng tiếp cận và vận dụng những thành
tựu của khoa học kỹ thuật vào lao động để tác động đến việc hoàn thiện công cụ lao
động, biến lao động thành hoạt động sáng tạo. Cho nên, quan hệ giữa trình độ của
người lao động với năng xuất lao động đã được coi là quy luật cơ bản của nền sản xuất
hiện đại. Trình độ chuyên môn của người lao động càng cao thì năng xuất lao động
càng cao. Giáo dục đào tạo nhân lực cho tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, văn

hoá, xã hội đảm bảo cho xã hội vận động và phát triển.
Như vậy, giáo dục trực tiếp tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo ra sức lao động
mới hơn, tinh vi hơn, khéo léo hơn để thay thế sức lao động cũ bằng cách phát triển
những năng lượng chung và năng lực chuyên biệt của con người.
Để thực hiện tốt chức năng kinh tế- sản xuất, giáo dục phải thoả mãn một số yêu
cầu cơ bản sau:
- Giáo dục phải gắn bó chặt chẽ với sự phát triển kinh tế- sản xuất và thoả mãn
các yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn cụ thể.
- Xây dựng một hệ thống ngành nghề cân đối, đa dạng phù hợp.
- Các loại hình cán bộ kỹ thuật và công nhân phải đảm bảo tính cân đối, tránh
tình trạng thừa thầy thiếu thợ, đồng thời phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao,
có phẩm chất tốt để thoả mãn các yêu cầu sản xuất hiện đại.
1.4.1.2. Chức năng chính trị - xã hội
Giáo dục trực tiếp tác động tới cấu trúc xã hội, làm phân hoá các tầng lớp xã hội,
nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, làm thay đổi vị trí xã hội của mỗi người.
Trong xã hội có giai cấp thì giáo dục là công cụ nhằm truyền bá quan điểm, đường lối
của giai cấp thống trị để đảm bảo ổn định chính trị.
9


Giáo dục góp phần thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu xã hội. Thông qua việc
nâng cao dân trí, nâng cao trình độ văn hoá cho toàn dân và đào tạo nguồn nhân lực
góp phần xoá đói, giảm nghèo, góp phần chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi cấu trúc
lao động xã hội và tạo ra sự bình đẳng trong các tầng lớp dân cư. Góp phần đào tạo
một đội ngũ cán bộ quản lý theo tinh thần “do dân, vì dân”.
1.4.1.3. Chức năng tư tưởng - văn hoá
Giáo dục có vai trò truyền bá hệ tư tưởng của xã hội, xây dựng lối sống mới,
nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho toàn xã hội. Mặt khác, giáo dục phát
huy truyền thống tư tưởng, văn hoá tốt đẹp của dân tộc, của xã hội, xây dựng nền văn
hoá mới, tư tưởng mới theo yêu cầu phát triển xã hội; đào tạo bồi dưỡng nhân tài cho

xã hội; góp phần hình thành hệ thống giá trị xã hội, xây dựng lối sống, đạo đức, thế
giới quan, ý thức hệ và chuẩn mực xã hội. Với chức năng này, giáo dục tiến hành nâng
cao dân trí, đồng thời xoá bỏ các tàn dư văn hoá lạc hậu, đấu tranh chống các tệ nạn xã
hội.
1.4.2. Nhiệm vụ của giáo dục học
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo dục với nội dung, phương pháp,
hình thức tổ chức giáo dục trong điều kiện mới, phát hiện các nhân tố mới mang tính
quy luật trong sự phát triển giáo dục hiện nay (trong nội dung như các vấn đề giáo dục
quốc tế, giáo dục môi trường; trong phương pháp như các vấn đề tự học, phát huy nội
lực của người học)
- Các vấn đề về hệ thống giáo dục quốc dân trong tiến trình đổi mới và phát triển
những yêu cầu lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong công tác quản lý giáo dục
- Nghiên cứu làm rõ vấn đề giáo dục giá trị trong điều kiện xã hội hiện đại, đó là
cách tốt nhất góp phần hình thành nhân cách, giúp con người sáng tạo ra các giá trị
mới.
Các nhiệm vụ trên vừa có tính định hướng cho mọi hoạt động nghiên cứu, sáng
tạo trong phạm vi giáo dục học, vừa có ý nghĩa thiết thực đối với quá trình điều chỉnh,
hoàn thiện quá trình giáo dục.
1.5. Cấu trúc của quá trình giáo dục
- Qúa trình giáo dục (sư phạm tổng thể) là sự thống nhất của hai quá trình bộ
phận: quá trình dạy học và quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp). Cả hai quá trình đều
thực hiện chức năng chung của giáo dục trong việc hình thành nhân cách toàn diện.
Song mỗi quá trình đều có chức năng trội của mình và dựa vào chức năng trội đó để
thực hiện các chức năng khác nhau.
Chức năng trội của quá trình dạy học là trau dồi học vấn, là truyền thụ và lĩnh hội
một hệ thống tri thức khoa học, những kỹ năng, kỹ xảo, nhận thức và hành động.
Chức năng trội của quá trình giáo dục là xây dựng một hệ thống niềm tin, lý
tưởng, động cơ, thái độ, tính cách, thói quen, là hình thành những phẩm chất thế giới
quan chính trị, đạo đức…của cá nhân.
10



- So sánh quá trình dạy học và giáo dục:
Qúa trình dạy học
Về chức
năng,
nhiệm vụ

Có thế mạnh trong việc hình
thành các biểu tượng, khái niệm, định
luật, lý thuyết, các kỹ năng, kỹ xảo
nghĩa là ảnh hưởng của nó thiên về trí
tuệ, nhận thức.

Có thế mạnh trong việc hình
thành niềm tin, chuẩn mức, lý
tưởng, động cơ, nguyên tắc hành
vi đạo đức…nghĩa là ảnh hưởng
của nó thiên về thái độ, cảm xúc,
tâm hồn.

Chương trình, kế hoạch dạy học
được quy định chặt chẽ

Nội dung giáo dục chỉ có
tính định hướng: có thể là sinh
hoạt văn hóa, chính trị, xã hội, lao
động nghệ thuật, thể thao, du
lịch…có tính chất quần chúng.
Nội dung giáo dục được xác định

chủ yếu dựa theo nhu cầu xã hội,
nguyên vọng và hứng thú của tập
học sinh ở từng lứa tuổi khác
nhau. Người thầy kết hợp với học
sinh và phụ huynh học sinh để lựa
chọn các hoat động giáo dục
nhằm đảm bảo yêu cầu giáo duc
toàn diện.

Về nội
dung

Về hình
thức

Về quản


Qúa trình giáo dục

Khi dạy học, các hình thức
Trong quá trình giáo dục thì
thường được sử dụng là: giờ lên lớp, các hình thức thường được sử
dụng là: sinh hoạt tập thể, hoạt
xemine, thực hành thí nghiệm…
động xã hội, tham quan, lao động
xã hội – công ích…
Người lãnh đạo quá trình dạy học
Người lãnh đạo là đại diện
của tập thể học sinh như lớp

chủ yếu là thầy giáo.
trưởng, cán bộ đoàn, đội với sự
giúp đỡ của các thầy giáo chủ
nhiệm.

- Qúa trình giáo dục tổng thể cũng như quá trình giáo dục bộ phận đều được tạo
nên bởi các yếu tố sau:
* Mục đích, nhiệm vụ giáo dục
Mục đích giáo dục có thể được coi là “đơn dặt hàng” của xã hôị đối với nền
giáo dục về mẫu nhân cách người được giáo dục, mà giáo dục cần đào tạo nhằm đáp

11


ứng yêu cầu của xã hội về giáo dục con người lao động trong từng giai đoạn phát triển
lịch sử của xã hội.
Để thực hịên tốt mục đích này, giáo dục phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ giáo
dục: giáo dục trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất và giáo
dục lao động. Những nhiệm vụ này liên hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cho nhau và thâm
nhập vào nhau.
Mục đích và nhiệm vụ giáo dục được coi là yêú tố hàng đầu của quá trình giáo
dục tổng thể hoặc bộ phận vì nó định hướng cho sự vận động và phát triển của toàn bộ
quá trình giáo dục này cũng như cho sự vận động và phát triển của các yếu tố khác.
* Nội dung giáo dục:
Nội dung giáo dục bao gồm hệ thống những giá trị xã hội mà người được giáo
dục cần tiếp nhận để phát triển nhân cách theo những yêu cầu mà xã hội đặt ra. Đó là
hệ thống những giá trị nhân văn, đạo đức, văn hóa, khoa học, công nghệ…được lựa
chọn trong kho tàng giá trị của nhân loại.
Nội dung giáo dục, về cơ bản, được phản ánh trong chương trình và sách giáo
khoa. Nó tạo nên nội dung hoạt động thống nhất cho nhà giáo dục và người được giáo

dục nhằm đạt mục đích giáo dục đã định.
* Phương pháp và phương tiện giáo dục
Phương pháp và phương tiện giáo dục quy định những cách thức và những
phương tiện hoạt động của nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm hoàn thành
nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đã định.
Phương pháp và phương tiện giáo dục là hai yếu tố độc lập nhưng trong thực tiễn
giáo dục, chúng luôn được thực hiện trong mối liên hệ biện chứng với nhau, thâm
nhập vào nhau, sinh thành ra nhau và tạo ra sức sống cho nhau.
* Nhà giáo dục
Nhà giáo dục cùng tập thể sư phạm của họ đóng vai trò định hướng, tổ chức, điều
khiển, điều chỉnh và đánh giá hoạt động nhận thức và tự giáo dục của người được giáo
dục. Nói gọn lại, đó là vai trò chủ đạo của nhà giáo dục.
*Người được giáo dục
Người được giáo dục, cùng với tập thể của họ một mặt là đối tượng giáo dục, tiếp
nhận sự tác động có định hướng của nhà giáo dục; mặt khác là chủ thể nhận thức, chủ
thể tự giáo dục. Hai vai trò thống nhất với nhau, trong đó vai trò chủ thể là cơ bản
nhất.
*Kết quả giáo dục
Kết quả giáo dục là trình độ phát triển nhân cách của người được giáo dục đạt
được sau mỗi quá trình giáo dục nhất định và sau toàn bộ quá trình giáo dục. Đồng
thời kết quả này cũng được coi là kết quả sinh động của sự vận động và phát triển của
quá trình giáo dục bộ phận và của quá trình giáo dục tổng thể.
12


Những yếu tố trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại và thống
nhất với nhau. Ví dụ: mục đích, nhiệm vụ giáo dục có vai trò định hướng cho sự vận
động và phát triển của các yếu tố khác; về phần mình các yếu tố khác lại phục vụ cho
việc hoàn thành các nhiệm vụ giáo dục và đạt được mục đích giáo dục đề ra.
Những yếu tố trên đây có mối liên hệ mật thiết, tác động qua lại, thống nhất với

môi trường kinh tế - xã hội và môi trường khoa học - công nghệ.
Các môi trường đặt ra các yêu cầu cho quá trình giáo dục ngày càng cao, đòi hỏi
quá trình giáo dục phải đào tạo ra những người công dân, những người lao động theo
mẫu nhân cách nhất định, mặt khác, lại tạo điều kiện thuận lợi để quá trình này đạt
đựơc những kết quả với chất lượng và hiệu quả cao.
*Cả quá trình giáo dục tổng thể lẫn các quá trình giáo dục bộ phận và từng yếu tố
của nó đều là đối tượng nghiên cứu của giáo dục học
1.6. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục học
1.6.1. Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của khoa học giáo dục
* Trong thời kỳ cổ đại, giáo dục được xem là một trong những mặt hoạt động xã
hội bình thường trong cuộc sống hàng ngày gắn với tiến trình phát triển chung của xã
hội. Vào thời kỳ này xuất hiện các nhà tư tưởng giáo dục nổi tiếng như: Khổng Tử
(551 - 479 TCN); Xôcrát (469 - 399 TCN); Arixtôt (384 - 322 TCN); Platôn (427 347 TCN)...
- Xôcơrát (469 - 399 TCN): là nhà giáo dục thực hành, ông quan niệm giáo dục
phải giúp con người tìm thấy, tự khẳng định chính bản thân mình, vì thế tư tưởng của
ông mang giá trị nhân văn rất cao. Trong hoạt động giáo dục ông nổi tiếng là nhà sáng
tạo. Bao giờ ông cũng nêu câu hỏi để người học suy nghĩ, tự tìm lời giải đáp. Trong 40
năm hoạt động, ông đã nêu cao tấm gương đức hạnh của mình, tình yêu chân lí và sự
can đảm trong việc bảo vệ chân lí…
- Platôn (427 - 347 TCN): là học trò của Xôcơrát, ông đã có công sưu tập, ghi lại
và xuất bản phần lớn các tác phẩm của Xôcơrát. Theo ông, việc giáo dục trước hết liên
quan tới đạo đức, tâm lí học, xã hội học. Ông cho rằng, sống đạo đức trước hết là sống
công bằng, một cá nhân được xem là công bằng khi nội tâm đảm bảo được sự thăng
bằng giữa 3 yếu tố: dục vọng, sự can đảm và lý trí, nhưng “hành động của con người
chỉ hợp lý nếu cái bụng và trái tim chịu sự phục tùng cái đầu”. Ông cũng cho rằng,
con người và xã hội chỉ có thể đạt tới hạnh phúc bởi một nền giáo dục quốc gia. Mỗi
con người phải được giáo dục như nhau ngay từ ngày đầu. Đây là quan điểm tiến bộ,
song không phù hợp với thể chế của xã hội nô lệ.
- Khổng Tử (551 – 479 TCN): là nhà giáo vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và của
nhân loại. Ông quan niệm giáo dục con người phải nhằm mục đích đào tạo nên những

người nhân nghĩa, có phẩm hạnh. Trong quá trình hoạt động giáo dục, Khổng Tử đã
sáng tạo và vận dụng nhiều phương pháp giáo dục tiến bộ so với đương thời. Ông đã
dùng cách gợi mở, đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp nhưng vẫn đòi hỏi người
13


học phải tích cực suy nghĩ để nắm vững vấn đề; ông đòi hỏi người phải luyện tập, nề
nếp và thói quen trong học tập, theo hướng “ôn cũ để biết cái mới”. Để gắn nội dung
giáo dục với cuộc sống, ông còn dùng phương pháp đối thoại, yêu cầu học sinh liên hệ
những điều đã học vào thực tế hàng ngày…
Vào thời cổ đại, nhiều nhà tư tưởng giáo dục đồng thời cũng là nhà khoa học,
triết học, do đó các tư tưởng giáo dục thường phát triển và được trình bày trong các tác
phẩm triết học và khoa học nói chung…
* Ở phương Tây, vào thời kỳ trung cổ, vai trò độc tôn của nhà thờ đã có ảnh
hưởng rất rõ nét đối với sự phát triển của nhà trường nói chung và về tư tưởng giáo
dục nói riêng. Giáo dục học chưa xuất hiện với tư cách là một khoa học độc lập.
Ở Tây Âu, vào thời kỳ Trung cổ, triết học cùng giáo dục chủ yếu phục vụ cho
thần học. Thời ấy chỉ có các trường của giáo hội, các nhà tôn giáo chủ trương kết hợp
và dung hòa lý trí, sự phát triển trí tuệ với niềm tin tôn giáo, chính đó là sự thể hiện
nguồn gốc nảy sinh ra triết học kinh viện, nhằm chứng minh rằng niềm tin bao giờ
cũng định hướng và ở vị trí cao hơn trí tuệ, có trước trí tuệ và khoa học.
Đến thế kỷ XII - XIII ở Tây Âu đã hình thành ba loại trường: Trường tu viện;
trường của nhà thờ và trường dòng. Lúc đầu ở các loại trường này chỉ dạy giáo lý, kinh
bản. Sau đó dạy thêm số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Bên cạnh trường tôn
giáo có hệ thống giáo dục kị sĩ, với nội dung giáo dục “Bảy đức tính của kỵ sĩ”: Cưỡi
ngựa, bơi, dùng giáo, đấu kiếm, đi săn, đánh cờ, làm thơ. Thực chất giáo dục tôn giáo
và giáo dục kị sĩ ở Tây Âu đều phục vụ cho chế độ phong kiến thần quyền đương thời.
* Đến cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV khi mầm mống của xã hội tư bản xuất
hiện, nhân loại bước vào thời đại Phục hưng. Các nhà tư tưởng nhân văn tiên tiến xuất
hiện, tạo nên nhu cầu, động lực mới thúc đẩy giáo dục phát triển với tư tưởng giáo dục

tiến bộ: Vượt ra khỏi khuôn khổ giáo dục kinh viện - tôn giáo, hướng về chủ nghĩa
nhân văn. Các nhà nhân văn chủ nghĩa chủ trương đề cao giá trị con người, cho rằng
con người cần được phát triển toàn diện. Chính bước quá độ từ chế độ phong kiến qua
chủ nghĩa tư bản đã làm xuất hiện những hệ thống tri thức mới ra đời, trong đó có
nhiều khoa học tách ra khỏi triết học. Giáo dục học từ đây cũng tồn tại và phát triển
như là một khoa học độc lập do công của nhà giáo dục học vĩ đại Tiệp Khắc Comenxki
(1592 - 1670). Ông là nhà lý luận và là nhà tư tưởng giáo dục đã đề cao giáo dục phổ
cập, việc dạy tiếng mẹ đẻ trong các nhà trường và nêu ra luận chứng chặt chẽ trong tác
phẩm nổi tiếng: “Phép giảng dạy vĩ đại”. Rất nhiều nguyên tắc dạy học vẫn được sử
dụng đến ngày nay như: Nguyên tắc trực quan, nguyên tắc tính khoa học và tính hệ
thống trong dạy học vv… đã được nêu bật trong tác phẩm ấy.
Sau Comenxki, xuất hiện nhiều nhà nghiên cứu giáo dục học, như Lốccơ (1632 1701), Rútxô (1712 - 1778),… trong đó phải kể đến Petxtalogi, ông đặc biệt nhấn mạnh
tác dụng của việc kết hợp lao động với học tập, nhấn mạnh tác dụng vai trò của trực

14


quan trong dạy học và giáo dục và vạch ra một hệ thống các phương pháp giáo dục
chung.
Cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội tư bản, kinh tế - xã hội, văn hóa
và khoa học phát triển rất nhanh, giáo dục đã được nâng cao. Tuy vậy, mâu thuẫn xã
hội cũng đã xuất hiện và ngày càng gay gắt, tất cả đều được phản ánh rõ nét trong hệ
tư tưởng, trong đời sống xã hội.
* Vào nửa đầu thế kỷ XIX cùng với sự phát triển chung của khoa học, giáo dục
học cũng đã phát triển và thể hiện sự đấu tranh gay gắt giữa các quan điểm lí luận giáo
dục của giai cấp tư sản và lợi ích giáo dục của nhân dân. Nhiều nhà giáo dục tiến bộ,
như A. Dixtécvéc (1790 - 1866), A. XanhXimông (1760 - 1837)… đã tiếp tục phát triển
quan điểm giáo dục của Petxtalozi, họ không những kế thưa tư tưởng giáo dục tiến bộ
của ông mà còn phát triển, làm phong phú thêm, xây dựng cơ sở cho các quan điểm giáo
dục xã hội chủ nghĩa về sau, nâng cao tầm tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa trong giáo dục.

* Cùng với sự xuất hiện của chủ nghĩa Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX,
giáo dục học tiếp tục phát triển với cơ sở phương pháp luận khoa học, làm cho giáo
dục học tiếp thu, kế thừa và phát huy được toàn bộ thành tựu của các tư tưởng giáo dục
tiến bộ của nhân loại, gắn liền với sự phát triển và tiến bộ của giáo dục với công cuộc
đấu trành giải phóng con người khỏi mọi ách áp bức bóc lột, mọi tệ nạn xã hội, góp
phần tổ chức lại xã hội theo hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển những giá
trị tinh hoa trong di sản giáo dục của nhân loại, học thuyết Mác - Lênin về giáo dục đã
chứng minh một cách khoa học các vấn đề có tính quy luật trong giáo dục như: Sự
hình thành con người, tính quy định của kinh tế - xã hội đối với giáo dục, tính lịch sử
của giáo dục trong tiến trình phát triển của xã hội và vai trò của giáo dục trong điều
kiện xã hội có giai cấp.
Những luận điểm trên đã được xem là các quan điểm cơ bản, có vai trò định
hướng cho mọi quá trình nghiên cứu, ứng dụng các vấn đề lý luận và thực tiễn giáo
dục, giúp cho giáo dục học ngày càng phong phú và phát triển sâu rộng như ngày nay.
1.6.2 Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học ở Việt Nam
Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục nước ta trong thời gian qua, phân tích
bối cảnh trong nước và ngoài nước, nhận định về thời cơ và thách thức đối với giáo
dục trong thời kỳ mới, Đảng ta đã đưa ra các quan điểm chỉ đạo thực tiễn giáo dục
Việt Nam trong giai đoạn mới - công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hiến pháp
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật Giáo dục(2005), Chiến lược
phát triển giáo dục 2011-2020 đã thể hiện những quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục
ở nước ta như sau:
1. Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng,
Nhà nước và của toàn dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà
nước, nâng cao vai trò các tổ chức, đoàn thể chính trị, kinh tế, xã hội trong phát triển
giáo dục. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu đãi đối
15


với giáo dục, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương; ưu tiên ngân sách

nhà nước dành cho phát triển giáo dục phổ cập và các đối tượng đặc thù.
2. Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, tiên tiến, hiện đại, xã hội chủ
nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục vùng khó để đạt được
mặt bằng chung, đồng thời tạo điều kiện để các địa phương và các cơ sở giáo dục có
điều kiện bứt phá nhanh, đi trước một bước, đạt trình độ ngang bằng với các nước có
nền giáo dục phát triển. Xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng được
học, học suốt đời, đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số, người nghèo, con em diện
chính sách.
3. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa,
xã hội hóa, dân chủ hóa, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển giáo dục gắn với phát triển khoa học và công nghệ,
tập trung vào nâng cao chất lượng, đặc biệt chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành để một mặt đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đảm bảo an ninh quốc
phòng; mặt khác phải chú trọng thỏa mãn nhu cầu phát triển của mỗi người học, những
người có năng khiếu được phát triển tài năng.
4. Hội nhập quốc tế sâu, rộng về giáo dục trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc
dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng giao lưu hợp
tác với các nền giáo dục trên thế giới, nhất là với các nền giáo dục tiên tiến hiện đại;
phát hiện và khai thác kịp thời các cơ hội thu hút nguồn lực có chất lượng.
1.6.3. Xu thế phát triển hiện nay của giáo dục học thế giới
Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, sự hình
thành nền kinh tế tri thức, xã hội thông tin và xu thế toàn cầu hóa… đã tác động mạnh
mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục. Xu thế phát triển
giáo dục thế giới đã được UNESCO khái quát thành 21 điểm với các tư tưởng chủ yếu:
- Giáo dục thường xuyên phải là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục; giáo
dục suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, giáo dục cho mọi người, xây dựng một xã hội
học tập. Giáo dục phải làm cho mỗi người trở thành người dạy và người kiến tạo nên
sự tiến bộ văn hóa của bản thân
- Giáo dục không chỉ dạy cho con người có học vấn mà phải thực hành, thực

nghiệm để có tay nghề, vào đời không bỡ ngỡ. Phát triển giáo dục gắn liền với phát
triển kinh tế - xã hội, chú ý giáo dục hướng nghiệp để có thể lập thân, lập nghiệp
- Giáo dục trẻ em trước tuổi đến trường phải là một mục tiêu lớn trong chiến lược
giáo dục. Giáo dục phổ thông cơ sở phải là mục tiêu hàng đầu của chính sách giáo dục.
- Giáo viên phải được đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những
chuyên gia truyền đạt kiến thức. Việc giảng dạy phải thích nghi với người học chứ
không phải áp đặt máy móc buộc người học tuân theo.
16


Các nước trên thế giới đang tiến hành cải cách giáo dục theo các hướng lớn sau:
- Tăng cường giáo dục nhân văn
- Công nghệ - thông tin
- Đào tạo những con người vừa có tri thức, vừa có kỹ năng, năng lực thực sự
đóng góp vào sự phát triển xã hội.
- Hiện đại hóa các phương pháp day học – giáo dục
Nền giáo dục Việt Nam cũng đang trên con đường đổi mới nhằm đáp ứng với
những yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Các giải pháp
chiến lược phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay là:
- Tăng cường các nguồn lực cho giáo dục – đào tạo.
- Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy - người học
- Đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục – đào tạo và tăng cường cơ sở vật
chất các trường học
- Đổi mới công tác quản lý giáo dục
- Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
* Các định hướng phát triển giáo dục trên thế giới và trong nước ở trên đã vạch
ra cho Giáo dục học những nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu và hoàn thiện các vấn đề về phương pháp luận khoa học giáo dục
- Nghiên cứu hoàn thiện các cơ sở lý luận và thực tiễn của giáo dục trong giai
đoạn mới, xác định mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục và sự phát triển kinh tế - xã

hội.
- Nghiên cứu các vấn đề về đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp dạy học –
giáo dục đáp ứng với sự phát triển thực tiễn
- Nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học – công nghệ vào quá trình
dạy học – giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục…
Tóm lại, tất cả các vấn đề trong Giáo dục học đều cần phải được nghiên cứu, phát
triển và hoàn thiện theo hướng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn, làm cho Giáo
dục học góp phần thúc đẩy mạnh mẽ nến giáo dục quốc dân đáp ứng với đòi hỏi của sự
phát triển kinh tế - xã hội.
1.7. Hệ thống các khoa học về giáo dục và mối quan hệ giữa giáo dục học với các
khoa học khác
1.7.1. Các khoa học về giáo dục
- Lịch sử giáo dục học : Muốn phát triển đúng hướng, giáo dục học luôn phải
vận dụng “nguyên tắc lịch sử trong nội dung và phương pháp nghiên cứu”. Như vậy,
lịch sử giáo dục học có vai trò quan trọng trong hệ thống các khoa học giáo dục trước
hết đối với giáo dục học. Nhờ quán triệt quan điểm đối với các hiện tượng giáo dục
(của các thời đại khác nhau) nhà nghiên cứu sẽ phát hiện đúng đắn bản chất xã hội
của giáo dục ở từng thời đại và hiểu được tiến trình phát triển và đổi mới liên tục của
giáo dục.
17


Lịch sử giáo dục cung cấp cho giáo dục học các tư tưởng giáo dục tiên tiến, kiệt
xuất, dựa trên sự kế thừa có chọn lọc có phê phán các thành tựu và lí luận giáo dục có
giá trị trong nước và trên thế giới, giúp cho giáo dục học luôn phát triển, luôn đổi
mới, bắt kịp xu thế của thời đại.
- Giáo dục học nằm trong hệ thống của khoa học giáo dục nhưng bản thân nó
cũng bao gồm nhiều phân môn khác nhau như: giáo dục học vườn trẻ, mẫu giáo, giáo
dục học cho lứa tuổi đi học.
Trong thực tế giáo dục học còn được nghiên cứu và giảng dạy ở từng ngành

chuyên môn – nghề nghiệp (giáo dục học y học, giáo dục học quân sự, giáo dục học
kĩ thuật…). Tuy đối tượng phục vụ có khác nhau, nhưng các phân môn giáo dục học
kể trên đều có cơ sở chung là lí luận giáo dục học đại cương, từ những kiến thức và kĩ
năng này mà vận dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở những lĩnh vực khác nhau.
- Ngành giáo dục học chuyên biệt (đặc biệt) cũng là một bộ phận của giáo dục
học có nhiệm vụ chuyên nghiên cứu những vấn đề dạy học và giáo dục những trẻ có
tật nguyền về thị giác, thính giác hoặc chậm phát triển về ngôn ngữ, trí tuệ.
- Đối với thực tiễn hoạt động ở nhà trường các bộ môn phương pháp dạy học bộ
môn có vai trò quan trọng như : Bộ môn phương pháp dạy học toán, văn, sử, địa,
sinh, kĩ thuật, v.v..còn gọi là “lí luận dạy học bộ môn"
Tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau nhưng các phân môn giáo dục học đều
có cơ sở chung là giáo dục học đại cương, từ nhưũng kiến thức và kỹ năng này mà
vận dụng, đáp ứng cho việc giáo dục ở các lĩnh vực khác nhau.
1.7.2. Mối quan hệ giữa giáo dục học và các khoa học khác
Giáo dục là một hiện tượng xã hội. Giáo dục học là một khoa học xã hội, nó có
liên quan mật thiết với các khoa học, trước hết là với các khoa học xã hội.
Giáo dục học có liên quan mật thiết với nhiều ngành khoa học như đạo đức học,
mỹ học, kinh tế học, văn học…
* Với triết học Mác - Lê nin : Triết học Mác - Lê nin là nền tảng khoa học cho
sự phát triển của khoa học giáo dục. Đồng thời có một số vấn đề mà cả hai ngành
khoa học này cùng quan tâm nghiên cứu. Đó là các vấn đề :
- Sự hình thành con người mới xã hội chủ nghĩa và mục đích giáo dục xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
- Mối liên hệ giữa quá trình giáo dục với các quá trình xã hội khác.
- Mối liên hệ giữa tập thể và cá nhân ...
* Với đạo đức học: Đạo đức học giúp cho giáo dục học giải quyết những vấn đề
về công tác giáo dục đạo đức, thế giới quan, tư tưởng chính trị cho học sinh.
* Với sinh lý học: Sinh lý học là cơ sở khoa học tự nhiên của giáo dục học. Việc
nghiên cứu giáo dục học phải dựa vào những thành tựu của sinh lý học đặc biệt là


18


sinh lý học thần kinh cấp cao, về hoạt động của hai hệ thống tín hiệu, về sự phát triển
và vận hành của các giác quan và hoạt động của chúng ...
* Với tâm lý học: Tâm lý học cung cấp cho giáo dục học những tri thức khoa
học về các cơ chế diễn biến và điều kiện tổ chức các quá trình bên trong của sự hình
thành nhân cách con người theo lứa tuổi trong từng hoạt động, làm cơ sở đáng tin cậy
cho việc tổ chức quá trình sư phạm.
* Trong giai đoạn hiện nay, nhiều ngành khoa học khác như điều khiển học, tin
học đang thâm nhập và được ứng dụng trong nghiên cứu về lí luận và thực tiễn giáo
dục, tạo ra những cách thức tổ chức mới, phương pháp và phương tiện mới trong lĩnh
vực giáo dục và dạy học.
6. Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục (GV hướng dẫn)- Cơ sở
phương pháp luận của Giáo dục học là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy
vật lịch sử áp dụng vào quá trình nghiên cứu các hiện tượng và qúa trình giáo dục.
Nắm vững các quan điểm phương pháp luận nhà giáo dục có thể:
- Nghiên cứu, tìm tòi, phát hiện thông qua các nguồn tài liệu khác nhau.
- Lựa chọn các phương pháp, phương tiện nghiên cứu, tuỳ theo tính chất, yêu cầu
của vấn đề nghiên cứu: khảo sát, điều tra, tổng kết kinh nghiệm, thực nghiệm khoa
học.
- Áp dụng các thao tác tư duy khoa học để phát hiện tính quy luật, các yếu tố
mới trong lý luận và thực tiễn giáo dục.
Việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp cụ thể sẽ trình bày trong học phần
Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục.
1.8. Các phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục
- Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết bao gồm:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
+ Phương pháp mô hình hóa
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn bao gồm:

+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
+ Phương pháp phỏng vấn
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
+ Phương pháp chuyên gia
-

Phương pháp sử dụng toán thống kê

-

19


Câu hỏi ôn tập và thảo luận
1. Tại sao nói: Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt? Tính chất đặc biệt đó
thể hiện ở những khía cạnh cơ bản nào?
2. Phân tích các chức năng cơ bản của giáo dục học.
3. Phân tích đối tượng nghiên cứu của giáo dục học.
4. Anh (chị) hãy phân biệt các khái niệm cơ bản của Giáo dục học.
Thảo luận: Các chức năng của giáo dục học; xu hướng phát triển của Giáo dục
học hiện nay. Liên hệ thực tiễn

20


CHƯƠNG 2. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
2.1. Sự phát triển nhân cách của con người

2.1.1. Khái niệm con người, nhân cách trong giáo dục học
2.1.1.1. Khái niệm con người trong giáo dục học
Con người là thực thể của tự nhiên (sinh vật sống có ý thức, có ngôn ngữ, có não
và vỏ não phát triển đến mức độ cao) và tuân theo những quy luật của tự nhiên.
Con người là một thực thể xã hội: sản phẩm của xã hội, mang bản chất xã hội;
mọi thuộc tính, phẩm chất của con người đều được hình thành thông qua sự tác động
của xã hội, thông qua mối quan hệ người- người (quy luật xã hội).
Cái tự nhiên và cái xã hội tồn tại trong con người không tách biệt nhau mà thống
nhất, hoà nhập, chi phối, ức chế lẫn nhau. C.Mác đã khẳng định: “... bản chất con
người không phải là cái gì chung chung trừu tượng, trong tính hiện thực của nó, bản
chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”. Nhận định này cho thấy:
- Con người tồn tại trong rất nhiều mối quan hệ, quan tâm đến các mối quan hệ
của con người chính là để hiểu rõ bản chất con người.
- Bản chất con người bao giờ cũng được bộc lộ, được thể hiện ra trong chính
cuộc sống, trong hoạt động đa dạng và phong phú của nó.
Vậy, con người là sản phẩm của lịch sử xã hội, là thực thể mang bản chất xã hội
bao gồm những phẩm chất, thuộc tính có ý nghĩa xã hội được hình thành trong quá
trình sống và do kết quả của sự tác động qua lại giữa con người với con người trong xã
hội. Con người là chủ thể hoạt động, là lực lượng sáng tạo ra hệ thống các giá trị vật
chất và tinh thần cho xã hội.
Với cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện nay, con người được coi là nhân tố
quyết định cho sự phát triển. Nhận thức sâu sắc về vai trò của con người trong sự phát
triển kinh tế- xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã xác định:
- Coi mục tiêu, động lực chính của sự phát triển là vì con người và do con người.
- Đặt con người vào vị trí trung tâm chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.
- Khơi dậy tiềm năng của mọi cá nhân, tập thể lao động và cả cộng đồng dân tộc
trong việc thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước.
Quan điểm trên cần được quán triệt trong mọi hoạt động của đời sống xã hội ở
nước ta và trong chính quá trình học tập, tu dưỡng của học sinh, sinh viên hiện nay.
2.1.1.2. Khái niệm nhân cách trong giáo dục học

Khái niệm nhân cách được xem xét dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau
nhưng nhìn chung đều thống nhất :
- Nhân cách là một hệ thống các thuộc tính ổn định của con người, những thuộc
tính này rất đa dạng, bao gồm các mặt: đức, trí, thể, mĩ ...
- Mỗi cá nhân có một nhân cách riêng
21


- Nhân cách có ở con người đã phát triển, định hình về mặt xã hội, đã trở thành
một chủ thể xã hội.
- Bản chất nhân cách bao gồm hai mặt: mặt tự nhiên và mặt xã hội, trong đó mặt
xã hội có ý nghĩa quan trong đặc biệt.
Theo truyền thống và trong đời sống, người Việt Nam xem nhân cách con người
bao gồm 2 mặt: phẩm chất (đức) và năng lực (tài). Nó được hình thành và phát triển
trong quá trình con người tham gia hoạt động, giao lưu và quá trình rèn luyện.
Như vậy, khi con người là một thành viên của xã hội, chủ thể của các mối quan
hệ xã hội và hoạt động ta nói đến nhân cách của họ. Nhân cách là sự tổ hợp những đặc
điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân được biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội
của con người. Nói đến nhân cách là nói đến mặt tâm lý, xã hội, văn hoá, đến giá trị và
cốt cách làm người.
Xét dưới góc độ giáo dục học, khái niệm nhân cách bao gồm tất cả các nét, các
mặt, các phẩm chất có ý nghĩa xã hội trong một con người. Những thuộc tính này được
hình thành trong quá trình tác động qua lại giữa người đó và những người khác trong
xã hội. Cũng trong quá trình hình thành phát triển nhân cách của con người, hàng loạt
đặc điểm, thuộc tính, thái độ ... của họ được biến đổi và trở thành những đặc điểm,
thuộc tính đích thực- tính xã hội- đạo đức.
2.1.2. Khái niệm về sự phát triển nhân cách
Con người sinh ra chưa có nhân cách. Nhân cách con người hình thành và phát
triển khi con người (trực tiếp hay gián tiếp) tham gia vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh
hội nền văn hoá xã hội để hình thành, phát triển nhân cách của mình. Nói cách khác,

chính trong quá trình sống, học tập, lao động, giao lưu, vui chơi giải trí, con người đã
tự hình thành và phát triển nhân cách của mình
Sự phát triển nhân cách là quá trình biến đổi không ngừng của cá nhân về mặt số
lượng lẫn chất lượng, bao gồm: sự phát triển về mặt thể chất và sự phát triển về mặt
tâm lý, xã hội:
- Sự phát triển về mặt thể chất biểu hiện ở sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng,
cơ bắp, sự hoàn thiện của các giác quan.
- Sự phát triển về mặt tâm lý biểu hiện ở những biến đổi cơ bản trong quá trình
nhận thức, xúc cảm ý chí, ở sự hình thành các thuộc tính tâm lý mới của nhân cách.
- Sự phát triển về mặt xã hội biểu hiện rõ ở việc thiết lập các mối quan hệ xã hội.
2.2. Nhân cách con người Việt Nam truyền thống và hiện đại
2.2.1. Con người Việt Nam truyền thống
Truyền thống là cái ổn định, tồn tại, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã trở thành
một dân tộc anh hùng. Chính truyền thống vẻ vang ấy đã in sâu vào trong máu thịt của
bao thế hệ con cháu.
22


- Lòng yêu nước: Được nhen nhóm lên từ lòng yêu gia đình, làng xóm, quê
hương. Nó được củng cố và phát triển do tính dân chủ, sinh hoạt tinh thần phong phú,
mang đậm tính nhân văn. Đất nước do người dân Việt Nam xây dựng nên bằng mồ
hôi, nước mắt và cả máu, vì vậy họ rất yêu quý, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ, giữ gìn nó.
- Tinh thần đoàn kết: Đoàn kết dân tộc là một nét đặc biệt của truyền thống Việt
Nam, đoàn kết trong Đảng, trong dân tộc thành một khối thống nhất, là vũ khí sắc bén
chống lại mọi thứ giặc. Trong giai đoạn hiện nay, truyền thống đoàn kết được nâng lên
một tầm cao mới.
- Lòng nhân ái: Trong mối quan hệ giữa người với người, lòng nhân ái là nét nổi
bật trong truyền thống con người Việt Nam. Ngày nay, lòng nhân ái được kết tinh
thành một khối, thành tư tưởng lớn, được nhân rộng lên rất nhiều.

- Hiếu học: Dân ta vốn nghèo nhưng rất hiếu học. Chính truyền thống quý báu
này đã tạo nên sức sống mãnh liệt đánh bại thứ giặc nguy hiểm là giặc dốt. Dân tộc
Việt Nam tự vươn lên để chiến thắng chính mình bởi họ ý thức rằng “Một dân tộc dốt
là một dân tộc yếu" (Hồ Chí Minh). Trong điều kiện mở cửa, giao lưu, hội nhập truyền
thống này có thể xem là một di sản quý báu của dân tộc ta, một trong những tiềm năng
quan trọng giúp nước ta hội nhập thành công.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị cao đẹp của truyền thống dân tộc mà chúng ta
đã, đang và sẽ còn phải phát huy mạnh mẽ hơn nữa thì vẫn còn tồn tại không ít vấn đề
đặt ra từ di sản truyền thống, như: những thói quen và tập tính của một cư dân nông
nghiệp khi bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, nền kinh tế thị trường; khả năng hoạch
toán kinh tế kém; tâm lý bình quân, cào bằng; lối sống tự do, tuỳ tiện; thói quen trọng
tập lệ hơn luật pháp... Một vấn đề không thể không nhắc đến là đại bộ phận thanh thiếu
niên có biểu hiện sa sút về đạo đức, bị tiêm nhiễm bởi thói ăn chơi truỵ lạc. Do đó,
mọi biểu hiện trên đây cần được khắc phục và giáo dục.
2.2.2. Con người Việt Nam hiện đại
Trên đà phát triển hiện nay, diện mạo đất nước và con ngưòi Việt Nam đã có
những thay đổi lớn lao. Bên cạnh những thành tựu trong tăng trưởng kinh tế và nâng
cao đời sống, chúng ta đang đứng trước thách thức lớn mà đáng lo ngại nhất là sự sa
sút về đạo đức của một bộ phận dân cư. Vì vậy, nghiên cứu, tìm hiểu con người Việt
Nam hiện đại là hết sức quan trọng.
Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, các nhà giáo dục học đã nêu lên
một số vấn đề đáng chú ý về con người Việt Nam hiện đại như sau:
- Về lòng yêu nước: Trước kia, lòng yêu nước của người Việt Nam thường thể
hiện qua tinh thần anh dũng trong cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Nhưng trong điều
kiện hiện nay, lòng yêu nước của người Việt Nam thể hiện trước hết ở việc nỗ lực thực
hiện lý tưởng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Lý tưởng này cụ
thể hoá trong các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
- Về tinh thần hiếu học: Nhìn chung, con người Việt Nam hiện đại đặc biệt là
tầng lớp thanh niên vẫn kế thừa và phát huy được truyền thống hiếu học của cha anh.

Trong thời đại tri thức như hiện nay, đó là thế mạnh mà chúng ta đang khai thác trong
23


quá trình hội nhập. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa có một kế hoạch dài hơi trong việc
đào tạo và sử dụng nhân tài, một bộ phận nhân dân còn coi trọng bằng cấp, xem nhẹ
học nghề, nhất là các lĩnh vực trực tiếp sản xuất kinh doanh.
Thanh niên hiện nay rất nhạy bén, nhanh chóng tiếp nhận cái mới: chấp nhận
cạnh tranh, chấp nhận rủi ro, mạo hiểm... Tuy nhiên, nhiều vấn đề đặt ra như: các tệ
nạn xã hội ngày càng tăng, tư tưởng sùng ngoại, bắt chước lối sống xa hoa, hưởng lạc,
đồi bại đang lan rộng ...
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
2.3.1. Vai trò của di truyền trong sự phát triển nhân cách
2.3.1.1. Khái niệm
- Di truyền là sự tái tạo ở trẻ em những thuộc tính sinh học có ở cha mẹ, là sự
truyền lại từ thế hệ trước đến thế hệ sau những phẩm chất nhất định đã được ghi lại
trong hệ thống gen.
- Bẩm sinh là những thuộc tính sinh học mà đứa trẻ có được khi mới sinh ra.
2.3.1.2. Vai trò của di truyền đối với sự phát triển nhân cách
- Vấn đề di truyền những tư chất và nhất là những năng lực về một lĩnh vực hoạt
động nào đó ở trẻ em là một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục.
- Di truyền tạo ra sức sống trong bản chất tự nhiên của con người, đảm bảo cho
loài người tiếp tục tồn tại, phát triển và thích ứng với những biến đổi của điều kiện
sống, tạo cho con người có khả năng hoạt động có kết quả trong một số lĩnh vực nhất
định.
- Di truyền đóng vai trò là cơ sở, tiền đề, vật chất cho sự hình thành và phát triển
nhân cách. Di truyền không đóng vai trò quyết định.
Vì vậy, các nhà giáo dục cần:
- Nhận thức được rằng: những yếu tố bẩm sinh, di truyền bộc lộ và phát triển
trong những điều kiện nhất định về chính trị, kinh tế, xã hội, những khả năng chỉ riêng

con người mới có như tư duy, năng khiếu không chỉ phụ thuộc vào yếu tố bẩm sinh, di
truyền mà còn phụ thuộc vào điều kiện xã hội và các quan hệ xã hội. Yếu tố bẩm sinh,
di truyền có được bảo tồn và thể hiện ở thế hệ sau hay không, thể hiện ở mức độ nào
thì còn phụ thuộc vào điều kiện sống. Vì vậy bẩm sinh, di truyền là tiền đề, cơ sở, vật
chất cho sự phát triển nhân cách.
- Đánh giá đúng vai trò của yếu tố bẩm sinh, di truyền trong sự hình thành nhân
cách. nếu xem nhẹ ảnh hưởng của nhân tố sinh học, di truyền thì có nghĩa là chúng ta
đã bỏ qua yếu tố tư chất- tiền đề thuận lợi cho sự phát triển. Ngược lại, nếu tuyệt đối
hoá hoặc đánh giá quá cao sẽ dẫn đến sai lầm về mặt nhận thức luận, phủ nhận khả
năng biến đổi bản chất con người cũng như hạ thấp vai trò của giáo dục và tự giáo dục.
- Phát hiện đúng và kịp thời những tư chất và tiềm năng vốn có ở học sinh để xây
dựng kế hoạch và phương hướng páht triển phù hợp.
24


- Bồi dưỡng, tạo điều kiện thuận lợi, bình đẳng cho sự phát triển toàn diện của
mọi học sinh, góp phần tích cực vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước.
2.3.2. Vai trò của môi trường trong sự phát triển nhân cách
2.3.2.1. Khái niệm
Môi trường là hệ thống các hoàn cảnh bên ngoài, các điều kiện tự nhiên và xã hội
xung quanh cần thiết cho hoạt động sống và phát triển của con người.
Có hai loại môi trường: môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
- Môi trường tự nhiên: Môi trường tự nhiên bao gồm các điều kiện tự nhiên – hệ
sinh thái phục vụ cho hoạt động học tập, lao động sản xuất, rèn luyện thể chất, vui
chơi, giải trí của con người.
- Môi trường xã hội là hệ thống tất cả các mối quan hệ xã hội mà trong đó con
người sống và hoạt động như môi trường chính trị, môi trường kinh tế sản xuất, môi
trường pháp luật, môi trường gia đình, môi trường dòng họ.
2.3.2.2. Môi trường và sự phát triển nhân cách

- Vai trò của môi trường tự nhiên:
Hiện nay cùng tồn tại hai hệ thống quan điểm khác nhau về vai trò của yếu tố
môi trường tự nhiên:
+ Quan điểm của các học giả phi Macxit: “Trong yếu tố môi trường thì yếu tố
môi trường tự nhiên giữ vai trò quyết định. Có vùng dân cư thông minh và có vùng
dân cư ngu xuẩn”. (quan điểm địa lý duy vật).
+ Quan điểm Macxit: Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng gián tiếp, là một yếu tố
điều kiện cho sự hình thành, phát triển nhân cách. Hoạt động trong các lĩnh vực khác
nhau thì tạo ra các phẩm chất và lĩnh vực khác nhau.
Lật lại quan điểm của các học giả phi Macxit, họ cho rằng yếu tố môi trường tự
nhiên quyết định sự phát triển nhân cách nên dẫn đến hiện tượng “có vùng dân cư
thông minh và có vùng dân cư ngu xuẩn”. Đứng trên lập trường quan điểm Macxit
chúng ta nhận thấy quan điểm trên là sai lầm bởi sự phát triển của môi trường tự nhiên
bao giờ cũng diễn ra chậm hơn so với sự phát triển của xã hội loài người. Môi trường
tự nhiên muốn có sự thay đổi đáng kể phải mất đến hàng nghìn, hàng vạn thậm chí
hàng triệu năm nhưng sự phát triển xã hội lại diễn ra nhanh hơn nhiều. Vì vậy, môi
trường tự nhiên không thể là yếu tố quyết định sự hình thành, phát triển nhân cách, ảnh
hưởng của nó thể hiện ở chỗ có thể tạo điều điều kiện thuận lợi hoặc không thuận lợi
đối với sự hình thành, phát triển nhân cách.
- Vai trò của môi trường xã hội:
Khi nói đến ảnh hưởng của môi trường đến sự hình thành và phát triển nhân
cách, giáo dục học chủ yếu nhấn mạnh đến môi trường xã hội. Môi trường xã hội được
phân thành môi trường lớn và môi trường nhỏ:
25


×