Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Biện pháp giúp học sinh yếu, kém lớp 6 biết cách quan sát, tìm ý trong bài văn tả cảnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.6 KB, 18 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Thế kỉ XXI mở ra nhiều thời cơ và vận hội đối với đất nước. Đại hội
Đảng lần thứ VIII đã quyết định đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhằm mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, đất nước vững bước đi lên
CNXH. “Giáo dục phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu... Cải tiến chất
lượng dạy và học để hoàn thành tốt việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người
cho CNH-HĐH đất nước”. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu “Mục tiêu
giáo dục là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi môn học đều góp phần
hình thành và phát triển nhân cách của học sinh, cung cấp cho học sinh những
tri thức cần thiết.”
Môn học Ngữ văn trước hết là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều
đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình
cảm cho học sinh. Văn hào Nga Mác – xim Goc- ki nói: “Văn học là nhân học”.
Học sinh học tốt môn Ngữ văn sẽ có tác động tốt đến việc học các môn khác, và
ngược lại. Học tốt môn Ngữ văn không nhất thiết khi bước vào đời, học sinh đều
trở thành nhà văn, nhà nghiên cứu văn học, cô giáo dạy văn ...có nghĩa là đi theo
nghề văn. Học tốt môn Ngữ văn sẽ giúp các em rất nhiều trong giao tiếp với đời
sống xã hội, giao tiếp với đời sống gia đình và bạn bè. Từ đó chúng ta thấy môn
Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của
trường THCS, góp phần hình thành những con người có ý thức tự tu dưỡng, biết
thương yêu, quý trọng gia đình, bè bạn, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
biết hướng tới những tư tưởng, tình cảm cao đẹp như lòng nhân ái, tinh thần tôn
trọng lẽ phải, sự công bằng, lòng căm ghét cái xấu, cái ác. Đó là những con
người biết rèn luyện để có tính tự lập, có tư duy sáng tạo, bước đầu có năng lực
cảm thụ các giá trị chân, thiện, mĩ trong nghệ thuật mà trước hết trong văn học;
có năng lực thực hành và năng lực sử dụng Tiếng Việt như công cụ để tư duy và
giao tiếp. Đó là những người có ham muốn đem tài trí của mình cống hiến cho
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc .
Trong chương trình Ngữ văn THCS tích hợp, phân môn Tập làm văn đóng
vai trò quan trọng trong việc cung cấp các tri thức cơ bản về các kiểu văn bản,


như: tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh và văn bản hành chính
công vụ. Văn miêu tả là loại văn giúp người đọc hình dung ra những đặc điểm,
tính chất nổi bật của một sự vật, sự việc, con người, phong cảnh... Làm cho
những vật, sự việc, người, cảnh đó như hiện lên trước mắt người đọc. Khi miêu
tả, năng lực quan sát của người viết, người nói thường được bộc lộ rõ nhất.
Nhưng thực tế trong giảng dạy phân môn Tập làm văn một bộ phận giáo viên
chưa quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý khi làm văn miêu tả,
đặc biệt là với học sinh lớp 6- Đối tượng đầu cấp học có vai trò quyết định. Do
đó chất lượng giờ Tập làm văn nói chung và viết bài văn tả cảnh nói riêng còn
nhiều hạn chế.
Bản thân tôi nhiều năm được phân công dạy học sinh khối 6 cho nên đã
rất hiểu tâm lý cũng như mức độ tiếp thu bài của các em. Khi mới tiếp cận
1


chương trình học ở cấp THCS các em đều bỡ ngỡ, chưa biết cách học, nhất là
môn Ngữ văn. Cũng một bài văn miêu tả cảnh nhưng ở cấp THCS yêu cầu cao
hơn, gần như nhiều em, nhất là những em học yếu, kém không thể làm đúng
theo yêu cầu của giáo viên nên dẫn đến ngại học.
Xuất phát từ thực tế trên, để góp phần nâng cao chất lượng bộ môn văn
học trong nhà trường THCS cũng như giúp các em học sinh có cảm hứng học
văn, vận dụng việc học vào thực tế đời sống, đặc biệt là phần văn tả cảnh ở lớp
6. Bản thân tôi rất trăn trở và đã mạnh dạn đưa ra “Biện pháp giúp học sinh
yếu, kém lớp 6 biết cách quan sát, tìm ý trong bài văn tả cảnh” .
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Tập làm văn là kết quả thực hành tổng hợp ở trình độ cao của phân môn
Văn và Tiếng Việt, nó giúp học sinh nắm vững thể loại để từ đó có phương pháp
làm các kiểu văn bản và vận dụng nó vào cuộc sống để đánh giá, thưởng thức
một tác phẩm, một vở kịch về con người và đời sống... Mặt khác cùng với Văn,
Tiếng Việt, phân môn Tập làm văn giúp các em hình thành những phẩm chất tốt

về con người.
Trong Tập làm văn, miêu tả là một phương pháp biểu đạt có tầm sử dụng
phổ biến trong nhiều loại văn, thiếu miêu tả văn sẽ khô khan và trừu tượng.
Miêu tả là biết cảm thụ cái đẹp của cuộc sống xung quanh ta, làm giàu thêm đời
sống nội tâm cho người viết và bạn đọc. Miêu tả là phương thức tái hiện thế giới
mang tính khách quan làm cho mọi vật, hiện tượng sống lại ngay trước mắt
người đọc. Tuy nhiên nó cũng mang tính chủ quan bộc lộ trực tiếp cảm nhận của
con người trước sự vật. Như vậy, trong nhà trường văn miêu tả chính là một kiểu
bài rất quan trọng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu trước hết là áp dụng cho học sinh yếu, kém của
khối 6. Song giáo viên cũng có thể vận dụng kinh nghiệm này ở góc độ rộng hơn
cho đối tượng là học sinh lớp 6 đại trà vào những buổi phụ đạo. Tùy cơ ứng
biến, tôi còn có thể sử dụng sáng kiến này một cách tỉ mỉ, kiên trì cho đối tượng
là những học sinh ngại học văn, chưa có tình cảm với thể loại văn tả cảnh. Từ
đó, giúp các em học sinh càng yêu thích, say mê và nâng cao hiệu quả học tập
môn học.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng hệ thống các phương pháp sau:
- Điều tra khảo sát thực tế
- Thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.

2


2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Cở sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm:
- Văn học là một bộ môn nghệ thuật sáng tạo ngôn từ đầy giá trị. Có thể
coi mỗi một tác phẩm văn học là một viên ngọc trong cuộc sống, nó bay bổng

tạo nên những khúc nhạc làm cho cuộc sống đời thường thêm chất thơ.Vậy làm
thế nào cho học sinh mình cảm nhận được chất thơ của cuộc sống đời thường
cũng như có thể sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật có giá trị? Tôi nghĩ đó
là một việc làm mà mọi giáo viên đang tìm cách đi nhẹ nhàng nhất và có hiệu
quả nhất.
- Nhìn nhận vấn đề một cách cụ thể hơn chúng ta thấy: Chương trình Ngữ
văn lớp 6 so với chương trình Tiểu học mà các em đã làm quen có nhiều những
khái niệm trừu tượng. Riêng làm văn, đòi hỏi các em phải có cách viết già dặn
hơn, sinh động hơn và đặc biệt trong văn miêu tả cảnh phải có hình ảnh sống
động, thuyết phục lòng người. Để viết được bài văn miêu tả hay như vậy nhất
thiết người viết phải có năng lực rất quan trọng đó là năng lực quan sát, tìm ý
.Vậy quan sát chính là nhìn, nghe, ngửi, sờ, cầm, chạm… bằng các giác quan
mắt, tai, mũi, da… Tìm ý là lựa chọn, sắp xếp ý theo trình tự không gian, thời
gian, cảnh vật, con người trong văn miêu tả sao cho hợp lý.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Trong quá trình giảng dạy và dự giờ của đồng nghiệp, tôi nhận thấy, khi
dạy - học phần văn miêu tả cảnh, học sinh và giáo viên đã đạt được những ưu
điểm và còn mắc phải một số tồn tại, khó khăn sau:
2.2.1. Ưu điểm:
- Giáo viên đã phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác học tập của học
sinh, đã giúp học sinh quan sát, tìm ý khi làm bài văn tả cảnh.
- Nhiều tiết dạy đã đảm bảo được yêu cầu thực hành trên cơ sở thầy
hướng dẫn trò tiến hành các hoạt động học tập từ đó hình thành kỹ năng quan
sát, tìm ý .
- Giáo viên đã chú ý tới từng hoạt động cá nhân học sinh, không phê phán
vội vàng chủ quan.
2.2.2. Tồn tại và khó khăn:
- Về phía học sinh:
+ Học sinh chưa hiểu quan sát là làm gì hoặc quan sát còn đại khái, lướt
qua nên không ghi lại được nội dung đã quan sát để làm tư liệu cho bài viết của

mình.
+ Học sinh không biết ghi chép những ý mà mình quan sát được một cách
rõ ràng, không tìm được ý, ý nghèo nàn, bài văn không có sáng tạo.
+ Chưa biết sắp xếp ý theo một trình tự hợp lý. Từ đó hạn chế tới việc nói
và viết.
+ Bài viết của học sinh không đủ nội dung. Viết một bài tập làm văn tả
cảnh trong thời gian 90 phút mà các em chỉ viết được tối đa 15 dòng. Có học
sinh yếu, kém chỉ viết được 5 đến 7 dòng. Sở dĩ bài viết của học sinh yếu, kém
3


trong khi làm bài kiểm tra còn quá ngắn như vậy là vì các em chưa biết cách
quan sát, chưa ghi chép lại được những sự vật, sự việc mà mình vừa quan sát
hoặc có em sắp xếp ý còn lộn xộn, chưa biết tìm ý và sắp xếp ý.
+ Bên cạnh đó các em đã quá quen với việc thực hành viết văn dạng văn
bản mẫu và tái tạo văn bản tương tự mẫu ở cấp Tiểu học. Cho nên việc sáng tạo
một văn bản nghệ thuật đối với các em học sinh yếu, kém lớp 6 là việc làm vô
cùng khó khăn và không có hứng thú. Hơn nữa sự say mê đọc tư liệu văn học
của các em học sinh (thời nay) rất ít, hầu như là không có bởi những thông tin
hiện đại: Hoạt hình, truyện tranh, đặc biệt là những dịch vụ Internet tràn lan
cuốn hút lòng trẻ. Điều đó đương nhiên làm nghèo nàn vốn ngôn từ nghệ thuật
quý giá của văn học trong mỗi học sinh, đặc biệt là học sinh yếu, kém.
- Về phía giáo viên:
Về phía giáo viên dạy văn miêu tả thường có những biểu hiện phổ biến
như sau:
+ Chỉ có con đường duy nhất hình thành các hiểu biết về lý thuyết, các kỹ
năng làm bài là qua phân tích văn mẫu.
+ Giáo viên hầu hết chưa coi trọng phần quan sát, tìm ý nên chuẩn bị chưa
chu đáo, hướng dẫn học sinh quan sát chưa kỹ về đối tượng .
+ Để đối phó với việc học sinh làm bài kém, để đối phó với chất lượng khi

kiểm tra thi cử, nhiều giáo viên cho học sinh thuộc một bài văn mẫu để khi các
em gặp một bài tương tự thì cứ thế chép ra. Vì vậy dẫn đến cả thầy và trò nhiều
khi lệ thuộc quá nhiều vào văn mẫu.
Những hạn chế trên đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng giờ dạy, không
gây được hứng thú học tập cho học sinh dẫn đến nhiều em yếu, kém ở kỹ năng
quan sát, tìm ý trong bài văn tả cảnh.
Từ thực trạng trên tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng bài Tập làm văn tả
cảnh với học sinh yếu, kém lớp 6 mà tôi được phân công giảng dạy ở đầu học kì
II, năm học 2014 – 2015.
Kết quả như sau:
Lớp Sĩ số
Kém
Yếu
TB
Khá
Giỏi
SL
% SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
27em
4 14.8 3 11,1 16 59,3
4
14.8

0
2.3. Những giải pháp:
Trong chương trình Tiểu học, học sinh đã được làm quen với thể loại văn
miêu tả. Bước vào lớp 6 cấp THCS, các em vẫn tiếp tục được tiếp cận với thể
loại này. Việc rèn các kỹ năng quan sát, tìm ý khi làm văn tả cảnh cho đối tượng
học sinh yếu, kém lớp 6 là rất thiết thực bởi quan sát gần với thực tế hơn, tạo sự
thích thú đối với các em, góp phần tháo gỡ những khó khăn trong việc ngại học
văn của một số học sinh. Từ đó, xây dựng và phát triển tình yêu với môn Ngữ
văn trong nhà trường. Giúp các em có được tình yêu với những cảnh vật bình
thường như: dòng sông, cánh đồng, mái trường rộng hơn là tình yêu quê hương
đất nước trong tâm hồn các em. Muốn làm được điều đó, học sinh nhất thiết phải

4


có một phương pháp, kỹ năng trong việc làm một bài văn miêu tả cụ thể mà
trong đó quan sát, tìm ý là việc làm có vai trò quyết định cho một bài viết của
học sinh.
Trên cơ sở áp dụng đề tài vào thực tiễn giảng dạy, học sinh yếu, kém sẽ
biết cách làm một bài văn tả cảnh đúng yêu cầu đề ra, trong đó đảm bảo các yếu
tố nội dung và diễn đạt. Cao hơn là học sinh có được niềm say mê môn học
được xem là nghệ thuật của ngôn từ này. Một khi các em có được niềm say mê,
hứng khởi với môn học thì hiệu quả, chất lượng giảng dạy bộ môn cũng sẽ được
nâng lên.
Đề tài này được nghiên cứu ở phạm vi cấp trường, mà cụ thể là áp dụng
cho học sinh yếu, kém khối 6.
Từ những cơ sở trên tôi thiết nghĩ: Quá trình rèn kỹ năng “quan sát, tìm ý
trong bài văn tả cảnh cho học sinh yếu, kém lớp 6” là một việc làm thiết thực
nên làm và làm một cách cặn kẽ để có hiệu quả tốt nhất.
* Học sinh: Đối tượng mà tôi áp dụng đề tài này là học sinh yếu, kém

khối 6 với mục đích giúp các em viết được bài văn tả cảnh theo đúng yêu cầu.
* Giáo viên: Từ những đối tượng đưa ra ở trên, giáo viên giảng dạy môn
Ngữ văn 6 sẽ phải thật linh hoạt trong việc rèn kỹ năng quan sát, tìm ý cho học
sinh. Sau đây là những giải pháp thực hiện của sáng kiến kinh nghiệm này:
+ Rèn kỹ năng quan sát, tìm ý từ văn bản cụ thể. (Một bài văn cụ thể)
+ Rèn kỹ năng quan sát, tìm ý qua cảnh vật cụ thể. (Từ đơn giản đến phức
tạp).
Từ thực tế trên tôi đưa ra những giải pháp cụ thể như sau:
2.3.1. Rèn kỹ năng quan sát, tìm ý từ văn bản cụ thể.
2.3.1.1. Định hướng kỹ năng quan sát, tìm ý.
Trong dạy văn miêu tả nói chung và dạy văn tả cảnh nói riêng, để giúp học
sinh tiếp cận được phương pháp và sáng tạo văn bản tất nhiên phải tuân thủ theo
một quy trình khép kín bắt đầu từ khâu xác định mục đích yêu cầu đến phát hiện
nội dung kết cấu và tìm cách diễn tả cho thích hợp đều phải qua các bước: Tìm
hiểu chung, tìm hiểu chi tiết để quan sát, tìm ý. Sau đó lập dàn ý, dựng đoạn, tập
nói và viết bài văn hoàn chỉnh. Quy trình bắt buộc này người dạy phải tuân theo
để đạt hiệu quả cao trong dạy và học. Tuy nhiên tôi cũng chỉ có những suy nghĩ
nhỏ để cụ thể hóa thêm về cách dạy học sinh quan sát, tìm ý, tưởng tượng ghi
chép lại những điều đã quan sát chuẩn bị cho sáng tạo văn bản của học sinh
được tốt hơn.
Đầu tiên tôi định hướng cho các em kỹ năng quan sát, tìm ý bằng cách sử
dụng các giác quan; sử dụng liên tưởng, tưởng tượng để giúp các em tiến dần
đến với việc quan sát cảnh bằng cách gợi lại tác phẩm thành công đặc sắc của
nhà văn do có sự quan sát dày công tỉ mỉ như Nguyễn Tuân với Cô Tô. Bằng hệ
thống câu hỏi tôi đã dẫn dắt các em đến với tác phẩm để các em phát hiện ra
được những hình ảnh, sự vật, hiện tượng đặc sắc mà nhà văn đã quan sát thấy.
Tôi đưa ra một đoạn văn được trích từ trong tác phẩm qua bảng phụ là máy
chiếu cho học sinh đọc và quan sát:
5



“ Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi.
Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ
một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ
đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc
trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để
mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển
Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái
chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang,là là nhịp cánh…”
( Trích Cô Tô – Nguyễn Tuân, Ngữ văn 6, tập 2)
Tôi bắt đầu nêu câu hỏi: Qua đoạn văn em thấy kỳ thú đầu tiên mà nhà văn
bắt gặp ở Cô Tô sau trận bão là hình ảnh gì? Em hãy chỉ ra câu văn chứa hình
ảnh đó?
Học sinh: Hình ảnh mà nhà văn bắt gặp là hình ảnh mặt trời lúc bình minh.
Câu văn chứa hình ảnh: "Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kỳ hết. Tròn trĩnh
phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn".
Tôi giải thích thêm để học sinh rõ: Vế thứ nhất của phép so sánh là hình
ảnh mặt trời, còn vế kia là một danh từ chỉ khái niệm vô hình trừu tượng: "Quả
trứng thiên nhiên". Nếu quả trứng là sự vật cụ thể thì "quả trứng thiên nhiên" lại
là không có thật mà chỉ được định hình qua trí tưởng tượng phong phú của nhà
văn Nguyễn Tuân. Cô Tô sau trận bão trở nên sáng đẹp, sự vật đầu tiên mà nhà
văn quan sát được đó là mặt trời, mặt trời ở đây không gay gắt mà là mặt trời
mới mọc. Mặt trời mới mọc lúc rạng đông thì bao giờ cũng có màu hồng.
Nguyễn Tuân đã quan sát mặt trời rất tỉ mỉ, kỹ lưỡng từ mọi phía, từ hình khối
cho đến màu sắc và nhà văn đã cảm nhận được vẻ đẹp tròn đầy phúc hậu của nó.
Mặt trời là sự vật đầu tiên xuất hiện ở đảo Cô Tô. Mặt trời hiện lên mang đến
cho thiên thiên ánh sáng của một ngày mới, làm thức dậy vẻ đẹp của thiên nhiên.
Như vậy, để có được hình ảnh như thế nhà văn đã phải trải qua một quá
trình quan sát khá dày công; phải có một sự liên tưởng, tưởng tượng thật độc đáo
thì nhà văn Nguyễn Tuân mới có thể miêu tả vùng biển Cô Tô – đảo phía đông

bắc Tổ quốc Việt Nam vô cùng tươi đẹp, giàu có, hùng vĩ vào một ngày đầu sau
trận bão lớn như thế.
Từ đó, tôi giúp các em phải nhận biết được quan sát một đối tượng nào đó
bằng giác quan của chúng ta. Cần nhìn rõ màu sắc, hình dáng, kích thước
khoảng cách sự vận động…nghe rõ âm thanh, ngửi thấy các mùi và có thể nếm
vị. Sau khi quan sát bên ngoài các em sẽ nhìn thấy sự việc bằng suy tưởng, phán
đoán bên trong . Tôi còn chú ý hướng các em vào trọng tâm của cảnh để giúp
các em hiểu rõ thế nào là trọng điểm quan sát, cần xác định rõ với từng cảnh nên
quan sát như thế nào để tìm ra đặc trưng của cảnh. Muốn vậy cần có sự tinh tế
trong quan sát, đến đâu có sự liên tưởng, tưởng tượng đến đó để gợi được “Cái
hồn của vật”. Về phần này tôi đưa cho các em một bài văn mẫu : “Hồ Gươm”
(bài đọc ghi lên bảng phụ là máy chiếu)
“ Nhà tôi ở cách Hồ Gươm không xa. Từ trên gác cao nhìn xuống, hồ như
một chiếc gương bầu dục lớn, sáng long lanh.
6


Cầu Thê Húc màu son, cong cong như con tôm, dẫn vào đền Ngọc Sơn.
Mái đền lấp ló bên gốc cây đa già, rễ lá xum xuê. Xa một chút là Tháp Rùa,
tường rêu cổ kính, xây trên gò đất giữa hồ, cỏ mọc xanh um.”
Hỏi: Em hãy tìm ra chi tiết mà tác giả quan sát được khi miêu tả Hồ Gươm ?
Các em học sinh khi đọc kĩ bài đã xác định cảnh được tả là Hồ Gươm và
đó cũng là đối tượng mà tác giả đã quan sát . Học sinh có thể tìm và trả lời :
Chi tiết 1: Từ trên cao nhìn xuống Hồ Gươm ví như chiếc gương bầu dục lớn,
nước hồ “sáng long lanh”
Chi tiết 2: Cầu Thê Húc: sắc “màu son”, dáng “cong cong” như con tôm “dẫn
vào đền Ngọc Sơn” .
Chi tiết 3: Mái đền Ngọc Sơn “ lấp ló sau gốc đa già ”, “cây đa rễ lá xum xuê”
Chi tiết 4: Tháp Rùa (xa một chút) tường rêu cổ kính xây trên gò đất giữa hồ, cỏ
mọc xanh um.

Hỏi: Khi quan sát Hồ Gươm tác giả đã quan sát bằng giác quan gì? ở góc độ
nào?
(Tác giả quan sát Hồ Gươm bằng mắt; góc độ quan sát là từ trên cao nhìn
xuống)
Hỏi: Những hình ảnh mà tác giả quan sát được thể hiện qua những chi tiết nào?
( Hồ Gươm như một chiếc gương bầu dục lớn, cầu Thê Húc cong cong như con
tôm, mái đình lấp ló bên gốc đa già, tường rêu cổ kính của Tháp Rùa).
Hỏi: Từ cách quan sát đó ta thấy được tình cảm của tác giả được bộc lộ ở đây là
gì ? (Ca ngợi một nét đẹp cổ kính nghiêm trang của thủ đô Hà Nội với tất cả
lòng yêu mến, trân trọng, tự hào.)
Qua bài tập này học sinh được chứng kiến tài quan sát, miêu tả của tác giả
từ đó học được cách quan sát, tìm ý, cách lựa chọn từ ngữ, hình ảnh và các phép
tu từ khi làm bài văn tả cảnh.
2.3.1.2. Định hướng vị trí quan sát.
Để giúp việc quan sát, tìm ý trong bài văn tả cảnh ở lớp 6 đạt hiệu quả tôi
còn giúp học sinh xác định được để tả cảnh, việc xác định vị trí quan sát, thời
điểm quan sát, trình tự và nội dung quan sát cũng rất quan trọng. Về vấn đề này
tôi cho học sinh đọc và tìm hiểu lại văn bản “Sông nước Cà Mau” của Đoàn
Giỏi, Ngữ văn 6 – tập 2.
Trình tự miêu tả thể hiện trong bài văn là: Bắt đầu từ cảm tưởng chung,
thông qua sự quan sát thiên nhiên Cà Mau - tác giả đi đến những nét đặc tả kênh
rạch, sông ngòi và nét độc đáo của cảnh chợ Năm Căn họp trên mặt nước.
Theo trình tự miêu tả như trên, có thể thấy bố cục của bài văn gồm ba
đoạn:
- Đoạn 1 (Từ đầu đến “lặng lẽ một màu xanh đơn điệu”): Cảm tưởng
chung về thiên nhiên Cà Mau.
- Đoạn 2 (Tiếp theo đến “khói sóng ban mai”): Đặc tả kênh, rạch Cà Mau
và con sông Năm Căn rộng lớn.
- Đoạn 3 (Còn lại): Đặc tả cảnh chợ Năm Căn.


7


Đọc bài văn, có thể hình dung vị trí của người miêu tả là ngôi thứ nhất
“tôi” (ngồi trên thuyền) - tức người chứng kiến và cảm nhận quang cảnh sông
nước Cà Mau. Vị trí ấy rất thuận lợi cho việc quan sát và miêu tả vì những hình
ảnh và suy nghĩ được thể hiện trực tiếp bằng con mắt của “người trong cuộc”.
Với vị trí quan sát của người trên thuyền, các hình ảnh miêu tả được hiện ra
trong bài văn như một cuốn phim thật sinh động: nhiều màu sắc, cảnh trí đan cài
và giàu cảm xúc.
Trong đoạn văn (từ đầu đến “lặng lẽ một màu xanh đơn điệu”) tác giả đã
diễn tả ấn tượng ban đầu bao trùm về vùng sông nước Cà Mau. Ấn tượng ấy là
ấn tượng choáng ngợp (thể hiện qua các từ ngữ có tính cường điệu: kênh rạch
càng bủa giăng chi chít, trên thì... dưới thì... chung quanh... cũng chỉ...). Ấn
tượng ấy được cảm nhận qua thị giác, thính giác và vị giác - đặc biệt là cảm giác
đơn điệu về màu xanh và ...tiếng rì rào bất tận... của rừng, của sóng. Ấn tượng
ấy được thể hiện qua các câu văn dài ngắn xen kẽ, biến hoá linh hoạt: vừa tả vừa
kể, tạo ra một mạch văn trữ tình lôi cuốn. Qua đoạn văn tác giả nói về cách đặt
tên cho các vùng đất, con kênh ở vùng Cà Mau cho thấy : các địa danh ở đây
được đặt tên rất giản dị, gần gũi với thiên nhiên.
Tôi cho học sinh dừng lại quan sát và tìm hiểu kĩ hơn đoạn văn sau mà tôi
cung cấp trên bảng phụ bằng máy chiếu:
“Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ mắt, đổ ra sông Cửa Lớn, xuôi
về Năm Căn. Dòng sông Năm Căn mênh mông, nước ầm ầm đổ ra biển ngày
đêm như thác, cá đước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi
ếch giữa những đầu sóng trắng. Thuyền xuôi giữa dòng con sông rộng lớn hơn
ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường
thành vô tận. Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng
tăm tắp, lớp này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá
mạ, màu xanh rêu, màu xanh chai lọ,…lòa nhòa ẩn hiện trong sương mù và khói

sóng ban mai.”
( Sông nước Cà Mau – Đoàn Giỏi, Ngữ văn 6,tập 2)
Tôi nêu câu hỏi: Để thể hiện sự rộng lớn, hùng vĩ của dòng sông và rừng
đước tác giả đã quan sát thấy những chi tiết nào?
+ Nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác
+ Con sông rộng hơn ngàn thước
+ Cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch
giữa những đầu sóng trắng.
- Trong câu “Thuyền chúng tôi chèo thoát qua kênh Bọ Mắt, đổ ra con
sông Cửa Lớn, xuôi về Năm Căn” có các động từ: thoát qua, đổ ra, xuôi về chỉ
cùng một hoạt động của con thuyền.
Hỏi: Vậy nếu thay đổi trình tự những động từ ấy trong câu thì có miêu tả hết
được những hoạt động, trạng thái của con thuyền không? (Nếu thay đổi trình tự
những động từ ấy trong câu sẽ không thể hiện được các trạng thái hoạt động rất
phong phú của con thuyền trong các hoàn cảnh khác nhau.)

8


Tôi giải thích thêm cho học sinh: Trong câu này, tác giả sử dụng từ ngữ
rất chính xác và tinh tế, bởi vì:
+ Thoát qua: diễn đạt sự khó khăn mà con thuyền vừa phải vượt.
+ Đổ ra: chỉ trạng thái con thuyền từ sông nhỏ đến với dòng sông lớn.
+ Xuôi về: diễn tả trạng thái nhẹ nhàng của con thuyền xuôi theo dòng
nước.
- Những từ miêu tả màu sắc của rừng đước: Màu xanh lá mạ, màu xanh
rêu, màu xanh chai lọ. Qua những từ đó, vừa thấy được khả năng quan sát và
phân biệt các sắc độ của tác giả rất tinh tế, đồng thời cũng thấy được sự phát
triển mạnh mẽ không ngừng của loài đước.
Mặt khác trong bài văn, sự tấp nập, đông vui, trù phú và độc đáo của chợ

vùng Cà Mau còn được thể hiện qua những chi tiết, hình ảnh đặc sắc của cảnh
chợ Năm Căn:
+ Sự tấp nập, đông vui, trù phú: túp lều lá thô sơ, những ngôi nhà gạch
hai tầng, những đống gỗ cao như núi, những cột đáy, thuyền chài, thuyền lưới,
những bến vận hà nhộn nhịp, những lò than hầm gỗ, những ngôi nhà bè ban đêm
ánh đèn măng-sông chiếu rực,...
+ Sự độc đáo của chợ Năm Căn: chợ họp ngay trên sông, chỉ cần cập
thuyền lại với nhau là có thể mua bán đủ thứ tiêu dùng và ẩm thực. Đây còn là
nơi hội tụ đông vui của những người bán vải, bán rượu đến từ nhiều vùng, có
nhiều giọng nói, trang phục khác nhau…
Qua cách miêu tả từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể, tả xen kể... cùng
với việc sử dụng các từ ngữ gợi cảm tinh tế của tác giả, có thể cảm nhận được
vẻ đẹp trù phú của vùng sông nước Cà Mau. Đó là một nơi có khung cảnh thiên
nhiên hoang dã và hùng vĩ - nơi có những dòng sông rộng lớn và rừng đước bạt
ngàn; đồng thời đó cũng là nơi có cảnh chợ Năm Căn đặc sắc, tấp nập đông vui.
Như vậy từ các văn bản miêu tả cụ thể trên, các em học tập cách quan sát,
tìm ý, cách chọn từ ngữ, hình ảnh, liên tưởng khi miêu tả của tác giả. Để có
những văn bản hay hấp dẫn và sinh động khiến người đọc, người nghe có thể
hình dung cảnh vật cụ thể, rõ ràng như thế, các tác giả đã phải tiếp xúc trực tiếp
với đối tượng cần miêu tả, xác định mục đích quan sát, chọn vị trí huy động giác
quan và trí tuệ quan sát bao quát tập trung vào trọng điểm, lựa chọn và ghi nhớ
tư liệu để chuẩn bị cho bài miêu tả.
Có thể sơ đồ hóa về quy trình quan sát như sau:
Tiếp xúc đối tượng - > xác định mục đích - > chọn vị trí -> huy động giác
quan và trí tuệ quan sát bao quát - > tập trung vào trọng điểm - > lựa chọn và ghi
nhớ tư liệu. Đó cũng là quy trình quan sát bắt buộc mà người miêu tả phải tuân
thủ theo để đạt hiệu quả cao. Từ việc hướng dẫn học sinh tập trung quan sát dựa
trên một văn bản miêu tả mẫu tôi tiếp tục hướng dẫn học sinh quan sát cảnh cụ
thể từ đơn giản đến phức tạp.
2.3.2. Rèn kỹ năng quan sát, tìm ý qua cảnh vật cụ thể.

2.3.2.1. Định hướng kỹ năng quan sát, tìm ý qua cảnh vật cụ thể .
Định hướng kỹ năng quan sát, tìm ý qua cảnh vật cụ thể tức là giúp học
9


sinh biết lựa chọn trình tự quan sát; biết sử dụng các giác quan để quan sát; sử
dụng liên tưởng, tưởng tượng; vị trí quan sát; khi quan sát cần đi vào trọng tâm
của cảnh vật.
Đầu tiên tôi cho học sinh quan sát: Cây bàng trước lớp em.
Đây là đối tượng quan sát đơn giản nhất, tôi cho các em xác định đối
tượng và mục đích quan sát, khi xác định rõ đối tượng, tôi nêu các câu hỏi gợi ý
học sinh tập trung quan sát tìm ra đặc điểm riêng của cây bàng để không lẫn với
các loại cây khác ở trong sân trường. Tôi cho học sinh tiếp xúc trực tiếp với đối
tượng (cây bàng).
Bước đầu tôi cho học sinh quan sát từ xa để nhìn thấy toàn cảnh và cái
nền của cảnh.
Hỏi: Nhìn từ xa em thấy cây bàng như thế nào? Xung quanh cây bàng em còn
thấy những gì nữa?( Nhìn từ xa em thấy cây bàng như một cái ô khổng lồ đang
vươn mình tỏa bóng mát rượi bên cạnh hàng phượng vĩ với xà cừ).
Sau đó tôi cho học sinh chuyển vị trí quan sát đến bên cạnh cây bàng.
Hỏi: Nhìn kĩ thân cây bàng có những đặc điểm gì đáng chú ý, nhìn những vết xù
xì trên thân cây em liên tưởng đến điều gì?( Những vết xù xì trên thân cây giống
như những vết sẹo trên cơ thể con người)
Hỏi: Quan sát rễ cây bàng em thấy thế nào?Hãy tưởng tượng và tìm hình ảnh
so sánh?( Quan sát rễ cây bàng em thấy chúng ngoằn ngoèo như những con rắn
đang cắm đầu xuống đất)
Hỏi: Tán lá bàng như thế nào? Em nhìn thấy, nghe thấy gì nữa trong vòm lá
(cành, quả, tiếng chim, tiếng gió, ánh nắng…so sánh và nhân hóa phù hợp).
Cây bàng khác với những cây khác ở trên sân trường như thế nào? Trông có
già hơn so với những cây khác không? Nếu gọi cây bàng là “bác” rồi thì em có

nghe thấy cây trò chuyện nhắc nhở gì không? Tình cảm của em đối với cây bàng
như thế nào ?
Hỏi: Như vậy khi quan sát cây bàng em đã làm những gì ?(Chọn vị trí quan sát
thích hợp: Từ xa đến gần, sử dụng các giác quan để quan sát, tưởng tượng, so
sánh, nhân hóa phù hợp.)
Dàn bài sau khi các em đã được quan sát, tìm ý về cây bàng trước lớp:
*Mở bài:
- Sân trường em được bao trùm bởi một màu xanh: màu xanh của hàng
phượng vĩ, của những dãy xà cừ, với màu xanh của những bồn hoa do chúng em
tự tay trồng và chăm sóc.
- Vậy mà em lại xao động trước một loài cây bình dị nhưng thân thương,
đó là cây bàng.
*Thân bài:
- Tả bao quát: Dáng cây cao to….cành vươn bốn phía tạo bóng mát rộng
cảm giác giống như là bác bảo vệ canh gác. (Nêu một vài cảm xúc hay sử dụng
những từ ngữ miêu tả có tính biểu cảm)
- Tả chi tiết:

10


+ Rễ: Cắm sâu xuống đất tìm dưỡng chất -> Tính cần cù, chăm chỉ, chắt
chiu.
+Thân: Xù xì, màu nâu ( như đất mẹ), To bằng vòng tay của hai, ba đứa
trẻ, cây đứng vững vàng chống chọi với mưa bão -> Mạnh mẽ, kiên cường.
+ Cành: Chia nhiều nhánh.
+ Lá: To hơn bàn tay của em...màu sậm, gân lá trồi lên -> dù to nhưng
mảnh mai (dáng vẻ bên ngoài trông mạnh mẽ nhưng bên trong rất yếu ớt cần che
chở)
+ Hoa…

+ Quả…
- Kể về một kỉ niệm
+ Bị điểm kém, chạy xuống gốc cây ngồi khóc, cảm giác được cây an ủi
và bảo vệ.
+ Hay là những lần cùng bạn trong lớp ôn bài dưới gốc cây bàng.
*Kết bài: Cảm nghĩ về cây bàng (yêu, thương, quý,…): Dù cây phượng
rất gắn bó với tuổi học trò nhưng đối với em thì cây bàng chính là cây học trò
giữ biết bao nhiêu kỉ niệm buồn vui lẫn lộn…
Chọn từ ngữ, hình ảnh miêu tả và ghi chép nhận xét những điều đã quan
sát được về cây bàng, sau đó tôi gợi ý để các em quan sát cảnh khác rộng hơn
khó hơn.
Sau khi cho học sinh quan sát một cảnh tĩnh, đơn giản (tả cây bàng trước
lớp), tôi tiếp tục cho học sinh quan sát một cảnh động ở mức độ phức tạp hơn,
đó là cảnh : Sân trường em trong giờ ra chơi.
Tôi hướng dẫn các em chọn giờ ra chơi sau tiết 2 (vì thời gian dài hơn, có
cảnh tập thể dục)
Hỏi: Nhìn toàn cảnh sân trường, em thấy những gì khi trống báo hiệu giờ ra
chơi ( học sinh các lớp ùa ra sân…., xếp hàng tập thể dục đều tăm tắp …, các trò
chơi của các bạn học sinh.)
Hỏi: Cảnh sân trường khi các lớp đang tập thể dục như thế nào?
Hỏi: Hoạt động nào nổi bật hấp dẫn nhất đối với em? Vì sao?
Hỏi: Em nghe thấy được những âm thanh nào? Cảnh vật trên sân lúc này ra
sao?
Hỏi: Khi trống báo hiệu vào học thì sân trường như thế nào?
Hỏi: Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi trên sân trường? (Cảm xúc chủ đạo: Tình
bạn , mái trường)
Dàn bài sau khi các em đã được quan sát, tìm ý về cảnh sân trường trong
giờ ra chơi:
*Mở bài: Giới thiệu giờ ra chơi: Thời gian, địa điểm….
*Thân bài:

- Tả bao quát:
+ Cảnh sân trường lúc bắt đầu ra chơi (ồn ào, náo nhiệt hẳn lên)
+ Hoạt động tập thể dục, vui chơi của các bạn học sinh được diễn ra thật
nhanh…
11


- Tả chi tiết:
+ Các bạn học sinh nhanh chóng xếp hàng tập thể dục đều tăm tắp…
+ Hoạt động vui chơi của từng nhóm (Trai: đá cầu, bắn bi; Nữ: nhảy dây,
đánh cầu lông…)
+ Đâu đó vài nhóm ngồi ôn bài, hỏi nhau bài toán khó vừa học.
+ Âm thanh (Đây đó tiếng trò chuyện, cười đùa râm ran khắp cả sân
trường…)
+ Không khí: nhộn nhịp, sôi nổi…
- Cảnh sân trường sau giờ ra chơi: Vắng lặng, lác đác vài chú chim sà
xuống sân trường ngó nghiêng như đang tìm kiếm vật gì.
*Kết bài:
- Nêu lợi ích của giờ ra chơi
+ Giải tỏa nỗi mệt nhọc sau những tiết học.
+ Thoải mái, tiếp thu bài học tốt hơn trong những giờ tiếp theo.
Từ cách làm trên ta thấy khi làm một bài văn miêu tả, đặc biệt là bài văn
tả cảnh thì công việc đầu tiên là phải biết quan sát, ghi chép lại những sự vật, sự
việc, hiện tượng mà mình vừa quan sát. Việc giáo viên đưa học sinh ra ngoài để
quan sát là khó, nhưng khi học sinh được quan sát trực tiếp thì các em rất thích
thú và đạt kết quả học tập rất cao. Lúc ra ngoài cùng tôi các em cũng tiến hành
quan sát theo câu hỏi gợi ý của giáo viên. Bài làm của học sinh, tôi thu chấm,
sửa lỗi sau đó phát lại để các em phát hiện ra những lỗi sai sót của mình. Bên
cạnh đó tôi còn hướng dẫn học sinh hồi tưởng để ghi chép lại những điều đã có
dịp quan sát, từ đó tích lũy thành vốn sống của mình. Và có thể tăng cường hiểu

biết về thiên nhiên, xã hội thông qua đọc sánh, phương tiện thông tin nghe, nhìn;
để tích lũy những gì mình không có điều kiện quan sát trực tiếp. Khi cần tả một
đối tượng nào đó có thể hồi tưởng, hình dung tái hiện để tả.
Như vậy trong khi dạy quan sát, tìm ý để làm văn miêu tả cảnh bên cạnh
kỹ năng quan sát cần chú ý giúp các em rèn luyện trong cách dùng từ ngữ, hình
ảnh chính xác hay có trí tưởng tượng phong phú có như vậy thì bài viết của các
em mới sinh động và phong phú hơn.
Trên đây tôi đã giúp học sinh phương pháp quan sát, tìm ý trong văn miêu
tả cảnh từ đơn giản đến phức tạp. Song việc hướng dẫn phương pháp quan sát,
tìm ý như thế về thời gian vẫn còn hạn chế, nên tôi còn hướng dẫn các em tự
quan sát ở nhà. Tôi hướng dẫn các em tự quan sát hai văn bản “Bài học đường
đời đầu tiên” (Tô Hoài) và “Sông nước Cà Mau” (Đoàn Giỏi) trong Ngữ Văn 6,
tập 2. Ngoài ra còn hướng dẫn các em tự quan sát, ghi chép những cảnh cụ thể.
2.3.2.2. Định hướng kỹ năng quan sát, tìm ý qua cảnh tổng hợp .
Để học sinh xác định chính xác đối tượng miêu tả khi làm bài văn tả cảnh
ở nhiều cảnh khác nhau với những thời gian, không gian đa dạng, tôi không chỉ
định hướng cho các em kỹ năng quan sát, tìm ý qua cảnh vật cụ thể mà còn định
hướng cho các em kỹ năng quan sát, tìm ý qua cảnh tổng hợp, phức tạp hơn.
Với đề sau: Tả cảnh quê hương em vào một buổi sáng đẹp trời.

12


Tôi cho học sinh thấy: Trên đây là một đề bài dạng miêu tả cảnh tổng hợp. Vậy
thế nào là cảnh tổng hợp?
- Tôi chỉ rõ cho học sinh thấy cần xác định cảnh tổng hợp nhờ những từ
ngữ nào? Đề yêu cầu tả cảnh tổng hợp thường chứa những từ ngữ như: Một
miền quê, quê hương em, cảnh vùng quê, hoặc cảnh nơi em ở.
- Cảnh tổng hợp là như thế nào?
Là cảnh gồm nhiều cảnh nhỏ, cảnh lẻ. Những cảnh nhỏ của quê hương hay miền

quê thường là cánh đồng, dòng sông, con đường làng, cây đa, giếng nước, sân
đình, khu vườn nhà…sau đó giúp học sinh hình dung được cụ thể về cảnh miêu
tả ở thời gian nào (mùa nào), ở không gian nào (cảnh đó như thế nào)…
Việc xác định được đúng yêu cầu của đề như ở ví dụ trên sẽ giúp các em
rất nhiều trong việc định hình được đối tượng miêu tả. Khi học sinh đã xác định
đúng yêu cầu của đề, xác định chính xác đối tượng miêu tả nhưng vẫn chưa thể
định hình được hướng đi cho bài viết. Để giúp học sinh điều đó tôi đã hướng dẫn
các em bước quan sát, tìm ý như sau:
- Đầu tiên phải quan sát theo một trình tự: Tìm ý bao quát không gian của
cảnh chung sẽ tả, sau đó cụ thể sẽ có những cảnh nào? Cảnh như thế nào?
- Tiếp theo tôi cho học sinh luyện kỹ năng xác định, lựa chọn những đặc
điểm tiêu biểu của cảnh sẽ tả, đặc biệt phải mang được dáng dấp của thời gian,
không gian mà đề quy định (Có đặc trưng theo mùa). Huy động quan sát nhìn,
nghe, ngửi, sờ, cầm, chạm,…bằng các giác quan: mắt, tai, mũi, da…và lựa chọn,
sắp xếp ý theo trình tự không gian, thời gian, cảnh vật, con người trong bài văn
miêu tả sao cho hợp lý.
Với cách làm như trên tôi đã cho học sinh luyện tập quan sát, tìm đặc
điểm cho nhiều cảnh khác nhau với những thời gian, không gian đa dạng. Các
em được luyện tập dưới nhiều hình thức: Thi nhau tìm đặc điểm, giáo viên hệ
thống và giúp các em chọn lựa những đặc điểm tiêu biểu nhất trong mỗi cảnh.
Như thế sẽ tạo được hứng thú cho học sinh với cảnh sẽ tả.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Từ việc áp dụng phương pháp dạy học trên, chất lượng giảng dạy của bộ
môn mà tôi phụ trách thay đổi rõ rệt. Điều đó càng thôi thúc tôi không ngừng cố
gắng, học hỏi, trau dồi, đổi mới phương pháp, cống hiến với nghề, với tình yêu
môn văn mà tôi đã chọn.
Đặc biệt, với đối tượng học sinh yếu, kém mà tôi phụ trách đứng lớp từ
khi áp dụng phương pháp dạy học này đã biết quan sát, tìm ý kết hợp với liên
tưởng, tưởng tượng khi miêu tả, biết vận dụng linh hoạt các biện pháp tu từ làm
cho bài văn miêu tả không chỉ đúng mà còn sinh động hấp dẫn, biết nhạy cảm

trước sự vật theo hướng yêu cái đẹp, trọng cái thực, quý cái thiện. Đồng thời,
học sinh cũng có thói quen quan sát để tích lũy vốn hiểu biết, đặc biệt học sinh
đã có hứng thú, say mê trong học tập, yêu thích môn Ngữ văn hơn.
Từ cách làm trên, tôi đã áp dụng trong năm học 2015- 2016 và năm tiếp
theo cũng cho tôi kết quả khả quan, chất lượng môn văn đã chuyển biến, cụ thể
lớp 6A:
13


Lớp

Sĩ số

Kém
Yếu
TB
Khá
Giỏi
SL % SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
6A
27em
0
0

2
7,4
15 55,6
8
29,6
2
7,4
Số lượng học sinh yếu giảm rõ rệt, không còn học sinh kém, số học sinh
khá, giỏi cũng được nâng lên. Đến giờ học văn, nhất là những buổi hướng dẫn
thêm về quan sát cảnh vật ngoài trời các em hào hứng, thích thú hơn. Trong giờ
học, các em tích cực chủ động xây dựng bài và học bài ở lớp cũng như ở nhà.
Điều đó, đã góp phần rất lớn trong việc nâng cao chất lượng môn văn nói riêng,
chất lượng giáo dục của nhà trường nói chung.

14


3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Niềm vui của mỗi giáo viên Ngữ văn khi đứng lớp không chỉ là chất
lượng được đo bằng con số của mỗi năm, mà chính là những ánh mắt long lanh
vì đã hiểu bài, những bàn tay tự viết ra được những lời văn trong sáng, hồn
nhiên nhưng không kém phần óng ánh và những nụ cười thiện cảm với môn Văn
từ phía học sinh. Để đạt được những điều vô cùng quý giá đó, người giáo viên
đâu chỉ có say mê, nhiệt tình với công tác giảng dạy mà còn phải tìm tòi hướng
đi hiệu quả nhất. Từ thực tế những năm giảng dạy Ngữ văn 6, tôi đã rút ra những
bài học kinh nghiệm trong việc phụ đạo học sinh yếu, kém bằng cách hướng dẫn
các em biết cách quan sát, tìm ý trong bài văn tả cảnh như sau:
- Khi quan sát các em phải biết lựa chọn vị trí quan sát sao cho phù hợp.
- Phải sử dụng kết hợp các giác quan khi quan sát ( Mắt nhìn, tai nghe, kết

hợp ghi chép lại những hình ảnh vừa quan sát được)
- Phải sắp xếp các hình ảnh vừa quan sát được theo một trình tự nhất định,
điều đó sẽ giúp cho việc lập dàn ý của các em trước khi làm bài văn sẽ được rõ
ràng, mạch lạc hơn.
- Khi viết bài văn tả cảnh, ngoài công việc đầu tiên là phải quan sát, tìm ý
thì phải biết kết hợp với nhận xét, liên tưởng, tưởng tượng, ví von, so sánh ...có
như thế mới làm nổi bật lên được những đặc điểm tiêu biểu của sự vật cần miêu
tả.
Với cách hướng dẫn tỉ mỉ, cụ thể của tôi theo các bước trên các em đã
nắm được trình tự quan sát, tìm ý. Từ đó các em học sinh yếu, kém khi viết bài
văn tả cảnh đã không còn mơ hồ nữa. Các em đã chủ động tham gia chiếm lĩnh
kiến thức và rèn luyện kỹ năng làm bài Tập làm văn tả cảnh. Kết quả đạt được
như vậy chính là nhờ vào việc dạy – học nghiêm túc của cả cô và trò. Niềm vui,
sự yêu thích môn học Ngữ văn đã đến trong mỗi tiết học mà tôi phụ trách.
3.2. Kiến nghị.
Từ những kinh nghiệm đã áp dụng mang lại hiệu quả thiết thực, tôi mạnh
dạn đưa ra một vài đề xuất sau:
3.2.1. Đối với đồng nghiệp:
- Khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này ngoài các biện pháp tôi đã nêu
thì giáo viên cần phải thực sự kiên trì, mẫu mực trong cách dùng từ, kiên trì
trong việc kiểm tra, đánh giá, chỉnh sửa các phần viết luyện kỹ năng của các em.
Mặt khác, giáo viên cũng phải kiên trì sưu tầm, chọn lọc tư liệu có giá trị
để cung cấp cho các em, đồng thời tìm cách hướng cho các em khả năng vận

15


dụng sáng tạo những tư liệu để biến thành cách diễn đạt riêng của bản thân mỗi
học sinh.
- Giáo viên cần xây dựng nhiệm vụ của từng cảnh miêu tả. Chuẩn bị chu

đáo hệ thống câu hỏi định hướng để giúp học sinh quan sát, tìm ý tốt nhất.
3.2.2. Đối với cấp trên
Để chất lượng môn Ngữ văn trong nhà trường được nâng cao hơn nữa, tôi
đề xuất ở chương trình Ngữ văn 6, đặc biệt là phần văn tả cảnh cần có tiết thực
hành quan sát, để giáo viên có thời gian giúp học sinh tập quan sát một cách kĩ
lưỡng hơn. Từ đó, sẽ giúp các em viết bài văn tả cảnh đạt kết quả cao hơn.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc giúp học sinh yếu,
kém biết cách quan sát, tìm ý trong bài văn tả cảnh được bản thân rút ra trong
quá trình dạy học. Với những kinh nghiệm này, đã giúp cho tôi cũng như những
đồng nghiệp dạy văn trong nhà trường cải thiện được phần nào tình trạng chất
lượng thấp và học sinh chán học môn văn. Đây là những kinh nghiệm nhỏ rất
mong được đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo góp ý để khi áp dụng kinh nghiệm đạt
kết quả tốt hơn. /.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thọ Minh,ngày 25 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Cao Thị Hằng

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Ngữ văn 6 (Nhà xuất bản Giáo dục)

2. Thiết kế bài giảng Ngữ văn 6
3. Chuẩn kiến thức kĩ năng.
4. Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 6 (Nhà xuất bản Giáo dục)
5. Tuyển chọn văn miêu tả (Văn Giá, Nguyễn Nghiệp, Nguyễn Trí NXB Giáo
dục.)

17


18



×