Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Giáo trình văn học trẻ em

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.7 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SP TIỂU HỌC – MẦM NON

Năm 2016

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
MỤC LỤC

VĂN HỌC TRẺ EM
(Dành cho hệ ĐHGD Mầm non)

Tác giả: Trần Thị Mỹ Hồng

Năm 2016
1


MỤC LỤC
Chương 1: VĂN HỌC DÂN GIAN CHO TRẺ EM............................4
1. 1. Ý nghĩa của văn học dân gian trong đời sống tinh thần trẻ thơ .4
1.2. Đặc trưng cơ bản của một số thể loại truyện kể dõn gian và thơ
ca dân gian phù hợp với trẻ. ..................................................................7
Chương 2 : VĂN HỌC TRẺ EM VIỆT NAM ...................................22
2.1. Khái quát về văn học trẻ em Việt Nam........................................22
2.2. Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu ...............................................26
Chương 3: VĂN HỌC TRẺ EM NƯỚC NGOÀI .............................39
3.1. Rabinđranat Tagore và tập thơ Trăng non ..................................39
3.2. Lep Tônxtôi ...................................................................................44
3.3. Anđecxen.......................................................................................48
3.4. Truyện cổ Grim .............................................................................50



2


MỞ ĐẦU
Văn học trẻ em là một bộ phận quan trọng của nền văn học viết nói chung.
Ngoài việc thực hiện đúng chức năng và mục đích của văn học, nó còn mang
những đặc thù riêng. Khác với những sáng tác dành cho người lớn, văn học trẻ
em luôn phải chú ý đến tâm lí lứa tuổi. Để làm được điều này, nó phải “có bên
trong một sức mạnh. Đó là sức mạnh của cái đẹp, sức mạnh của văn chương
nghệ thuật. Sức mạnh đó sẽ đánh thức trong các em tình cảm và ý nghĩ tốt đẹp,
làm cho các em biết tôn trọng, yêu thương, thấy những nghĩa vụ cần làm, sống có
tinh thần nhân ái, biết sống một cách tốt đẹp”. Qua một quá trình phát triển lâu
dài, với một đội ngũ sáng tác ngày càng nhiều và chuyên nghiệp, văn học dành
cho các em thực sự đã có những bước phát triển quan trọng, đóng góp một phần
lớn trong việc định hướng phát triển nhân cách cho trẻ thơ, xây dựng và bồi đắp
cho các em những phẩm chất tốt đẹp ban đầu.
Đối tượng chủ yếu giáo trình hướng đến là sinh viên chuyên ngành Đại học
Giáo dục Mầm non. Trong quá trình biên soạn, tác giả đã theo sát chương trình
do Bộ Giáo dục - Đào tạo ban hành. Các nội dung đưa vào giáo trình đã được
khái quát, tinh giản phù hợp với chương trình và đối tượng sinh viên. Do thời
gian quá hạn hẹp nên chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả
rất mong nhân được sự góp ý của quý thầy cô, đồng nghiệp và các bạn sinh viên.

Tác giả

3


Chương1:VĂNHỌCDÂNGIANCHOTRẺEM

1. 1. Ý nghĩa của văn học dân gian trong đời sống tinh thần trẻ thơ
* Về ý nghĩa nhận thức
Văn học dân gian là người bạn đồng hành của nhân dân lao động từ thời cổ
đến nay. Theo sát mọi mặt đời sống của nhân dân, là " lịch sử không thành văn
của nhân dân", văn học dân gian đã phản ánh chân thực, sát thực cuộc sống ấy.
Do vậy văn học dân gian luôn giúp cho người đời sau những hiểu biết đúng đắn
về thế giới quan, nhân sinh quan của các thế hệ trước. Nó cũng là nơi cung cấp
những kiến thức về trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần, về lao động và chiến
đấu, về quan hệ xã hội, về phong tục tập quán..., về những chặng đờng đã qua
trong lịch sử dân tộc.
Tiếp xúc với văn học dân gian chúng ta có điều kiện tìm hiểu về cội nguồn
cuộc sống của cha ông (câu chuyện trăm trứng), có điều kiện hiểu được cuộc sống
lao động vất vả để chinh phục thiên nhiên (Sơn tinh, Thuỷ tinh...). Cuộc đấu tranh
chống thiên nhiên, thú dữ được ghi lại bằng những câu chuyện giàu tính chất anh
hùng ca, lãng mạn, bay bổng (Cóc kiện trời, Cường bạo Đại vương...). Trong
cuộc chiến đấu với thiên nhiên để mở mang địa bàn cư trú, cha ông ta đã bộc lộ
tinh thần xung thiên bất khuất, kiên cường và những ước mơ khát vọng chiến
thắng cháy bỏng (Thần trụ trời, Thần lúa, Rắn già lột xác, Đẻ đất đẻ nước). Bằng
hình tượng các vị thần, văn học dân gian có dịp chắp cánh cho trí tưởng tượng
chúng ta bay vào bầu trời quá khứ, từ đó hiểu hơn về sự tàn phá ghê gớm của
thiên nhiên (thần gió, thần mưa, Sơn tinh Thuỷ tinh...) và biết tự hào về ý chí,
nghị lực, sức mạnh, lòng kiên cường của cha ông ta được thể hiện trong văn học
dân gian.
- Truyện dân gian còn giúp nhận thức được lịch sử dân tộc. Từ thuở khai
thiên lập địa cha ông ta luôn ý thức được chủ quyền dân tộc, tình yêu Tổ quốc.
Văn học dân gian nâng tầm tự hào dân tộc ở các em bằng những câu chuyện
truyền thuyết về vua Hùng, An Dương Vương, Thánh Gióng. Ngọn lửa truyền

4



thống đó cứ thắp sáng mãi trong lòng bao thế hệ. Tên tuổi các vị anh hùng: Bà
Trưng, bà Triệu, Phùng Hưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... cứ sống
mãi trong tâm hồn trẻ thơ nhờ văn chương dân gian... Thông qua những câu
chuyện ấy các em hiểu lịch sử hào hùng của dân tộc, tâm tình thiết tha yêu độc
lập tự do của ông cha ta. Hơn thế nữa còn bồi đắp, nuôi dưỡng cho các em dòng
máu nóng để sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn. Học tập các gương anh hùng ấy, các
em đoàn kết một lòng, thông minh đầy sáng tạo và luôn cảnh giác trước mọi vấn
đề trong cuộc sống. Rõ ràng văn học dân gian góp phần không nhỏ vào việc giáo
dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho trẻ mẫu giáo thông qua những
hình tượng nhân vật anh hùng.
- Xã hội loài người với những cuộc đời đa dạng, sinh động cũng được hiện
lên muôn hình muôn vẻ trong văn học dân gian. Thông qua những câu chuyện cổ,
các em sống với thế giới nhân vật vừa phong phú vừa lung linh đẫm chất huyền
thoại. Thế giới cổ tích bay bổng diệu kỳ đã mở rộng tầm mắt các em. Nó cho các
em nhận chân giá trị cái tốt, cái đẹp, cái thiện, phê phán cái ác, cái xấu. Để rồi các
em yêu cuộc sống hơn, yêu con người hơn và ghê tởm, căm thù cái bất nhân, bỉ
ổi. Những nhân vật chính diện như cô Tấm, Thạch Sanh, Mai An Tiêm, Sọ Dừa,
người em út,... có phẩm chất, tâm hồn cao đẹp sẽ là tấm gương sáng ngời cho tre
noi theo. Những nét tính cách thật thà, ngay thẳng, hiếu thảo, thuỷ chung, có lòng
nhân hậu, cần cù chăm chỉ,... sẽ giáo dục đức tính, phẩm giá cao đẹp chi các
em.... Truyện cổ dân gian đã thắp sáng niềm tin, nâng cao ước mơ ở trẻ. Trên đời
nhất định chính nghĩa sẽ thắng gian tà, người ngay thẳng thật thà sẽ có kết cục
hạnh phúc sung sướng, ở hiền chắc chắn sẽ gặp lành. Kết thúc có hậu của truyện
dân gian phù hợp với ước mơ công bằng giúp cho các em yêu đời hơn. Từ đó các
em tin tưởng, cái ác, cái xấu sẽ được trừng trị đích đáng. Các em cũng biết đồng
cảm chia xẽ, yêu thương với bạn bè, biết kính yêu người lớn và nhường nhịn
người trẻ nhở hơn mình. Văn học dân gian đã thổi vào trái tim các em những
luồng gió mới vừa ngọt ngào, vừa quyến rũ để giúp trẻ sống tốt hơn. Mỗi câu


5


chuyện dân gian thường khuyên dạy con người một kinh nghiệm ứng xử, một lối
sống phù hợp với đạo đức xã hội. Câu chuyện “quạ mặc lông công”, “cáo mượn
oai hùm” khuyên các em nên tự lực hành động, không làm trò cười cho thiên hạ.
“Mèo lại hoàn mèo”, “thầy bói xem voi” lại nhắc các em khi đánh giá, xem xét sự
vật phải nhìn nhận một cách toàn diện mới có thể nhận thức đúng sự vật đó.
Ngoài ra văn học dân gian còn là tiếng cười phê phán thói hư, tật xấu trong xã hội
(quan huyện thanh liêm, thầy đồ liếm mật. Diêm vương xử kiện, trả nợ tiền
kiếp...). Nó có tác dụng răn dạy, nhắc nhở các em xa cái xấu, cái ác để xây dựng
xã hội công bằng, tốt đẹp, văn minh.
*Về ý nghĩa giáo dục
Văn học dân gian là kho kinh nghiệm phong phú của nhân dân, là nơi lưu
giữ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy giá trị của văn học dân gian là
vô cùng to lớn: dạy cho con người cách ăn nói, ứng xử cho phù hợp với các quan
hệ xã hội; ca ngợi cái tốt, lên án cái xấu, cái ác, góp phần xây dựng lối sống nhân
ái, thẳng thắn, biết đấu tranh bảo vệ cái tốt, cái đúng.
Văn học dân gian truyền lại cho đời sau khát vọng độc lập tự do, thắp sáng
lên ngọn lửa yêu nước thương nòi, khơi dậy niềm tự hào về sức mạnh dân tộc
trong lao động, trong chiến đấu chống giặc ngoại xâm, tạo cho con người niềm tin
vào sức mạnh của bản thân, giúp cho tâm hồn con người nhạy cảm trước vẻ đẹp
của thiên nhiên, của tình đồng loại.
Từ thuở khai thiên lập địa cha ông ta luôn ý thức được chủ quyền dân tộc,
tình yêu Tổ quốc. Văn học dân gian nâng tầm tự hào dân tộc ở mỗi người bằng
những câu chuyện truyền thuyết về vua Hùng, An Dương Vương, Thánh Gióng.
Ngọn lửa truyền thống đó cứ thắp sáng mãi trong lòng bao thế hệ. Tên tuổi các vị
anh hùng: Bà Trưng, Bà Triệu, Phùng Hưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang
Trung,... cứ sống mãi trong mỗi tâm hồn nhờ văn chương dân gian... Những câu
chuyện ấy bồi đắp, nuôi dưỡng trong chúng ta dòng máu nóng để sẵn sàng xả

thân vì nghĩa lớn. Học tập các gương anh hùng ấy, thế hệ con cháu sau này luôn

6


đoàn kết một lòng, thông minh đầy sáng tạo và luôn cảnh giác trước mọi vấn đề
trong cuộc sống. Rõ ràng văn học dân gian góp phần không nhỏ vào việc giáo dục
truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc.
- Xã hội loài người với những cuộc đời đa dạng, sinh động cũng được hiện
lên muôn hình muôn vẻ trong văn học dân gian. Qua những câu chuyện cổ, chúng
ta nhận chân giá trị cái tốt, cái đẹp, cái thiện, phê phán cái ác, cái xấu. Từ đó yêu
cuộc sống hơn, yêu con người hơn và ghê tởm, căm thù cái bất nhân, bỉ ổi. Những
nhân vật chính diện như cô Tấm, Thạch Sanh, Mai An Tiêm, Sọ Dừa, người em
út,... có phẩm chất, tâm hồn cao đẹp sẽ mãi là tấm gương sáng ngời . Những nét
tính cách thật thà, ngay thẳng, hiếu thảo, thuỷ chung, có lòng nhân hậu, cần cù
chăm chỉ,... sẽ giáo dục đức tính, phẩm giá cao đẹp cho tất cả chúng ta.
*Về ý nghĩa thẩm mỹ
Là những sáng tạo tinh thần của quần chúng nhân dân, văn học dân gian tạo
cho người thưởng thức những khoái cảm thẩm mỹ về vẻ đẹp hồn nhiên, chân thật
giản dị của thiên nhiên và con người. Những mẫu mực về xây dựng hình tượng
nghệ thuật bay bổng độc đáo; cách sử dụng ngôn ngữ giàu âm thanh nhịp điệu,
hình ảnh; bút pháp tượng trưng, hư cấu kỳ ảo, sự kết hợp giữa hiện thực và lãng
mạn …là giá trị thẩm mỹ cao của văn học dân gian. Đây là dòng sữa ngọt ngào
nuôi dưỡng tài năng của văn thơ bác học.
1.2. Đặc trưng cơ bản của một số thể loại truyện kể dõn gian và thơ ca
dân gian phù hợp với trẻ.
1.2.1. Đặc trưng cơ bản của một số thể loại truyện kể dân gian: thần thoại,
truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười.
* Thần thoại
- Căn cứ vào đề tài, có thể chia thần thoại Việt Nam thành 4 tiểu loại sau:

+ Thần thoại về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên (như truyện
Thần Trụ Trời, Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, Cóc kiện trời...)

7


+ Thần thoại về nguồn gốc các loài vật (động vật và thực vật: lúa thần, sự
tích Ngọc Hoàng tu bổ các giống vật, sự tích cây thì là...)
+ Thần thoại về nguồn gốc con người: Bộ phận này có quan hệ nhiều với
truyền thuyết, thậm chí có truyện còn được coi là truyền thuyết (Họ Hồng Bàng,
Lạc Long Quân - Âu Cơ).
+ Thần thoại về anh hùng sáng tạo văn hoá, thuỷ tố các nghề (Nữ thần nghề
mộc, Thần nông, Sự tích bánh chưng- bánh giầy...) có bộ phận gần với truyền
thuyết, và có bộ phận gần với truyện cổ tích (Sự tích dưa hấu).
Thần thoại ra đời do nhu cầu nhận thức, lý giải và chinh phục tự nhiên của
người nguyên thuỷ. Vì vậy nó phản ánh nhận thức của người xưa về thế giới và
con người.
- Trong thần thoại, thế giới tự nhiên có quan hệ mật thiết với đời sống con
người và con người luôn có ý thức vươn lên chiếm lĩnh, cải tạo và bắt nó phục vụ
cho cuộc sống của mình.Cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên đã được ghi lại
bằng những câu chuyện giàu tính chất anh hùng ca, lãng mạn bay bổng( Sơn
Tinh- Thuỷ Tinh, Cóc kiện trời). Trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên để mở
mang địa bàn cư trú, ông cha ta đã bộc lộ rõ tinh thần bất khuất, khí thế xung
thiên cùng ước mơ cháy bỏng: chiến thắng thiên nhiên và có cuộc sống hoà bình,
yên ổn.
- Hình tượng trong thần thoại kỳ vỹ, bay bổng, giàu tính thẩm mỹ. Nó giúp
cho người đời sau hiểu biết về một thời kỳ lịch sử" một đi không trở lại"- thời kỳ
thởi nguyên trong sáng, đẹp đẽ.Thần thoại sẽ mãi còn ý nghĩa lớn lao trong việc
giáo dục các thế hệ biết vươn lên làm chủ thiên nhiên, tinh thần cần cù trong lao
động và niềm tin vào sức mạnh bản thân.

Với trẻ thơ, thần thoại chắp cánh cho trí tưởng tượng bay bổng của các em.
Tuy nhiên, để giúp trẻ thơ cảm nhận đúng đắn về thể loại này,giáo viên cần giảng
giải để trẻ hiểu ý nghĩa hiện thực của các hình tượng thần. Qua hình tượng thần,
người xưa không chỉ giải thích tự nhiên mà còn để ca ngợi khả năng của con

8


người trong việc chinh phục tự nhiên. Cần giúp cho trẻ thấy sự tàn phá ghê gớm
của thiên nhiên với đời sống của người dân vùng lúa nước; đồng thời các em cũng
phải thấy, phải biết tự hào về ý chí, nghị lực, sức mạnh ông cha trong cuộc đấu
tranh chinh phục thiên nhiên và sáng tạo văn hoá.
* Truyền thuyết:
- Căn cứ vào đối tượng phản ánh, kết hợp với hoàn cảnh ra đời và đặc điểm
thi pháp, có thể chia truyền thuyết người Việt thành hai bộ phận chính:
Truyền thuyết thời Văn Lang - Âu Lạc: (truyện Thánh Gióng, truyện An
Dương Vương, Con Rồng- cháu Tiên, Sự tích bánh chưng bánh giầy). Bộ phận
này có mang tính chất thần thoại và anh hùng ca nên thường gọi là “truyền thuyết
anh hùng” hay “truyền thuyết hoang đường”, tức là truyền thuyết mang đậm tính
thần thoại hay huyền thoại. Bộ phận truyền thuyết này thể hiện sâu sắc niềm tự
hào về cội nguồn dân tộc, ngợi ca những anh hùng lao động, sáng tạo văn hoá và
những anh hùng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm .
Truyền thuyết từ thời Bắc thuộc về sau (truyền thuyết về bà Trưng, bà Triệu,
Phùng Hưng, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi ...) tập trung ca ngợi những người anh hùng
cứu nước, những sự kiện lớn lao của dân tộc. Bộ phận này giàu tính hiện thực, đi
sát lịch sử hơn nên thường gọi là truyền thuyết lịch sử, hay có người gọi là truyện
cổ tích lịch sử.
Truyền thuyết không chỉ ghi lại các sự kiện, nhân vật lịch sử mà còn thể hiện
thái độ của nhân dân trước những sự kiện, nhân vật lịch sử đó. Thái độ công bằng
của nhân dân trong đánh giá lịch sử là nét quý trong giá trị nhận thức của truyền

thuyết, giúp cho người đời sau hiểu đúng về lịch sử dân tộc mình.
Truyền thuyết đã góp phần không nhỏ vào vào việc giáo dục truyền thống
yêu nước, tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của con người đối với đất nước.
Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để giúp các em nhỏ thấy được cái tâm tình tha thiết
đối với độc lập, tự do của đất nước, tinh thần xả thân vì nghĩa lớn, ý thức đoàn kết

9


một lòng, mưu trí sáng tạo,cảnh giác của cha ông qua các hình tượng người anh
hùng trong truyền thuyết.
*Truyện cổ tích:
Trong kho tàng truyện dân gian của người Việt cũng như của nhiều dân tộc
khác trên thế giới, truyện cổ tích là bộ phận lớn nhất, có lịch sử sinh thành,
phát triển và tồn tại, có nội dung nghệ thuật phong phú, đa dạng nhất. Truyện
cổ tích ra đời sớm ( thay thế cho thần thoại ) tồn tại qua nhiều thời kì xã hội
khác nhau và phát triển mạnh mẽ trong xã hội có giai cấp . Nó hướng vào
những vấn đề cơ bản của cuộc sống đời thường, đồng thời dùng một kiểu
tưởng tượng và hư cấu riêng để phản ánh đời sống, khát vọng của con người .
Ví dụ: Tấm Cám, Cây khế, Sự tích trầu cau, Thạch Sanh...
Phân loại :Hiện tại có nhiều cách phân loại về truyện cổ tích. Tuy nhiên đa
số thống nhất phân thành ba bộ phận chính: Cổ tích thần kì, cổ tích thế sự, cổ tích
loài vật .
+ Cổ tích thần kì :
Gồm những truyện cổ tích hướng về đời sống xã hội, lấy con người (chủ yếu
là những người lao động nghèo khổ, lương thiện) làm nhân vật trung tâm. Nhưng
ngoài con người còn có những nhân vật và yếu tố thần kì (Tiên, Bụt, Thần, Trăn
tinh, Chiếc gậy thần, Cây đèn thần). Trong truyện cổ tích, lực lượng thần kì có vai
trò lớn đối với sự phát triển tình tiết và giải quyết xung đột, mâu thuẫn của truyện
(Thạch Sanh, Tấm Cám, Sọ Dừa...). ở cổ tích thần kỳ, ngoài trần gian còn có thế

giới siêu nhiên (cõi âm, cõi tiên, thiên đình...) trong đó, con người và nhân vật
thần kỳ quan hệ trực tiếp với nhau, tạo nên thế giới đặc biệt.
Căn cứ vào đặc điểm của nhân vật chính có thể chia cổ tích thần kỳ thành 2
nhóm chính:

10


- Nhóm cổ tích thần kỳ về những nhân vật tài năng, sức khoẻ phi thường, lập
nên những kỳ tích đặc biệt (truyện Sư không lộ, truyện ba chàng thiện nghệ của
người Việt...).
- Nhóm cổ tích thần kỳ về những nhân vật bất hạnh (truyện Tấm Cám,
truyện Cây tre trăm đốt, Thạch Sanh).
+ Truyện cổ tích thế sự: (Có thể gọi là: cổ tích thế tục, cổ tích sinh hoạt, cổ
tích hiện thực): Gồm những truyện chủ yếu là nói về con người. Nhân vật
chính là con người thường trong xã hội. Xung đột trong loại truyện này được
giải quyết bằng lôgíc của đời sống thường ngày. Nếu có yếu tố thần kỳ cũng
đóng vai trò khá quan trọng trong sự phát triển tình tiết và giải quyết xung
đột.( Sự tích Trầu cau, Hai anh em, Trương Chi...)
+ Truyện cổ tích loài vật:
Là những truyện cổ tích hướng về sinh hoạt của xã hội loài vật, lấy loài vật
làm nhân vật chính, nhất là những con vật gần gũi và có nhiều ảnh hưởng, tác
dụng đối với đời sống con người (con trâu, con bồ câu, con sáo, con thỏ, con khỉ,
con hổ, con mèo...).Con vật trong truyện cổ tích dĩ nhiên đã được nhân hoá (Cóc
kiện trời, Công và Quạ...).
Nhân vật trong truyện cổ tích có thể là loài vật ( truyện cổ tích loài vật)
nhưng đại đa số là những con người bình thường, nhỏ bé. Đây là những người
không có địa vị trong xã hội, không có tiềm lực kinh tế nhưng họ là người đại
diện cho những phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Nhân vật trong truyện cổ tích thường
chia thành hai tuyến có tính cách đối lập nhau: tốt và xấu, thiện và ác. Thông qua

hệ thống nhân vật này, tác giả dân gian đã thể hiện quan điểm nhân sinh của
mình: khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của con người, phê phán những thói
hư tật xấu. Chính ở đây truyện cổ tích phát huy chức năng giáo huấn một cách
tích cực nhất.
Ca ngợi cái tốt, phê phán cái xấu là hai mặt của bài học giáo dục. Những thói
xấu trong nội bộ người lao động cũng như những thủ đoạn xấu xa, tham lam, độc

11


ác của giai cấp thống trị đều bị đưa ra phê phán . Do vậy truyện cổ tích còn có giá
trị là vũ khí của nhân dân trong cuộc đấu tranh chống phong kiến, xây dựng cộng
đồng ngày càng tốt đẹp.
Truyện cổ tích phản ánh một thế giới đa dạng, phong phú nhưng chứa đựng
trong đó những câu chuyện có kết cấu chặt chẽ, hoàn chỉnh. Diễn biến của câu
chuyện tuân theo trình tự thời gian nên dễ theo dõi. Nhân vật trong truyện mặc dù
có tính hư cấu, lý tưởng hoá, song nhân vặt chính diện thường có cái đẹp hài hoà
giữa thể chất và tâm hồn, trở thành tấm gương đẹp cho trẻ noi theo. Truyện cổ
tích đã thắp sáng niềm tin cho trẻ thơ, hướng trẻ vươn tới những điều tốt đẹp. Đây
là thể loại được trẻ yêu thích nhất so với các thể loại truyện dân gian khác.
* Truyện ngụ ngôn
Truyện ngụ ngôn: là loại truyện tưởng tượng, mượn thế giới loài vật, đồ vật để
nói về con người, vì vậy mỗi truyện ngụ ngôn là một ẩn dụ lớn.
Nhân vật trong truyên ngụ ngôn phần lớn là loài vật (truyện bồ câu và sáo,
Chèo bẻo và ác là...).Nhưng có khi nhân vật là cây cỏ, hoa lá, trăng sao, có khi là
người hoặc các bộ phận là cơ thể người.
Truyện ngụ ngôn có kết cấu ngắn gọn, mạch lạc, ít tình tiết và nhân vật
nhưng bao giờ ở trong nó cũng chứa đựng trong nó một bài học nhất định. Truyện
thiên về giáo dục hơn phản ánh hiện thực. Mỗi câu chuyện khuyên dạy cho con
người kinh nghiệm ứng xử, một lối sống phù hợp với đạo đức xã hội, với quy

luật, tình huống khách quan. Truyện Con cọp bị thương chứa đựng bài học thấm
thía về tình cảnh khó xử khi gần gũi bọn vua chúa bởi thật khó đoán trước tâm địa
của chúng như thế nào? Truyện Quạ mặc lông công khuyên người ta nên tự lực
mà hành động, không nên vì hư danh mà chuốc lấy tai hoạ, làm trò cười cho thiên
hạ.
Truyện ngụ ngôn phù hợp với nhiều đối tượng, trong đó có cả trẻ nhỏ. Tuy
nhiên do trình độ tư duy, do kinh nghiệm cuộc sống còn hạn chế, trẻ em chưa thể
hiểu hết được ý nghĩa tiềm ẩn trong mỗi câu chuyện. Vì vậy giáo viên cần lựa

12


chọn những câu chuyện có bài học triết lý không quá phức tạp để kể cho trẻ nghe.
Mỗi câu chuyện lại thường có nhiều bài học nên cô giáo cũng cần phải chọn bài
học thích hợp để dạy trẻ.
*Truyện cười
Truyện cười là truyện kể để gây cười. Kết cấu truyện thường ngắn gọn, chặt
chẽ luôn có những tình huống bất ngờ, trái tự nhiên và có tác dụng gây cười.
Phân loại:
Dựa vào đặc điểm thi pháp có thể phân truyện cười thành hai loại chính :
Truyện cười không kết chuỗi và truyện cười kết chuỗi.
Dựa vào nội dung có thể phân truyện cười thành: truyện khôi hài và truyện
châm biếm.
Giá trị của truyện cười tập trung ở bộ phận truyện châm biếm. Đối tượng
châm biếm của truyện cười khá đông và đa dạng về nguồn gốc xã hội. Đó là
những tên nhà giàu keo kiệt; là quan lại hống hách, bất lương; là sư tăng đội lốt;
là thầy địa, thầy cúng nói mò kiếm tiền; thầy đề, thầy lang dốt nát, bất tài...( Quan
huyện thanh liêm, Thầy đồ liếm mật...)
Truyện cười khôi hài khai thác những tình huống trái với tự nhiên hoặc
những thói hư tật xấu có trong nhân dân. Loại truyện này giúp cho người dân có

những phút giây sảng khoái sau khi làm việc vất vả và cũng là để giúp họ nhìn lại
bản thân, tu dưỡng hoàn thiện mình.( Con rắn vuông, Cháy, Sang cả mình con...)
* Kết luận:
Truyện cổ dân gian là kho kinh nghiệm quý báu về nhiều phương diện , là
nơi lưu giữ truyền thống dân tộc. Do vậy việc cho trẻ tiếp xúc với văn học dân
gian nói chung, truyện dân gian nói riêng là cần thiết. Tuy nhiên giữa vẻ lung linh
tuyệt diệu của viên ngọc quý ấy vẫn còn gợn những vết cát bụi mà người giáo
viên cần gạn lọc để trẻ được tiếp nhận những vẻ đẹp thuần khiết, hoàn thiện nhất.

13


* Tìm hiểu một số truyện dân gian phù hợp với trẻ : Sơn tinh, Thủy tinh,
Thánh Gióng, Cây khế, Tấm Cám….
1.2.2. Đặc trưng cơ bản một số thể loại thơ ca dân gian phù hợp với trẻ : ca
dao - dân ca, hát ru, đồng dao.
* Ca dao: Được dùng theo nghĩa hẹp để chỉ thơ trữ tình dân gian truyền
thống và những sáng tác thơ truyền miệng được làm theo phong cách dân gian.
Ca dao là phần lời của bài hát dân gian (dân ca), là thơ ca dân gian truyền thống.
- Con cò bay lả bay la
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng.
- “Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi”
Nội dung ca dao vô cùng phong phú nhưng nổi bật và sâu sắc nhất là nội
dung phản ánh tình cảm gia đình và các mối quan hệ cộng đồng.
Khi nói về quan hệ gia đình, ca dao đã thể hiện sâu sắc đạo lý truyền thống dân
tộc: đề cao chữ hiếu, xem trọng quan hệ ruột thịt máu mủ, giáo dục tình cảm đoàn
kết trong gia đình.
- Con người có cố có ông
Như chim có tổ, như sông có nguồn

- Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Khi nói về thiên nhiên đất nước, ca dao coi đó vừa là đối tượng miêu tả vừa
là phương tiện nghệ thuật thể hiện tình cảm, thường là tình yêu quê hương đất
nước, niềm tự hào về vẻ đẹp, sự giàu có của quê hương.
- Làng ta phong cảnh hữu tình
Dân cư giang khúc như hình con long
Khi đề cập tới tình yêu và quan niệm hôn nhân, ca dao đã bày tỏ mọi cung bậc
tình cảm sâu kín của người lao động từ việc tỏ tình, nỗi nềm tương tư, trách móc,
thề nguyền đến khát vọng hạnh phúc.
Khi nói về quan hệ xã hội, ca dao trở thành lời tâm tình của những tâm hồn đau
khổ. Đó là tiếng hát than thân của những người đi ở, người nông dân nghèo, đặc
biệt là người phụ nữ...

14


- Thân em như ớt chín cây
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng
Thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của ca dao là so sánh, ẩn dụ, nhân hóa và
dùng các biểu tượng.
+ So sánh
Nhờ biện pháp tu từ so sánh, giá trị nhận thức, tạo hình và biểu cảm của ca dao
trở nên sâu sắc. So sánh giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn phương tiện nào đó
của sự vật, hiện tượng. Những khái niệm trừu tượng, những đặc điểm thuộc tính
của các sự vật, hiện tượng, mối quan hệ…nhờ sự liên tưởng sắc sảo của so sánh
tu từ mà thế giới vô hình ấy trở thành thế giới hữu hình khiến cho nội dung diễn
đạt rõ ràng, dễ hiểu:
Thiếp nhớ chàng như cà nhớ muối
Chàng nhớ thiếp như cuội nhớ trăng

Thân em như chổi đầu hè
Phòng khi mưa gió đi về chùi chân
Chùi rồi lại vứt ra sân
Gọi người hàng xóm có chân thì chùi
So sánh là biện pháp tạo hình giúp cho bài ca tăng tính chất tượng hình nghệ
thuật:
Em như cá lượn đầu cầu
Anh về lấy lưới, người câu mất rồi
Em như hoa nở trên cành
Anh như con bướm lượn vành bên hoa
Bây giờ anh lấy người ta
Như dao cắt ruột em ra làm mười
Em như ngọn cỏ phất ngơ
Anh như con nghé ngơ ngơ ngoài đồng
Biện pháp so sánh trong ca dao biểu hiện thế giới tâm hồn phong phú, tinh tế,
chân thành của nhân dân lao động, đồng thời đặt nền móng vững chắc cho nghệ
thuật so sánh tu từ trong thơ ca hiện đại Việt Nam.
* Ẩn dụ
Đây là dạng so sánh ngầm. Ẩn dụ là phương thức chuyển nghĩa theo
nguyên tắc tương đồng của các hiện tượng, sự vật theo những dấu hiệu khác

15


nhau.
- Hàm ẩn qua hình ảnh các con vật: Hình ảnh con cò, con bống, con
rùa, con kiến, con cuốc...thường biểu tượng cho người lao động, kẻ yếu thế
dưới chế độ cũ:
Thương thay thân phận con tằm
Kiếm ăn được mấy phải nằm nhả tơ

Thương thay lũ kiến li ti
Kiếm ăn được mấy phải đi tìm mồi
Thương thay hạc lánh đường mây
Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi
Thương thay con cuốc giữa trời
Dầu kêu ra máu có người nào nghe
- Hàm ẩn qua hình ảnh các loài vật: Hình ảnh trúc - mai, mận - đào,
thuyền - bến, mây - núi … biểu tượng về đôi bạn tình sóng đôi:
- Đến đây mận mới hỏi đào
Vườn hồng có lối ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào
- Thuyền về có nhớ bến chăng
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền
+ Hàm ẩn qua hình ảnh biểu trưng giá trị cao sang, thơm ngát, giàu
sức sống như hoa sen, trầm quế:
- Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
- Ở sao như quế trên rừng
Thơm không ai biết, ngát đừng ai hay.
+ Ý nghĩa của ẩn dụ
Ý nghĩa nhận thức: Với tất cả các kiểu ẩn dụ khác biệt, với tính nhanh nhạy
đặc biệt trong liên tưởng, với khả năng vô hạn trong việc làm xích lại gần nhau
những sự vật và hiện tượng khác nhau, biện pháp ẩn dụ đưa đến cho ta một nhận
thức mới , một thể thống nhất mới, những mối quan hệ mới của hình tượng nghệ

16



thuật, thực chất là đưa đến lối tư duy mới về sự vật.
Ý nghĩa thẩm mỹ: Ẩn dụ tu từ là một trong những phương diện cơ bản tạo
nên tính thẩm mỹ văn chương nhờ tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Ý
nghĩa lớn nhất của nghệ thuật là khám phá và diễn tả thế giới phức tạp, đa chiều,
thẳm sâu trong mọi ngõ ngách vô hình của tâm hồn con người. Ca dao đã đảm
nhiệm chức năng nghệ thuật ấy một cách xuất sắc. Những trạng thái, những cung
bậc tình cảm: nhớ, mong, giận hờn, trách móc, tiếc thương…được thể hiện vừa
trực tiếp vừa ngầm ẩn. Biện pháp ẩn dụ giúp diễn tả được những điều thầm kín,
thậm chí những điều khó nói nhất, khó diễn đạt nhất bằng những hình tượng
nghệ thuật vừa khái quát vừa giàu chất thơ:
Quả đào tiên ruột mất vỏ còn
Buông lời hỏi bạn, lối mòn ai đi
Quả đào tiên là loại quả quý nhưng cái quý nhất là ruột của nó lại mất đi rồi,
chỉ còn cái vỏ mà thôi. Nói về một cô gái không còn giữ được cái quý nhất là
trinh tiết của mình như vậy thật tế nhị, bong bẩy. Và muốn hỏi một điều thật khó
hỏi, thật tế nhị, ai là người đã lấy mất ruột quả đào tiên, lại nói: Buông lời hỏi
bạn, lối mòn ai đi. Buông lời – dường như chỉ bất chợt buông ra một câu hỏi lơ
lửng thế thôi, câu hỏi không chủ ý, không quan trọng, trả lời được thì trả, không
muốn thì thôi. Vu vơ hỏi về điều quan trọng nhất, bài ca dao có phần trách móc,
có phần cay đắng nhưng đọng lại hơn cả trong long người là sự tinh tế, tài tình
trong cách diễn tả của ẩn dụ tu từ.
Ý nghĩa biểu cảm:
Khảo sát tư liệu ca dao Việt Nam,chúng tôi nhận thấy: trạng thái, cung bậc tình
cảm tiếc nuối, hờn trách được thể hiện qua biện pháp ẩn dụ nhiều nhất. Phải
chăng đó là trạng thái khó nói nhất, khó định hình, khó đong đếm, khó kể lể nhất
Tiếc thay hạt gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần than rơm
Em tưởng giếng nước sâu
Em nối sợi gàu dài

Ai ngờ giếng cạn
Em tiếc hoài sợi dây
+ Nhân hóa
Trong cuốn 99 biện pháp tu từ Tiếng Việt, Đinh Trọng Lạc định nghĩa: “Nhân

17


hóa là một biến thể của ẩn dụ, lấy những từ ngữ biểu đạt thuộc tính, dấu hiệu của
con người, làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng
thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái đọ của mình”.
- Giã ơn cái cối, cái chày
Nửa đêm gà gáy có mày có tao
Giã ơn cái cọc cầu ao
Nửa đêm gà gáy có tao có mày
- Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta…
- Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Buồn trông con nhệ giăng tơ
Nhện ơi nhệ hỡi nhện chờ mối ai
Buồn trông chênh chếch sao Mai
Sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ…
+ Biểu tượng
- Biểu tượng con vật như: con cò, con bống. Theo Vũ Ngọc Phan đối
với người Việt, cò có thể là hình ảnh cả trai lẫn gái, còn con bống chỉ có thể
là hình ảnh người thiếu nữ hay người thiếu phụ:
- Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
- Con cò lăn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
- Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ mày nằm với ai
Con cò là hình ảnh thân quen của người nông dân “Trong các loài
chim kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ có con cò thường gần người nông dân hơn
cả... con cò trắng bạch kia tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên
mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng nó có vẻ trong trắng, thanh cao, có những
lúc vẫy vùng thoải mái, nó có cuộc sống mà người dân lao đông ta hằng
mong ước”.
- Biểu tượng cây như cây trúc, cây mai, trong ca dao, trúc tượng trưng
cho người con gái:

18


Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh
Mai tượng trưng cho người con trai và trong nhiều bài ca dao, trúc với
mai xoắn xuýt với nhau thể hiện tình cảm đối lứa thắm thiết:
Hôm qua sum họp trúc mai
Tình chung một khúc, nghĩa dài trăm năm
- Biểu tượng hoa như hoa nhài, hoa sen ... Hoa nhài được ví như nụ
cười duyên của cô gái:
Em là con út nhất nhà
Lời ăn tiếng nói thật là khoan thai
Miệng cười như cánh hoa nhài
Như nụ hoa quế như tai hoa hồng
Ước gì anh được làm chồng
Để em làm vợ tơ hồng trời xe
Hoa sen tượng trưng cho bản sắc, khí tiết của người lao động. Trong

tất cả các loài hoa, tác giả dân gian đánh giá cao hoa nhài và hoa sen:
- Hoa hồng trông thật mĩ miều
Khoe hương buổi sáng, buổi chiều còn đâu
- Đào kia chưa thắm đã phai
Thoang thoảng hoa nhài càng được thơm lâu
- Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông trắng lá xanh
-

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
Biểu tượng thiên nhiên như: Rồng - mây, núi - mây. Núi mây tượng

trưng cho đôi bạn tình:
Vì mây cho núi lên xa
Mây cao mù mịt núi nhòa xanh xanh
+ Ý nghĩa của việc sử dụng biểu tượng trong ca dao
Việc sử dụng biểu tượng tạo nên phương thức biểu hiện vừa ngắn gọn vừa
đầy đủ, mang ý nghĩa biểu cảm cao, mang đặc trưng rõ nét của nghệ thuật thơ ca,
hình thành nội dung thẩm mỹ dân gian quen thuộc.
Biểu tượng thường làm rõ ý nghĩa thơ ca khi được sử dụng một cách linh

19


hoạt trong các dạng khác nhau.
* Dân ca: Một tên gọi chung của hình thức sáng tác trữ tình dân gian có sự
kết hợp giữa lời thơ và âm nhạc. Là thuật ngữ dùng để chỉ toàn bộ các hình thức
ca hát dân gian (bao gồm cả nhạc, lời, điệu bộ, lề lối sinh hoạt...) như các điệu hò
lao động, hát ru con, hát quan họ, các điệu lý... Dân ca có cả tiếng đệm, tiếng láy,

tiếng đưa hơi (Tính tính tang, táng tính tình/Cô nàng rằng, cô nàng ơi/Rằng: có
nhớ, nhớ anh chăng? Rằng: có nhớ, nhớ anh chăng. Hay Con cò bay lả bay la/
Bay từ ruộng lúa/ Bay qua qua cánh đồng).
Phân loại: Các loại dân ca chủ yếu: Dân ca lao động và Dân ca nghi lễ:
Thuật ngữ dùng để chỉ chung tất cả các hình thức ca hát dân gian gắn với các
sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân
- Hát ru: Là loại dân ca phổ biến và được sử dụng thường xuyên nhất.
Là lối nói ngân nga, cách điệu, kéo dài các âm tiết, nhất là các âm tiết thanh bằng
để tạo ra những chuỗi âm thanh liên tục, hài hoà.
* Đồng dao: là những câu hát dân gian có nội dung và hình thức phù
hợp với trẻ em, được trẻ em hát lên lúc vui chơi, có thể do người lớn sáng tác
nhưng cũng có thể do trẻ em sáng tác. Đồng dao còn được gọi là ca dao và vè
cho trẻ em. Đây là thể loại bài ca dân gian dành cho trẻ em. Gồm các hình
thức hát truyền thống của trẻ em trong nhân dân. Cả lời nhạc, nội dung đều
mang tính chất hồn nhiên, chất phác, phù hợp tâm sinh lý trẻ nhỏ. Đồng giao
tập trung vào đề tài thiên nhiên và phản ánh trong trạng thái hoạt động gắn bó
với đời sống trẻ thơ. Thế giới thiên nhiên trong đồng dao sinh động và hấp
dẫn.
Đặc trưng nổi bật của ca dao là gắn với hoạt động vui chơi của trẻ em, trẻ hát
đồng dao trong sinh hoạt và trong khi chơi các trò chơi dân gian.
* Tục ngữ: là thể văn vần dân gian gồm những câu nói ngắn gọn dễ nhớ,
dễ truyền, có chức năng đúc kết kinh nghiệm, tri thức lâu đời của nhân dân về
thiên nhiên, lao động sản xuất, con người và xã hội.
+ Về đặc trưng thể loại, tục ngữ là một kho kinh nghiệm, kho triết lý dân gian
sâu sắc. TN khác ngụ ngôn ở hình thức câu nói ngắn gọn, vừa là đơn vị ngôn
ngữ đặc biệt vừa là một hiện tượng ý thức xã hội
Về nội dung, tục ngữ là kho kinh nghiệm quý giá về muôn mặt đời sống: thiên
nhiên, lao động sản xuất, xã hội - lịch sử, phong tục tập quán, con người...

20



* Câu đố: là thể loại văn vần dân gian có chức năng chủ yếu là phản
ánh đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng phương pháp giấu tên và nghệ thuật
lạ hóa, được dùng trong sinh hoạt tập thể nhằm thử tài suy đoán, kiểm tra sự
hiểu biết của mọi người, đặc biệt là trẻ em hoặc mua vui, giải trí.
+ Đặc trưng thể loại:
Về mục đích sáng tác: câu đố được sáng tạo nhằm phát triển tư duycho con
người, đặc biệt là trẻ em. Câu đố thực sự là trò chơi trí tuệ, vừa có tác dụng
phát huy trí tưởng tượng vừa rèn luyện tư duy lôgic và khả năng phát hiện cho
trẻ em
Về hình thức thể hiện: câu đố sáng tạo ra một thế giới hình tượng ẩn dụ bằng
việc sử dụng phép lạ hóa. Với mục đích đánh lạc hướng tư duy của người giải
đố, câu đố dẫn người ta đi thật xa đối tượng bằng những ẩn dụ kỳ ảo, mặc dù
vẫn không bỏ qua việc miêu tả đặc điểm của đối tượng. Do vậy câu đố càng
trừu tượng bao nhiêu thì càng hấp dẫn bấy nhiêu.
* Phân tích một số bài ca dao trong chương trình mầm non
- Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn
- Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con

21


Chương 2 : VĂN HỌC TRẺ EM VIỆT NAM

2.1. Khái quát về văn học trẻ em Việt Nam
2.1.1. Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945
Như đã nói ở trên văn học thiếu nhi Việt Nam thực sự hình thành và phát
triển với tư cách là một bộ phận của nền văn học dân tộc phải kể từ sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945. Nhưng quá trình thai nghén và chuẩn bị để bước vào
dòng chung của nền văn học dân tộc đã có từ trước đó.
Trong chế độ phong kiến, hầu như chưa có sáng tác văn học cho trẻ em. Đầu
thế kỉ XX, với sự cách tân đổi mới chung của nền văn học thì văn học trẻ em mới
xuất hiện và bắt đầu được chú ý. Những tác phẩm văn học nước ngoài như thơ
ngụ ngôn La-phông-ten (Jean de La Fontaine), truyện ngắn Pe-rôn (Charles
Perault) đã được dịch sang tiếng Việt… Ở giai đoạn này Tản Đà có Lên 5, lên 3
viết cho lứa tuổi nhi đồng được dùng làm sách giáo khoa. Tác giả Nguyễn Văn
Ngọc có Đông tây ngụ ngôn…
Đến những năm 30, văn học viết cho trẻ em trở nên phong phú hơn với sự
xuất hiện của của nhiều khuynh hướng sáng tác và nhiều tác giả tên tuổi. Trên
văn đàn ghi nhận sự xuất hiện của nhóm Tự lực văn đoàn với những tác phẩm:
Hoa hồng, hoa mai, hoa xuân…Tuy nhiên những tác phẩm này chỉ bó gọn trong
cảnh sinh hoạt của trẻ em thành thị, xa rời cuộc sống khốn khó của nhân dân lao
động.
Sự xuất hiện của các nhà văn thuộc xu hướng hiện thực như Nguyễn Công
Hoan, Tô Hoài, Nam Cao đã đánh dấu một bước tiến mới của văn học viết cho
thiếu nhi giai đoạn này. Nam Cao bộc lộ khuynh hướng hiện thực một cách rõ nét
với Bảy bông lúa lép (1937), Người thợ rèn (1940), Con mèo mắt ngọc (1942)…
Tú Mỡ lại khai thác đề tài dân gian với nhiều truyện thơ thú vị, trong sáng (Tấm
Cám, Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn). Tô Hoài nổi bật với truyện đồng thoại đề
cập những vấn đề lớn trong xã hội, với tiếng nói giáo dục nếp sống lành mạnh,

22



giàu lí tưởng cho thiếu nhi, tiêu biểu như Dế mèn phiêu lưu kí, Đám cưới chuột,
Dê và lợn, Ba anh em…
Nhìn chung văn học thiếu nhi trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 mới
chỉ xuất hiện những tác phẩm lẻ tẻ chứ chưa thực sự có phong trào. Tác phẩm viết
cho các em chưa nhiều. Tuy nhiên, đó chính là nền tảng cho sự phát triển mạnh
mẽ của văn học thiếu nhi Việt Nam những giai đoạn sau.
2.1.2. Sau CMT8 1945
Từ năm 1945 đến năm 1975 đất nước chúng ta lần lượt bước qua hai cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ để bảo vệ đất nước. Trong hoàn
cảnh đất nước có chiến tranh, Văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu nhi
nói riêng đều hướng đến đời sống lao động, sinh hoạt và chiến đấu của đồng bào
và nhân dân cả nước. Trong bối cảnh đó, văn học thiếu nhi đã có những bước
phát triển vượt bậc về tất cả mọi phương diện. Sự phát triển của văn học thiếu nhi
được đánh dấu với sự ra đời của nhiều tờ báo dành cho các em, đầu tiên là tờ
Thiếu sinh (1946), sau đó lần lượt các tờ báo khác ra đời như báo Thiếu niên, báo
Tuổi trẻ, báo Xung phong…
Sự ra đời của Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1948 cũng góp phần
thúc đẩy văn học thiếu nhi phát triển. Văn học thiếu nhi giai đoạn này hướng đến
nhiều đề tài, cụ thể đề tài lịch sử với các tác phẩm Lá cờ thêu sáu chữ vàng của
Nguyễn Huy Tưởng, Bố cái đại vương của An Cương, Chọn soái của Quách
Thọ… đề tài sinh hoạt lao động học tập cũng đựơc nhiều tác giả khai thác với
những tác phẩm: Đàn chim gáy của Tô Hoài, Nơi xa của Văn Linh, Ngày công
đầu tiên của cu Tí của Bùi Hiển...
Ở giai đoạn này truyện đồng thoại cũng rất phát triển với nhiều tác phẩm
gây được tiếng vang lớn trong lòng công chúng độc giả như Cái tết của mèo con
của Nguyễn Đình Thi, Chú đất nung của Nguyễn Kiên, Bê và sáo của Phạm Hổ…
Đề tài kháng chiến chống Pháp, kháng chiến chống Mĩ cũng được khai thác, đáp

23



ứng kịp thời bước đi của lịch sử, cũng như đòi hỏi của công chúng độc giả. Ở
mảng đề tài này phải kể đến tên tuổi của Võ Quảng với Quê nội (1973), Chỗ cây
đa làng (1964)… Nguyễn Thi với Những đứa con trong gia đình, Mẹ vắng nhà.
Lâm Phương với Hồ Văn Mên (1969). Minh Khoa với Chú bé Cả Xên (1963).
Phạm Hổ với Đoàn Văn Luyện… Mảng đề tài nông thôn cũng xuất hiện nhiều tác
phẩm có giá trị như: Cơn bão số bốn của Nguyễn Quỳnh, Xã viên mới của Minh
Giang… Bên cạnh đó truyện viết về “con người mới” là hiện tượng văn học của
giai đoạn này với hồi kí Lớn lên nhờ cách mạng (1956) của Phùng Thế Tài, tự
truyện Những năm tháng không quên (1970) của Nguyễn Ngọc Kí... Tuy nhiên
loại truyện này về sau không được bạn đọc lưu tâm bởi tính nghệ thuật không
cao. Mảng sách khoa học được hình thành và phát triển nhờ vào sự đóng góp của
những người làm công tác khoa học và các nhà văn tâm huyết với mảng đề tài
này như Viết Linh với Ông than đá và Quả trứng vuông, Vũ Kim Dũng với Cô
kiến trinh sát, Thế Dũng với Thảm xanh trên ruộng, Hoàng Bình Trọng với Bí
mật một khu rừng…
Thơ cho trẻ em giai đoạn này tiếp tục phát triển mạnh với những tên tuổi quen
thuộc như Phạm Hổ, Võ Quảng, Thi Ngọc… Bên cạnh đó còn có sự xuất hiện của
các gương mặt mới như Định Hải, Xuân Quỳnh, Ngô Viết Dinh… Những tác phẩm
thơ tiêu biểu của giai đoạn này phải kể đến Măng tre của Võ Quảng, Chú mèo tìm
bạn của Phạm Hổ… Đặc biệt trong giai đoạn này có sự xuất hiện của tên tuổi của
các em bé làm thơ như Trần Đăng Khoa, Cẩm Thơ, Hoàng Hiếu Nhân, Chu Hồng
Quý…
Nếu như giai đoạn trước được coi là giai đoạn đặt nền móng thì giai đoạn
này văn học viết cho thiếu nhi đã thực sự phát triển rực rỡ trên mọi mặt, mọi
phương diện từ đề tài, thể loại, nghệ thuật thể hiện đến giá trị phản ánh hiện thực
và giáo dục đạo đức, nhân cách cho các em. Văn học thiếu nhi giai đoạn này thực
sự đã tìm được cho mình chỗ đứng vững chắc trong lòng độc giả nhỏ tuổi cũng
như trong nền văn học dân tộc.


24


Đại thắng mùa xuân năm 1975 thống nhất đất nước là tiền đề thuận lợi cho
sự phát triển của văn học Việt Nam nói chung và văn học thiếu nhi nói riêng.
Trước những đổi mới to lớn của đất nước, văn học viết cho trẻ em cũng phát triển
mạnh mẽ, tiến kịp bước tiến của lịch sử.
Từ năm 1975 đến năm 1985 được coi là giai đoạn văn học thiếu nhi tìm tòi
trăn trở hướng đến những cái mới. Tuy nhiên phần lớn vẫn là cách tiếp cận cũ. Đề
tài kháng chiến vẫn tiếp tục phát triển và chiếm ưu thế với cảm hứng ngợi ca đất
nước và cách mạng. Khác với sự phát triển của giai đoạn trước, đề tài lịch sử giai
đoạn này chững lại. Trong khoảng thời gian này, nhìn chung văn học thiếu nhi
bước vào giai đoạn tìm tòi hướng đi mới cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước
Năm 1986, Đại hội VI của Đảng đã tạo ra sự chuyển mình trên tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội và văn học cũng không
nằm ngoài sự biến đổi đó. Sự chuyển biến này bắt đầu từ đội ngũ sáng tác cho các
em ngày càng đông đảo hơn. Những tác giả ở giai đoạn trước vẫn miệt mài sáng
tác cho các em. Họ tự đổi mới đề tài, khám phá, thử sức mình trên nhiều lĩnh vực
mới. Bên cạnh đó cũng xuất hiện nhiều cây bút mới như Trần Thiên Hương, Lê
Cảnh Nhạc, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Thị Châu Giang, Hoàng Dạ Thi, Nguyễn
Thị Thu Thủy…Tuy chưa từng trải nhưng sức trẻ của họ đã mang lại những cái
hết sức mới mẽ, hiện đại, táo bạo cho diện mạo của nền văn học.
Không chỉ có sự đổi mới trên khía cạnh đội ngũ sáng mà như đã nói ở trên
văn học viết cho thiếu nhi có sự chuyển mình, đổi mới trên tất cả mọi mặt. Đề tài
cũng được mở rộng, ngoài những đề tài quen thuộc về lịch sử, chiến tranh và cách
mạng thì giai đoạn này các tác phẩm viết về đề tài miền núi ngày càng nhiều như
Chú bé thổi kèn của Quách Liêu, Kỉ vật cuối cùng của Hà Lâm Kỳ, Chân trời mở
rộng của Đoàn Lư... Thể loại tự truyện giai đoạn này cũng phát triển mạnh, tiếp
nối văn mạch truyền thống của dân tộc với những tác phẩm xuất sắc như Cỏ dại
của Tô Hoài, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán,

Dòng sông thơ ấu của Nguyễn Quang Sáng…. Đây là loại truyện gây nhiều hứng

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×