Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.49 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ ……

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG LĨNH VỰC KIỂM DỊCH SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT
DÙNG LÀM THỰC PHẨM NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số : 60380101
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ……………..

1


HÀ NỘI – NĂM 2017
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATTP : An toàn thực phẩm
Bộ NNPTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Cục QLCLNLSTS: Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản
NTD : Người tiêu dùng
QPPL : Quy phạm pháp luật
VSATTP : Vệ sinh an toàn thực phẩm

2



MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu 5
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6
6. Bố cục của luận văn 7
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC KIỂM DỊCH SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT DÙNG
LÀM THỰC PHẨM NHẬP KHẨU 8
1.1. Những vấn đề lý luận của bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm
động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu 8
1.1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 8
1.1.2. Khái niệm, cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động
vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu 12
1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm
động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu 19
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu 19
1.2.2. Quá trình phát triển và nội dung của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu 22
Tiểu kết chương 1: 26
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG
TRONG KIỂM DỊCH SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT DÙNG LÀM THỰC PHẨM NHẬP KHẨU
VÀO VIỆT NAM 27
3



2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản
phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 27
2.1.1. Điều kiện đối với chủ thể sản xuất, nhập khẩu sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập
khẩu 27
2.1.2. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kiểm tra điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm sản phẩm
động vật dùng làm thực phẩm được phép nhập khẩu 31
2.1.3. Thẩm quyền, quy trình, thủ tục cấp phép đối với sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm
nhập khẩu vào Việt Nam 34
2.1.4. Trách nhiệm pháp lý của các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 37
2.1.5. Trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước
chuyên ngành trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu 39
2.2. Đánh giá việc thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật
dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 43
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 43
2.2.2. Những hạn chế trong thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm
động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 46
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng
trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 49
Tiểu kết chương 2: 60
Chương 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KIỂM DỊCH
SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT DÙNG LÀM THỰC PHẨM NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM 61
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản
phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 62
3.2.1. Xây dựng các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thú y.

3.2.2. Rà soát, loại bỏ những quy định chưa hợp lý, không khả thi, xây dựng hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật thú y hoàn thiện 62
3.2.3. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật 63
3.2.4. Quy định thống nhất các hành vi vi phạm về an toàn thực phẩm, bổ sung thẩm quyền xử phạt
của Bộ đội biên phòng, cảnh sát biển; đồng thời nâng mức xử phạt trong lĩnh vực thú y 64
4


3.2.5. Hoàn thiện Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 65
3.2.6. Hoàn thiện các luật khác có liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 67
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam 67
3.3.1. Thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về hoạt động kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm
thực phẩm nhập khẩu 67
3.3.2. Thực hiện cải cách hành chính, phân cấp công tác kiểm dịch 68
3.3.3. Nâng cao năng lực của các cơ quan thực hiện kiểm dịch và vai trò của các cơ quan có liên
quan để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 70
3.3.4. Tăng cường kiểm soát hàng nhập lậu, hàng tiểu ngạch 71
3.3.5. Công bố công khai danh sách tổ chức, cá nhân nhập khẩu vi phạm các quy định về thú y, an
toàn thực phẩm 72
3.3.6. Tăng cường tuyên truyền phổ biến pháp luật, phổ biến kiến thức về an toàn thực phẩm 72
KẾT LUẬN 74
SƠ ĐỒ MÔ TẢ QUY TRÌNH KIỂM DỊCH SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT DÙNG LÀM THỰC
PHẨM NHẬP KHẨU VÀO VIỆT NAM................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, số lượng các vụ ngộ độc thực phẩm ở Việt Nam không
ngừng gia tăng. Theo số liệu thống kê của Cục An toàn thực phẩm, Bộ Y tế, năm 2013, cả
nước ghi nhận có 167 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 5.558 người bị ngộ độc, 5.020 người phải
nhập viện và số nạn nhân tử vong là 28 người; năm 2014, có 194 vụ ngộ độc thực phẩm,
làm 5.203 người bị ngộ độc, 4100 người phải nhập viện và số nạn nhân tử vong là 43
người. Năm 2015, cả nước ghi nhận 171 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 4.965 người bị ngộ
độc và số nạn nhân tử vong là 23 người1. Số lượng người bị ung thư và mắc các bệnh hiểm
nghèo ở Việt Nam hiện nay cũng đang ở mức đáng báo động.
Có rất nhiều nguyên nhân làm gia tăng các vụ ngộ độc thực phẩm, gia tăng tỷ lệ
mắc các bệnh ung thư, trong đó có một phần nguyên nhân xuất phát từ con đường ăn uống.
Việc sử dụng rau, quả có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật vượt quá mức giới hạn
cho phép; sử dụng thực phẩm là động vật, sản phẩm động vật không rõ nguồn gốc, hết hạn
sử dụng, bị nhiễm vi sinh vật, tồn dư kháng sinh và các chất độc hại… là một trong những
nguyên nhân cơ bản gây ngộ độc cho con người. Hậu quả là hàng năm, đã có hàng nghìn
người phải nhập viện, sức khỏe, tính mạng, tiền bạc bị ảnh hưởng; doanh nghiệp cũng chịu
thiệt hại do công nhân phải nghỉ làm, nhà nước thêm gánh nặng chi phí hỗ trợ khắc phục
hậu quả. Thực trạng về an toàn thực phẩm hiện nay đang tạo nên nhiều bức xúc cho cả
những người dân và các cơ quan có thẩm quyền. Như phát biểu của đại biểu Quốc hội Trần
Ngọc Vinh thì: “con đường từ dạ dày đến nghĩa địa của mỗi người chúng ta chưa bao giờ
ngắn và dễ dàng thế”2.
Có thể nói, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong sử dụng thực phẩm cần
phải được xem xét một cách toàn diện và thấu đáo hơn.
Hiện nay, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng tương đối đầy đủ. Ngoài Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, các quy phạm
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nằm rải rác ở rất nhiều các văn bản pháp
luật khác, đặc biệt là các văn bản pháp luật chuyên ngành. Trong thực tế áp dụng pháp luật,
đã xuất hiện không ít sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật chuyên ngành khác nhau, cũng như còn tồn tại một số khoảng trống pháp
luật trong vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đặc biệt, đối với hàng hóa là sản phẩm

động vật nhập khẩu dùng làm thực phẩm, khi mà người tiêu dùng bằng trực quan không thể
nhận biết trong thực phẩm còn có những chất độc tố gây ảnh hưởng đến sức khỏe hay
không? Người tiêu dùng cũng gần như không có khả năng kiểm tra, giám sát chất lượng
của sản phẩm nếu không có sự hỗ trợ tích cực từ phía các cơ quan quản lý nhà nước với
đầy đủ các phương tiện, máy móc, trang thiết bị… để thực hiện công tác bảo vệ người tiêu
dùng.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn đề tài “Pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực
phẩm nhập khẩu vào Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ.
1


2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ luật học, cho đến hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
đã được nghiên cứu ở nhiều phạm vi khác nhau. Có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu ở phạm vi rộng như: Lê Thanh Bình (2012), Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi của
người tiêu dùng ở Việt Nam, Luận án
Tiến sỹ luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; Nguyễn
Trọng Điệp (2014), Giải quyết tranh chấp giữa người tiêu dùng với thương nhân ở Việt
Nam hiện nay”, Luận án Tiến sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Thị
Thư (2013), Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay,
Luận án Tiến sỹ Luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; …
Bên cạnh đó, cũng có những công trình nghiên cứu với phạm vi hẹp hơn như: Võ
Thị Hạnh (2015), Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động quảng cáo thương mại
theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Lò
Thùy Linh (2010), Pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hợp đồng
gia nhập, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Hoàng Mỹ
Linh (2014), Thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của hệ thống các cơ quan
nhà nước tại Việt Nam, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn
Thị Tâm (2013), Vai trò của Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Vĩnh

Phúc trong việc bảo vệ người tiêu dùng, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội… Ngoài ra, còn có các nghiên cứu nhỏ thể hiện dưới dạng các bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành như: ThS. Ngô Vĩnh Bạch Dương, Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong pháp luật cạnh tranh, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật; TS. Đặng Vũ Huân, Pháp luật
và vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11/2000…
Với các công trình nghiên cứu nói trên, có thể nhận thấy, vấn đề bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng đã được các nhà nghiên cứu khoa học, luật học… phân tích, bình luận ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Đó cũng là điều tất yếu bởi suy cho cùng tất cả các nền kinh tế
đều hướng đến phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng. Ngay kể cả đối với hoạt động kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam cũng là nhằm mục
đích bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong lĩnh vực này cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu, trong khi dưới
góc độ thực tiễn đây là một vấn đề cấp thiết bởi liên quan trực tiếp đến vấn đề an toàn thực
phẩm, đến tính mạng, sức khỏe con người và dưới góc độ pháp lý, việc nghiên cứu vấn đề
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong một lĩnh vực chuyên ngành sẽ đưa tới cái nhìn đa
chiều, góp phần hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nhằm nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập
khẩu vào Việt Nam dưới góc độ pháp lý, góp phần hoàn thiện các quy định pháp luật về
bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả nội dung
bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm
nhập khẩu vào Việt Nam.
Trong phạm vi một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu một số nội dung
sau:
2


Thứ nhất, nghiên cứu những cơ sở lý luận cũng như các vấn đề pháp lý của kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam, yêu cầu bảo vệ

quyền lợi của người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm
nhập khẩu.
Thứ hai, khái quát, phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật, thực
trạng thực thi pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng
làm thực phẩm nhập khẩu hiện nay.
Thứ ba, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng
làm thực phẩm nhập khẩu.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là hệ thống các quy định pháp luật cũng
như thực tiễn thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản
phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam
đặt trong mối tương quan với pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm dịch sản phẩm động vật
dùng làm thực phẩm nhập khẩu.
4. Phương pháp nghiên cứu, câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu các vấn đề thuộc đề tài luận văn, tác giả sử dụng phương
pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, những quan
điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tác giả luận văn cũng sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
cụ thể, bao gồm: phương pháp diễn giải và quy nạp để làm rõ các khái niệm mang tính
chuyên ngành; phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp phân tích quy phạm và
phương pháp so sánh pháp luật để chỉ ra những mặt hạn chế, bất cập và đánh giá hiệu quả
của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và trong lĩnh vực kiểm dịch sản
phẩm động vật nhập khẩu nói riêng, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng
cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản
phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu.
Câu hỏi nghiên cứu đặt ra trong luận văn là hệ thống các quy định pháp luật cũng
như thực tiễn thi hành pháp luật trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm
nhập khẩu vào Việt Nam giữ vai trò như thế nào trong hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng? làm thế nào để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam?
Luận văn đã đi sâu phân tích, làm rõ và giải quyết các câu hỏi nghiên cứu đặt ra.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về pháp
luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực
phẩm nhập khẩu hiện nay, đưa ra và phân tích những vấn đề có tính lý luận về kiểm dịch
sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu làm cơ sở cho các luận cứ khoa học của
việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực
3


phẩm nhập khẩu bằng pháp luật hiện hành. Việc nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện hơn
pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động
vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu, nhất là khi Việt Nam gia nhập
Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) và Hiệp định kinh tế đối tác chiến lược xuyên
Thái Bình Dương (TPP)3.
Về mặt giá trị thực tiễn, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật Việt
Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm
thực phẩm nhập khẩu, tìm ra nguyên nhân cũng như đưa ra các giải pháp để khắc phục
nhằm nâng cao tính khả thi, tính hiệu quả của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; tạo hành lang pháp lý thuận lợi để góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
người tiêu dùng; nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ quyền lợn gười
tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu hiện nay.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực
phẩm nhập khẩu.

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI
TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC KIỂM DỊCH SẢN PHẨM ĐỘNG VẬT DÙNG
LÀM THỰC PHẨM NHẬP KHẨU
1.1. Những vấn đề lý luận của bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu
1.1.1. Khái quát về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trước hết cần phải hiểu thế nào là người tiêu
dùng? Khái niệm người tiêu dùng (NTD) trong pháp luật của mỗi quốc gia khác nhau có
thể được diễn đạt theo những cách khác nhau.
Ở Malaysia, người tiêu dùng được giải thích “là người mua hoặc sử dụng hàng hóa
hoặc dịch vụ cho mục đích sinh hoạt cá nhân hoặc sinh hoạt gia đình… và không gồm việc
mua hoặc sử dụng hàng hóa vì mục đích chính để bán lại hoặc đưa vào quá trình sản xuất
hàng hóa, dịch vụ khác hoặc để dùng cho việc sửa chữa, gắn thêm vào hàng hóa khác”
(Điều 3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 1999).
Trong khi ở Thái Lan, người tiêu dùng được hiểu “là người mua hàng hóa hoặc
dịch vụ hoặc được chào mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ một người kinh doanh, bao gồm
người thực sự sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ có nguồn gốc từ người kinh doanh mặc
dù người này không trực tiếp trả tiền cho việc sử dụng hàng hóa, tiêu thụ dịch vụ đó” (Điều
3 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979).
Đạo Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Ấn Độ ngày 24/12/1986 quy định
người tiêu dùng: “là bất kỳ người nào mua bất kỳ loại hàng hóa nào hoặc thuê hay sử dụng

bất kỳ dịch vụ nào bao gồm cả những người sử dụng hàng hóa hoặc được hưởng lợi từ dịch
vụ khác với người mua hàng hóa hoặc thuê sử dụng dịch vụ đó, không bao gồm người mà
có được hàng hóa hoặc sử dụng dịch vụ như vậy để bán lại hoặc để cho bất kỳ mục đích
thương mại nào”.
Điểm qua một vài khái niệm người tiêu dùng của các nước cho thấy mặc dù pháp
luật bảo vệ người tiêu dùng các nước có quan điểm không giống nhau về NTD, tuy nhiên
có một điểm chung là các quốc gia đều giới hạn NTD là các cá nhân mua sắm hàng hóa,
dịch vụ không nhằm mục đích hoạt động kinh doanh, thương mại hoặc hoạt động nghề
nghiệp chuyên nghiệp và cơ sở xác lập quan hệ tiêu dùng thông qua quan hệ mua bán hoặc
sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng 2010 thì người tiêu dùng “là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia đình, tổ chức”.
Với khái niệm này, có thể hiểu cơ sở để xác lập tư cách NTD trong pháp luật Việt
Nam bao gồm:
5


(i) Chủ thể, có thể là cá nhân, gia đình, tổ chức;
(ii) Sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân, gia
đình, tổ chức;
(iii) Quan hệ tiêu dùng được xác lập thông qua hợp đồng mua bán, cung ứng dịch
vụ hoặc phát sinh trên cơ sở sử dụng hàng hóa, dịch vụ.
Khái niệm trên cho thấy, NTD trong pháp luật Việt Nam là những “người tiêu dùng
cuối cùng”, “người sử dụng hàng hóa, dịch vụ cuối cùng” và không nhằm mục đích kinh
doanh, thương mại hay nghề nghiệp. Như vậy, ngoại trừ chủ thể có thể trở thành NTD bao
gồm cả tổ chức, còn lại, NTD theo pháp luật Việt Nam được định nghĩa khá tương đồng so
với các nước khác.
1.1.1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Có thể nói, trong mọi nền sản xuất của tất cả các quốc gia, người tiêu dùng luôn là

đối tượng được hướng tới của doanh nghiệp. Người tiêu dùng giữ vai trò quyết định nhóm
ngành, loại hàng được sản xuất, định hướng đầu tư và phát triển cho các doanh nghiệp
trong thị trường, là nhân tố ảnh hưởng lớn đến sự thành, bại của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
xuất phát từ một thực tế là các doanh nghiệp kinh doanh luôn đặt mục tiêu lợi nhuận lên
hàng đầu, vì lợi nhuận, họ sẵn sàng vi phạm đạo đức kinh doanh, lợi dụng các khe hở của
pháp luật cũng như cơ chế giám sát thiếu chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền để thực hiện
hành vi kinh doanh các loại hàng giả, hàng kém chất lượng,... trong khi người tiêu dùng
bằng cảm quan và mắt thường không thể và không có khả năng kiểm tra, nhận biết về chất
lượng sản phẩm, vì vậy, trong quan hệ mua bán hàng hóa, NTD luôn luôn nằm ở vị trí yếu
thế. Lựa chọn của người tiêu dùng không phải lúc nào cũng được dựa trên cơ sở có đầy đủ
thông tin.
Nếu chỉ bằng cảm quan và mắt thường, người tiêu dùng sẽ rất khó biết thực phẩm
mà mình tiêu thụ có thực sự an toàn hay không, có thực sự không bị nhiễm những hóa chất
hoặc tác nhân độc hại hay không? Bằng chứng là vụ vi phạm gần đây nhất của Công ty
TNHH URC Việt Nam với 02 sản phẩm C2 và rồng đỏ bị phát hiện nhiễm độc chì vượt quá
mức giới hạn cho phép. Trong đó, sản phẩm trà xanh hương chanh C2 (ngày sản xuất
11/1/2016, hạn sử dụng 11/1/2017) có hàm lượng chì theo công bố là nhỏ hơn hoặc bằng
0,05mg/L, tuy nhiên, kết quả kiểm nghiệm tại phiếu kiểm nghiệm số 1600/PKN-VKNQG
ngày 16/2/2016 do Viện kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm Quốc gia thực hiện là
0,46mg/L (cao hơn 9 lần so với mức công bố). Sản phẩm nước tăng lực hương dâu hiệu
rồng đỏ (ngày sản xuất 14/1/2016, hạn sử dụng 14/10/2016) có hàm lượng chì theo công bố
là nhỏ hơn hoặc bằng 0,05mg/L, song kết quả kiểm nghiệm tại phiếu kiểm nghiệm số
1599/PKN-VKNQG ngày 16/2/2016 do Viện kiểm nghiệm An toàn vệ sinh thực phẩm
Quốc gia thực hiện là 0,21mg/L (cao hơn 4 lần so với mức đã công bố)4.
Theo định nghĩa tại khoản 16 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Kinh doanh là
việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị rường nhằm mục đích sinh lợi”.
Như vậy, có thể hiểu, một sản phẩm trước khi đến tay NTD đã phải trải qua rất nhiều công
đoạn khác nhau, trong khi NTD khó có thể tiếp cận được với toàn bộ quá trình sản xuất.
Nếu không có quy định pháp luật về kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, khó

6


có thể đảm bảo rằng các tổ chức, cá nhân làm ăn thiếu nghiêm túc sẽ không lơ là trong việc
đảm bảo chất lượng của sản phẩm, lúc đó, người tiêu dùng sẽ là bên chịu thiệt thòi. Điều đó
hoàn toàn không có lợi cho sự phát triển kinh tế nói chung bởi nền kinh tế hàng hóa là để
phục vụ người tiêu dùng, một khi người tiêu dùng quay lưng với sản phẩm do doanh
nghiệp làm ra thì cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ lâm vào tình trạng phá sản, nền
kinh tế sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải có các quy định
pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD. Theo đó, NTD phải có các quyền cơ bản nhất được pháp
luật bảo vệ; tổ chức, cá nhân phải có những nghĩa vụ cụ thể để đảm bảo sự an toàn của thực
phẩm mà họ cung cấp; pháp luật phải đư ra những quy định chi tiết về giới hạn các chỉ tiêu
an toàn đối với sức khỏe con người…
Tóm lại, cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bằng pháp luật bởi trước hết là
bảo vệ một chủ thể nằm ở vị trí yếu thế, sau nữa chính là bảo vệ sự phát triển của nền kinh tế.
1.1.2. Khái niệm, cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch
sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu
1.1.2.1. Khái niệm sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm
Sản phẩm động vật là những sản phẩm thuộc về động vật, có nguồn gốc từ động vật. Vì
vậy, để hiểu thế nào là sản phẩm động vật, trước hết cần hiểu thế nào là động vật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh Thú y 2004, động vật “là các loài thú, cầm, bò
sát, ong, tằm và các loài côn trùng khác; động vật lưỡng cư; cá, giáp xác, nhuyễn thể, động vật có
vú sống dưới nước và các loài động vật thủy sinh khác”. Với cách định nghĩa theo kiểu liệt kê này,
khái niệm động vật được hiểu bao gồm các loại động vật trên cạn và động vật dưới nước.
Tại khoản 2 Điều 3 Pháp lệnh Thú y 2004, khái niệm sản phẩm động vật cũng được định
nghĩa theo cách liệt kê, là: “thịt, trứng, sữa, mật ong, sáp ong, sữa ong chúa, tinh dịch, phôi động
vật, huyết, nội tạng, da, lông, xương, sừng, ngà, móng, các sản phẩm khác có nguồn gốc từ động
vật”. Như vậy, trong khái niệm này chưa có sự phân biệt rõ các loại sản phẩm động vật trên cạn và
động vật thủy sản, hơn nữa, đối với một số loại động vật thủy sản đã qua sơ chế hoặc chế biến ở
dạng nguyên con, sẽ rất khó xác định là động vật hay sản phẩm động vật bởi không được liệt kê

trong khái niệm sản phẩm động vật.
Sản phẩm động vật thì vô cùng đa dạng và phong phú, nhưng hiện nay, theo quy định tại
Quyết định số 45/2005/QĐ-BNN ngày 25/07/2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(NNPTNT) ban hành danh mục đối tượng kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật; danh mục động
vật, sản phẩm động vật thuộc diện phải kiểm dịch và Thông tư số 32/2012/TT-BNNPTNT ngày
20/7/2012 của Bộ NNPTNT ban hành danh mục đối tượng kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản;
danh mục thủy sản, sản phẩm thủy sản thuộc diện phải kiểm dịch, Việt Nam mới chỉ có 17 loại sản
phẩm động vật trên cạn và 14 loại sản phẩm thủy sản thuộc danh mục sản phẩm động vật thuộc
diện phải kiểm dịch.
Theo quy định của Thông tư số 25/2010/TT-BNNPTNT, các sản phẩm động vật khi nhập
khẩu vào Việt Nam đều phải thực hiện kiểm dịch trừ một số trường hợp hàng hóa mang theo người
để tiêu dùng cá nhân, thực phẩm là quà biếu, túi ngoại giao, túi lãnh sự theo quy định của pháp
luật; hàng hóa quá cảnh; hàng hóa gửi kho ngoại quan. Tuy nhiên, không phải tất cả các sản phẩm
7


động vật nhập khẩu đều được dùng làm thực phẩm, kể cả đó là các sản phẩm thuộc đối tượng phải
kiểm dịch.
Khái niệm sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm tùy thuộc vào quan
điểm, cách định nghĩa cũng như thói quen sử dụng của mỗi vùng miền, mỗi
đất nước khác nhau. Chẳng hạn, những sản phẩm từ nội tạng động vật
như mề, tràng, dạ dày, ruột già, ruột non, tinh hoàn, tim, gan, thận, óc… của
các loại gia súc, gia cầm được người dân các nước phương Đông trong đó có
Việt Nam chế biến thành những món ăn khoái khẩu vì cho rằng chúng chứa
nhiều chất đạm, chất béo và được coi là thực phẩm bổ dưỡng, đặc biệt tốt cho
bà mẹ mang thai và trẻ em đang trong giai đoạn phát triển. Không chỉ vậy,
trong y học cổ truyền Trung Hoa, nội tạng động vật cũng được xem là vị
thuốc có giá trị. Trong khi đó, đa số người dân các nước phương Tây quan
niệm chỉ có thân thịt gia súc, gia cầm mới có giá trị dinh dưỡng đối với con
người, các loại khác chỉ là phụ phẩm, vì vậy, chúng chỉ được sử dụng để làm

thức ăn cho gia súc hoặc làm phân bón trong nông nghiệp5.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư số 30/2009/TT-BNN ngày
04/6/2009 của Bộ NNPTNT ban hành quy định kiểm tra, giám sát vệ sinh thú
y đối với sản xuất, kinh doanh sản phẩm động vật, giết mổ động vật sử dụng
làm thực phẩm, khái niệm sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm được hiểu
“là thịt gia súc, thịt gia cầm, trứng gia cầm, sữa, sản phẩm của sữa ở dạng tươi
sống và sơ chế sử dụng làm thực phẩm”. Trong khi đó, khái niệm sản phẩm
động vật thủy sản dùng làm thực phẩm không có định nghĩa riêng mà hiện
đang được hiểu chung với khái niệm thực phẩm thủy sản. Theo đó, khoản 16
Điều 3 Thông tư số 55/2011/TT-BNNPTNT ngày 03/8/2011 của Bộ
NNPTNT quy định kiểm tra, chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm thủy
sản quy định: “thực phẩm thủy sản là tất cả các loài động, thực vật sống trong
8


nước và lưỡng cư, kể cả trứng và những bộ phận của chúng được sử dụng làm
thực phẩm hoặc thực phẩm phối chế mà thành phần của nó có chứa thuỷ sản”.
Như vậy, có thể thấy, trong Pháp lệnh Thú y 2004 hiện nay chưa có
khái niệm cụ thể về sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm (bao gồm sản
phẩm động vật trên cạn và sản phẩm động vật thủy sản); khái niệm này đang
được ghi nhận ở văn bản dưới luật và về cơ bản đang được phân chia theo đối
tượng quản lý nhà nước. Điều đó có nghĩa, tổ chức, cá nhân phải khai báo
chính xác mục đích sử dụng khi nhập khẩu các sản phẩm động vật, trên cơ sở
đó, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành các quy trình kiểm
tra cụ thể (có thể là kiểm tra chất lượng nếu sản phẩm động vật nhập khẩu với
mục đích chế biến thức ăn chăn nuôi; hoặc thực hiện kiểm dịch, chứng nhận
an toàn thực phẩm nếu sản phẩm động vật nhập khẩu với mục đích sử dụng
làm thực phẩm…).
Từ những nội dung phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm sản phẩm
động vật dùng làm thực phẩm như sau: “sản phẩm động vật dùng làm thực

phẩm là thịt gia súc, thịt gia cầm, trứng gia cầm, sữa, sản phẩm của sữa ở
21
dạng tươi sống và sơ chế, động vật thủy sản đã qua sơ chế hoặc chế biến ở
dạng nguyên con và những bộ phận của chúng được sử dụng làm thực phẩm”.
1.1.2.2. Khái niệm kiểm dịch và kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm
thực phẩm nhập khẩu
Động vật, đặc biệt sản phẩm động vật là nguồn thực phẩm quan trọng
của con người. Trong quá trình nuôi, động vật có thể mắc các bệnh truyền lây
sang con người như bệnh nhiệt thán, bệnh tụ huyết trùng trâu bò, bệnh dịch tả
lợn…. Hoạt động kiểm dịch nhằm kiểm tra, phát hiện các loại dịch bệnh trên
9


động vật, ngăn ngừa sự lây truyền dịch bệnh từ động vật này sang động vật
khác cũng như truyền lây sang con người.
Trong quá trình nuôi, động vật có thể được cho sử dụng các loại kháng
sinh, chất cấm để phòng bệnh, chữa bệnh. Vì vậy, không loại trừ khả năng sau
giết mổ, sơ chế, chế biến, vẫn còn tồn dư kháng sinh, chất cấm, chất độc hại
trong sản phẩm động vật. Con người khi sử dụng sản phẩm động vật có khả
năng sẽ hấp thụ luôn các chất tồn dư vào cơ thể. Ngoài ra, trong quá trình giết
mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, sản phẩm động vật cũng có thể bị nhiễm các
loại vi khuẩn, vi sinh vật có hại như vi khuẩn Salmonella gây bệnh nhiễm
khuẩn đường ruột, vi khuẩn E. Coli gây bệnh tiêu chảy cấp, Norovirus gây ra
dịch viêm đường ruột do virút … Kiểm dịch nhằm kiểm tra các vi khuẩn, vi sinh
vật gây ô nhiễm, các chất độc hại có thể gây hại cho con người. Chính vì vậy,
hoạt động kiểm dịch bên cạnh mục tiêu kiểm soát dịch bệnh động vật còn
đảm bảo cho con người được sử dụng thực phẩm an toàn.
Kiểm dịch sử dụng các biện pháp chẩn đoán, xét nghiệm trong phòng
thử nghiệm bằng các loại thiết bị, máy móc chuyên dụng, trên cơ sở các tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành nhằm phát hiện dịch bệnh trên động

vật, các chất tồn dư độc hại, các loại kháng sinh, chất cấm có trong sản phẩm
động vật. Hiện nay, mới chỉ có 121 loại bệnh động vật, 05 nhóm vi sinh vật
22
gây hại và 08 nhóm chất độc hại thuộc danh mục đối tượng kiểm dịch theo
quy định tại Quyết định số 45/2005/QĐ-BNN ngày 25/7/2005 của Bộ
NNPTNT ban hành danh mục đối tượng kiểm dịch động vật, sản phẩm động
vật; danh mục động vật, sản phẩm động vật thuộc diện phải kiểm dịch.
Như vậy, khái niệm kiểm dịch có thể hiểu “là việc thực hiện các biện
10


pháp kiểm tra, chẩn đoán, xét nghiệm để phát hiện dịch bệnh động vật, các
chất tồn dư, vi sinh vật gây hại, các chất độc hại... có trong sản phẩm động
vật”.
Kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu cũng là
một hình thức kiểm dịch. Hàng hóa thuộc đối tượng kiểm dịch là hàng hoá có
khả năng gây mất an toàn (sản phẩm, hàng hoá nhóm 2): “là sản phẩm, hàng
hoá trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng
mục đích, vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản,
môi trường” (khoản 4 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa). Đối
tượng của kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu là
các loại kháng sinh, vi sinh vật gây hại, chất tồn dư trong sản phẩm động vật.
Nếu như kiểm dịch động vật là để phát hiện các loại dịch bệnh động vật
nhằm ngăn ngừa sự lây lan dịch bệnh động vật, ngăn chặn sự lây truyền dịch
bệnh từ động vật sang con người thì kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm
thực phẩm kiểm tra các chất kháng sinh tồn dư trong sản phẩm do quá trình
chăn nuôi sử dụng để phòng, chữa bệnh cho động vật mà khi giết mổ các chất
kháng sinh này vẫn chưa được động vật đào thải hết. Về lâu dài, việc sử dụng
thường xuyên sản phẩm động vật tồn dư chất kháng sinh sẽ dẫn tới tình trạng
kháng kháng sinh ở con người.

Sản phẩm động vật, đặc biệt là thân thịt, là môi trường giàu thức ăn cho
nhiều loại vi sinh vật phát triển vì trong sản phẩm động vật chứa nhiều nước,
giàu chất dinh dưỡng nhất là protein, muối khoáng, chất kích thích tăng
23
trưởng… Da của các loại động vật luôn chứa một số lượng rất lớn vi khuẩn,
nấm men, nấm mốc. Trong quá trình giết mổ, lột da, các vi khuẩn gây hại có
11


thể xâm nhập vào bề mặt của lát cắt và lan tràn vào thân thịt. Chưa kể trong
quá trình bảo quản, khả năng nhiễm vi khuẩn của các sản phẩm động vật là rất
cao6. Việc kiểm dịch nhằm phát hiện các đối tượng vi khuẩn, vi sinh vật gây
hại, đảm bảo loại trừ các sản phẩm có thể gây mất an toàn cho sức khỏe con
người.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm
thực phẩm nhập khẩu “là việc kiểm tra, áp dụng các biện pháp kỹ thuật để
phát hiện vi khuẩn, vi sinh vật, kháng sinh, chất tồn dư trong sản phẩm động
vật dùng làm thực phẩm có khả năng gây hại cho sức khỏe con người, nhằm
kiểm soát, ngăn chặn các sản phẩm không đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm
nhập khẩu và Việt Nam”.
1.1.2.3. Vai trò và trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu
Hoạt động kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập
khẩu vào Việt Nam là một hình thức kiểm tra, phát hiện sớm các sản phẩm
không đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm (ATTP) trước khi được phân phối
đến tay người tiêu dùng.
Pháp luật bảo vệ quyền lợi NTD hiện nay chủ yếu quy định việc bảo vệ
quyền lợi NTD thông qua trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền trong
việc xử phạt hàng giả, hàng nhái, hàng không đảm bảo chất lượng hoặc buộc
doanh nghiệp thu hồi sản phẩm nếu phát hiện hàng hóa có khuyết tật. Điều đó

có nghĩa trách nhiệm của các cơ quan chỉ phát sinh sau khi hàng hóa đã được
lưu thông trên thị trường. Riêng đối với hàng hóa là sản phẩm động vật dùng
làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam, trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người
6 sinh-vat- trong-thit- va-cac- san-pham- tu-thit- 2074/
12


24
tiêu dùng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát sinh từ rất sớm, ngay từ
khi doanh nghiệp có đề nghị nhập khẩu sản phẩm, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã tiến hành kiểm tra điều kiện vệ sinh thú y tại cơ sở sản xuất, nếu đáp
ứng các tiêu chuẩn theo quy định cơ sở mới được phép xuất khẩu vào Việt
Nam. Khi nhập khẩu, sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm sẽ được cơ
quan có thẩm quyền kiểm dịch, cấp giấy chứng nhận an toàn thực phẩm cho
sản phẩm đạt yêu cầu ngay tại cửa khẩu hoặc tại điểm tập kết trước khi sản
phẩm được đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Như vậy, có thể xem kiểm dịch sản
phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu là một hình thức tiền kiểm
trong công tác bảo vệ người tiêu dùng. Chính vì vậy, nếu thực thi công tác
kiểm dịch tốt thì việc bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực này là vô cùng
hiệu quả.
Trách nhiệm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch
sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu trước hết là trách nhiệm
của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành.
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trách nhiệm của toàn xã hội. Luật
Bảo vệ quyền lợi NTD quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm trước
Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Các Bộ chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng. Khoản 3 Điều 63 Luật An toàn thực phẩm quy định trách nhiệm của Bộ

NNPTNT: “Quản lý an toàn thực phẩm trong suốt quá trình sản xuất, thu
gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu, nhập khẩu,
13


kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ thịt, thủy sản và sản phẩm
thủy sản…”.
25
Về phía Bộ NNPTNT, với tính chất quản lý đa ngành, để thực hiện tốt
trách nhiệm được phân công, Bộ giao cho 05 đơn vị trực thuộc thực hiện công
tác quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP), trong đó, trách
nhiệm kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm động vật dùng
làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam giao cho hai đơn vị thuộc Bộ là Cục
Thú y và Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản (QLCLNLSTS)
thực hiện.
1.2. Khái quát về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm, đặc trưng của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong lĩnh vực kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm
nhập khẩu
Xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới đã kéo theo nền
kinh tế Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập. Để mở đường cho tự do hóa
thương mại, nước ta tiến hành tham gia các hiệp định thương mại đa phương,
song phương với các nước trong khu vực và trên thế giới, mở đường cho các
loại hàng hóa từ nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại, trong đó có không ít
sản phẩm dùng làm thực phẩm có nguồn gốc từ động vật.
Xét về mặt tích cực, việc nhập khẩu các sản phẩm động vật dùng làm
thực phẩm góp phần đa dạng hóa các loại sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu
dùng trong nước, đáp ứng nhu cầu của một bộ phận người dân có tiền muốn
được sử dụng các loại thực phẩm chất lượng cao, đảm bảo an toàn. Bên cạnh

14


đó, việc nhập khẩu các sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm góp phần thúc
đẩy doanh nghiệp trong nước chú trọng hơn trong việc nghiên cứu, nâng cao
chất lượng sản phẩm để cạnh tranh với các sản phẩm ngoại nhập ngay chính
trên sân nhà.
26
Mặt trái của việc cho phép nhập khẩu ồ ạt các loại sản phẩm động vật
dùng làm thực phẩm là nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ trong nước đã bị ảnh
hưởng không nhỏ bởi một số loại sản phẩm có giá bán rẻ hơn nhiều so với sản
phẩm cùng chủng loại được sản xuất trong nước. Ngoài ra, người tiêu dùng
cũng phải đứng trước nhiều lựa chọn mà không biết hoặc không có khả năng
để nhận biết được sự lựa chọn của mình có đúng hay không? số tiền phải trả
có tương xứng với chất lượng sản phẩm mua về hay không?
Thời gian vừa qua, thị trường thực phẩm trong nước chứng kiến sự hiện
diện của thịt đùi gà, cánh gà Mỹ nhập khẩu có giá bán chỉ bằng một nửa giá
sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước7, hay sự xuất hiện các thông tin về
việc một số chợ đầu mối nhập tim lợn đông lạnh giá 30 nghìn, sau đó dùng
tiết tươi phủ lên và bán với giá 220 nghìn đồng8; Vụ Chi cục Thú y TP. Hồ
Chí Minh và Phòng Cảnh sát môi trường thành phố (PC49) bất ngờ kiểm tra
và phát hiện một số cửa hàng kinh doanh thịt bò có hành vi rã đông thịt trâu
đông lạnh có nguồn gốc từ Ấn Độ, sau đó ngâm tẩm hóa chất để bán ra thị
trường với danh nghĩa thịt bò tươi9; Vụ 10 tấn thịt bò nhập khẩu từ Úc về
Việt Nam sau hai lần kiểm tra mẫu vẫn phát hiện nhiễm vi sinh vật gây hại, có
chất kháng sinh nhưng vẫn được cơ quan có thẩm quyền cho phép thông quan
và chuyển đổi mục đích sử dụng làm thức ăn cho cá sấu. Báo chí và người
tiêu dùng đặt ra câu hỏi nghi ngờ khi với số lượng cá sấu nuôi hạn chế thì việc
15



tiêu thụ 5,7 tấn thịt bò sẽ được diễn ra trong thời gian bao lâu? Liệu cơ quan
chức năng có đủ thời gian, nhân lực cho việc giám sát doanh nghiệp sử dụng
theo đúng mục đích chuyển đổi hay không vẫn là một câu hỏi chưa có câu trả
lời xác đáng10.
7 my-gia- re-bang- nua-ga- viet-chat- luong-ra- sao-post564360.html
8 Vietnamnet.vn , tin ngày 16/9/2015
9 Thoibao.today, ngày 3/5/2016
10 Thoibao.today, ngày 3/5/2016
27
Để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, ngăn chặn, phòng ngừa những rủi
ro có thể gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe do sử dụng sản phẩm nhập
khẩu không đảm bảo an toàn, cần thiết phải có những quy định pháp luật
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình nhập khẩu.
Với nguyên tắc phòng là chính, kiểm tra, phát hiện nhanh, chính xác
các nhóm vi sinh vật gây hại và các nhóm chất độc hại, pháp luật bảo vệ
quyền lợi NTD trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập
khẩu vào Việt Nam ra đời nhằm thực hiện các thiên chức cơ bản sau:
- Thiết lập nghĩa vụ và trách nhiệm của tổ chức (cơ sở) sản xuất sản
phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu.
- Thiết lập các công cụ quản lý nhà nước như hệ thống tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật; các loại giấy phép; các biện pháp, chế tài áp dụng cho các chủ
thể có hành vi vi phạm tiêu chuẩn, quy chuẩn trong kiểm dịch sản phẩm động
vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu.
- Thiết lập hệ thống cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động kiểm
dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu.
16


Như vậy, có thể nói, pháp luật về kiểm dịch sản phẩm động vật dùng

làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam chính là một bộ phận trong hệ thống
pháp luật chung về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, có trách nhiệm kiểm
soát, quản lý rủi ro về an toàn đối với thực phẩm nhập khẩu, tạo ra một hàng
rào kỹ thuật nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của các loại sản phẩm động vật
không đạt tiêu chuẩn dùng làm thực phẩm tràn qua biên giới, đặc biệt từ các
quốc gia láng giềng vốn chưa có hệ thống pháp luật về ATTP vận hành một
cách hữu hiệu, góp phần bảo vệ và củng cố niềm tin của người tiêu dùng đối
với các sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm được phép nhập khẩu và lưu
thông trên thị trường, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam vừa tham gia ký kết
Hiệp định kinh tế đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương mà với hiệp
28
định này, các chuyên gia kinh tế dự báo là sẽ có một lượng lớn hàng hóa từ
nước ngoài sẽ nhanh chóng chen chân vào thị trường Việt Nam11.
1.2.2. Quá trình phát triển và nội dung của pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực
phẩm nhập khẩu
Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực kiểm dịch
sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam đã có một
quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử.
Từ những năm 60 của thế kỷ 20, nhận thức được tầm quan trọng của
công tác kiểm dịch trong việc ngăn chặn sự lây lan dịch bệnh, Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 111-CP ngày 23/7/1963 về việc ban
hành Điều lệ về phòng, chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm trong đó quy
định cụ thể việc thực hiện công tác kiểm dịch đối với gia súc, gia cầm, sản
17


phẩm động vật khi xuất, nhập khẩu và việc thu mua, vận chuyển gia súc, gia
cầm ở trong nước. Có thể nói đây là Nghị định đầu tiên của Chính phủ và là
văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) cao nhất tại thời điểm đó quy định về

hoạt động kiểm dịch. Sau đó, lần lượt có các văn bản pháp luật có giá trị pháp
lý cao hơn là Pháp lệnh về thú y năm 1993 và Pháp lệnh thú y năm 2004 thay
thế Pháp lệnh thú y 1993.
Những năm sau thời kỳ đổi mới, với nhu cầu hội nhập khu vực và quốc
tế, hoạt động kiểm dịch càng giữ vai trò nòng cốt trong kiểm soát buôn bán
động vật, sản phẩm động vật quốc tế. Nội dung bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào
Việt Nam được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về thú y và các văn bản
pháp luật khác về bảo vệ người tiêu dùng.
11 Dự án điều tra cơ bản thực trạng thi hành pháp luật ATTP và vai trò của các CQ bảo vệ pháp
luật trong
việc đảm bảo thi hành, Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, 2016.
29
Trên cơ sở Pháp lệnh thú y năm 2004, một hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật được ban hành như Nghị định số 33/2005/NĐ-CP ngày
15/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Pháp lệnh thú y; Nghị định số 119/2008/NĐ-CP ngày 28/11/2008 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 33/2005/NĐ-CP
ngày 15/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Pháp lệnh Thú y; Thông tư số 30/2009/TT-BNNPTNT ngày 04/6/2009 của
Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành quy định kiểm tra, giám sát vệ sinh thú y
đối với sản xuất, kinh doanh sản phẩm động vật, giết mổ động vật sử dụng
18


làm thực phẩm; Thông tư số 56/2009/TT-BNNPTNT ngày 07/9/2009 của Bộ
Nông nghiệp và PTNT kiểm tra, giám sát vệ sinh an toàn thực phẩm thủy sản
trước khi đưa ra thị trường; Thông tư số 05/2010/TT-BNNPTNT ngày
22/01/2010 của Bộ Nông nghiệp và PTNT hướng dẫn việc kiểm tra, giám sát
vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản trước khi đưa ra thị trường; Thông tư số

25/2010/TT-BNNPTNT ngày 08/4/2010 của Bộ Nông nghiệp và PTNT
hướng dẫn việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng hóa có
nguồn gốc động vật nhập khẩu; Thông tư số 06/2010/TT–BNNPTNT ngày
02/02/ 2010 Quy định trình tự, thủ tục kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản;
Thông tư số 29/2010/TT- BNNPTNT ngày 06/5/2010 của Bộ NN&PTNT ban
hành “Danh mục chỉ tiêu, mức giới hạn cho phép về an toàn vệ sinh thực
phẩm đối với một số sản phẩm thực phẩm có nguồn gốc động vật nhập khẩu,
sản xuất lưu thông trong nước thuộc phạm vi quản lý của Bộ NNPTNT”;
Thông tư số 32/2012/TT–BNNPTNT ngày 20/7/2012 ban hành Danh mục đối
tượng kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản; Danh mục thủy sản, sản phẩm
thủy sản thuộc diện phải kiểm dịch; Quyết định số 45/2005/QĐ-BNN ngày
25/7/2005 ban hành Danh mục đối tượng kiểm dịch động vật, sản phẩm động
vật; Danh mục động vật, sản phẩm động vật thuộc diện phải kiểm dịch; Quyết
30
định số 15/2006/QĐ-BNN ngày 08/03/2006 ban hành quy định về quy trình,
thủ tục kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật, kiểm tra vệ sinh thú y; Quyết
định số 46/2005/QĐ-BNN ngày 25/7/2005 ban hành Danh mục đối tượng
kiểm tra vệ sinh thú y; Danh mục đối tượng thuộc diện phải kiểm tra vệ sinh
thú y; Danh mục đối tượng thuộc diện phải kiểm tra vệ sinh thú y bắt buộc áp
dụng tiêu chuẩn vệ sinh thú y; Thông tư số 37/2010/TT-BNNPTNT ngày
19


25/6/2010 của Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chỉ tiêu vệ sinh an toàn thực phẩm nông sản; Quyết định số
118/2008/QĐ-BNN ngày 11/12/2008 của Bộ NNPTNT ban hành Quy chế
kiểm tra, chứng nhận chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm hàng hoá thuỷ
sản; Thông tư số 78/2009/TT-BNNPTNT ngày 10/12/2009 của Bộ NNPTNT
quy định về kiểm tra, lấy mẫu kiểm nghiệm lô hàng thuỷ sản; Quyết định số
86/2005/QĐ-BNN ngày 26/12/2005 của Bộ NNPTNT ban hành mẫu hồ sơ

kiểm dịch động vật, sản phẩm động vật, kiểm tra vệ sinh thú y, …
Mặc dù được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau
nhưng nội dung cơ bản của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong kiểm dịch sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm nhập khẩu vào Việt
Nam tập trung quy định những vấn đề sau:
Một là, điều kiện đối với cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu sản phẩm
động vật dùng làm thực phẩm.
Kinh doanh thực phẩm là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Bởi vậy
cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm
muốn nhập khẩu vào Việt Nam phải đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn nhất
định theo quy định của pháp luật Việt Nam. Quy định này hoàn toàn phù hợp
với Luật thú y của Tổ chức thú y thế giới (OIE) cũng như Luật thú y của các
nước.
31
Hai là, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật vệ sinh thú y, an toàn
thực phẩm đối với sản phẩm động vật dùng làm thực phẩm được phép nhập
khẩu.
Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là khung pháp lý để các Bộ
20


×