Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Xác định môi trường trầm tích từ tài liệu Địa chất, Địa vật lý giếng khoan trầm tích Oligocene mỏ X bể Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.09 MB, 62 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC THUẬT NGỮ, CHỮ VIẾT TẮT
B
Đ
ĐB
ĐN
N
T
TB
TN
TOC
VLHC

: Bắc
: Đông
: Đông Bắc
: Đông Nam
: Nam
: Tây
: Tây Bắc
: Tây Nam
: Tổng hàm lượng vật chất hữu cơ
: Vật liệu hữu cơ


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Hình 1.1: Vị trí bồn trũng bể Cửu Long…………………………………………
Hình 1.2: Mặt cắt địa chấn tuyến S18 cắt dọc bể Cửu
Long………………….


Hình 1.3: Các yếu tố cấu trúc của bồn trũng Cửu Long………………………
Hình
1.4:
Mặt
cắt
ngang
trũng
chính
bể
Cửu
Long…………………………….
Hình 1.5: Cột địa tầng tổng hợp bồn trũng Cửu
Long…………………………
Hình 1.6: Bản đồ cấu trúc mặt móng bể Cửu Long…………………………
Hình 1.7: Đặc trưng đá granit nứt nẻ theo mẫu lõi (a) và lát mỏng nhuộm
màu (b)……………………………………………………………………………….
Hình 2.1: Đặc điểm hình dạng đường cong
SP…………………………………
Hình 2.2: Phân tích tướng từ đường GR và độ hạt……………………………
Hình 2.3: Đặc điểm hình dạng các đường cong đo thế tự nhiên SP…………
Hình 2.4: Xác định thành phần thạch học sử dụng đường cong GR và
đường cong đo độ rỗng neutron và độ rỗng mật
độ……………………………………
Hình 2.5: Xác định thành phần thạch học bằng cách kết hợp các đường
cong đo độ
rỗng……………………………………………………………………..
Hình 2.6: Crossplot giữa thời gian truyền sóng và độ rỗng…………………..
Hình
2.7:
Crossplot

giữa
mật
độ

độ
rỗng…………………………………….
Hình 3.1: Mặt cắt địa chấn chỉ rõ cấu trúc listric tạo tầng
E…………………
Hình 3.2: Mặt cắt địa chấn qua khu vực phía đông bồn Cửu Long chỉ ra
cấu trúc nghịch đảo kiến tạo sau khi thành tạo tầng C làm các thành tạo
trầm tích bị uốn nếp và tạo bề mặt bất chỉnh hợp cuối
Oligocene…………………
Hình 3.3: Uốn nếp và cấu tạo hình hoa trong tập C ở khu vực rìa ĐB bồn
trũng
Cửu
Long
(nguồn
PVEP)
……………………………………………………
Hình 3.4: Đáy tập địa chấn
C……………………………………………………..
Hình 3.5: Bản đồ cấu tạo theo tầng phản xạ SH-7 khu vực mỏ X và vị trí
các
giếng
khoan
thăm
dò………………………………………………………………..
Hình 3.6: Giếng thăm dò X_1X…………………………………………………
Hình 3.7: Giếng thăm dò X_2X…………………………………………………..
Hình 3.8: Dạng đường cong GR giếng X_1X ở độ sâu 3514 – 3522 m……..

Hình 3.9: Dạng đường cong GR giếng X_2X ở độ sâu 3854 – 3862 m……

1
2
6
8
12
20
26
32
33
34
36
37
38
38
41

43
43
44
45
46
46
47
48


Hình 3.10: Giếng thăm dò
X_3X………………………………………………….

Hình 3.11: Giếng thăm dò X_4X………………………………………………….
Hình 3.12: Liên kết giếng khoan thăm dò X_1X và
X_3X……………………..
Hình 3.13: Liên kết giếng khoan thăm dò X_2X và
X_4X……………………..
Hình 3.14: Liên kết giếng khoan thăm dò X_5X và
X_6X……………………..

49
49
51
52
53


MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam ta có nhiều tài nguyên khoáng sản phong phú, trong đó
quan trọng bậc nhất là dầu khí. Bởi nó đem lại cho đất nước ta nguồn thu lớn nhất
trong tất cả các ngành công nghiệp, đóng góp quan trọng trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, sự nghiệp đổi mới
và phát triển của đất nước.
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay nguy cơ cạn kiệt nguồn tài nguyên quý báu
này đã khiến một yêu cầu bức thiết đặt ra là làm sao khai thác dầu khí một cách có
hiệu quả.
Theo kế hoạch đào tạo kỹ sư địa vật lý của trường Đại học Mỏ- Địa chất tôi
được phân công về thực tập tại Viện Nghiên cứu khoa học và Thiết kế dầu khí biển
(NIPI). Tại đây được sự giúp đỡ tận tình của các kỹ sư phòng Địa chấn thăm dò, tôi
được tìm hiểu về tài liệu Địa chất, Địa vật lý giếng khoan phục vụ cho đề tài: “Xác
định môi trường trầm tích từ tài liệu Địa chất, Địa vật lý giếng khoan trầm tích
Oligocene mỏ X bể Cửu Long”.

Xác định tướng và môi trường trầm tích để xác định không gian phân bố các
tầng đá sinh, chứa và chắn trong khu vực nghiên cứu, góp phần trong công tác tìm
kiếm thăm dò dầu khí.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban giám hiệu Trường Đại học Mỏ- Địa chất Hà
Nội, Ban chủ nhiệm khoa Dầu khí, phòng nhân sự NIPI đã tạo điều kiện, hoàn thành
thủ tục giấy tờ để tôi được đi thực tập.
Để hoàn thành đồ án này tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo
PGS.TS. Lê Hải An cùng tập thể các thầy cô giáo trong bộ môn Địa vật lý, Trường
Đại học Mỏ- Địa chất Hà Nội đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong quá trình làm đồ án này.
Tôi cũng xin cảm ơn KS. Lê Minh Hiếu cùng các anh chị của phòng Địa chất
thăm dò đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực tập tại đây.


Mặc dù bản thân đã cố gắng song sẽ không tránh khỏi sai sót trong quá trình
viết và trình bày đồ án, tôi rất mong nhận được sự nhận xét và đóng góp ý kiến của
toàn thể các thầy cô giáo nhằm xây dựng, chỉnh sửa đề tài này được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội 06- 2017

Sinh viên thực hiện

Đầu Vũ Hoàng


7

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1. VỊ TRÍ BỂ CỬU LONG.

Bể Cửu Long (một số tài liệu còn gọi là bể Mekong) là bể tách giãn Đệ Tam
sớm nằm chủ yếu trên phần thềm lục địa ngoài khơi Đông Nam Việt Nam và một
phần trên đất liền thuộc khu vực cửa sông Cửu Long, ở vị trí có tọa độ địa lý trong
khoảng 9000’ – 11000’ vĩ độ Bắc và 106030’ – 109000’ kinh độ Đông. Nó mở rộng
xấp xỉ 340 km đến Đông Bắc từ tam giác châu Mekong và nó trải dài khoảng 80 km
theo hướng Tây Nam đến 40 km theo hướng Đông Bắc. Bể có hình bầu dọc, nằm
dọc theo bờ biển Vũng Tàu- Bình Thuận. Bể Cửu Long được xem là bể trầm tích
Kainozoi khép kín điển hình của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu tính theo đường đẳng
dày trầm tích 1000m thì bể có xu hướng mở về phía ĐB, phía biển Đông hiện tại.
Bể Cửu Long tiếp giáp với đất liền về phía Tây Bắc, ngăn cách với bể Nam Côn
Sơn và đới nâng Côn Sơn, phía TN là đới nâng Khorat- Natuna và phía ĐB là
đới cắt trượt Tuy Hòa ngăn cách với bể Phú Khánh. Bể có diện tích khoảng
36.000 km2, bao gồm các lô: 9, 15, 16, 17 và một phần các lô: 1, 2, 25 và 129. Bể
được bồi lấp chủ yếu bởi trâm tích lục nguyên Đệ Tam, chiều dày lớn nhất tại trung
tâm bể có thể đạt tới 8 km

Hình 1.1: Vị trí bồn trũng bể Cửu Long


8

Hình 1.2: Mặt cắt địa chấn tuyến S18 cắt dọc bể Cửu Long
(Nguồn: Tài liệu TTNC Biển và Đảo)
1.2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, THĂM DÒ VÀ KHAI THÁC DẦU KHÍ.
Trong công tác nghiên cứu, tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí trên thềm
lục địa Việt Nam, bể Cửu Long là một trong những nơi được tiến hành đầu tiên. Với
thành quả phát hiện các mỏ Bạch Hồ và Rồng, Rạng Đông… đã đưa vào khai thác
và một loạt các phát hiện khác đã nói lên tầm quan trọng của bể trầm tích này về
dầu khí hiện đại và tương lai đối với Việt Nam gần đây càng được chú trọng và tập
trung nghiên cứu thích đáng. Căn cứ vào quy mô, mốc lịch sử và kết quả thăm dò,

lịch sử tìm kiếm thăm dò dầu khí của bể Cửu Long được chia thành các giai đoạn:
I.2.1.Giai đoạn trước năm 1975.
Từ trước năm 1975 đã có nhiều công ty nước ngoài đầu tư tìm kiếm, thăm dò
dầu khí ở bể này. Năm 1967 US Navy Oceanographic Office đã tiến hành khảo sát
từ hàng không gần khắp lãnh thổ miền Nam. Năm 1967- 1968 hai tàu Ruth và
Maria của Alpine Geophysical Corporation đã tiến hành đo 19.500 km tuyến địa
chấn ở phía Nam biển Đông trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long. Từ những năm
1969- 1970 cùng với thềm phía Nam, bể Cửu Long đã được phủ mạng lưới địa chấn
30 x 50 km do công ty MANDREL tiến hành. Năm 1973- 1974, đã đấu thầu trên 11
lô trong đó có 3 lô thuộc bể Cửu Long là 09, 15, và 16. Năm 1974, công ty Mobil
trúng thầu trên lô 09 đã tiến hành khảo sát địa vật lý, chủ yếu là địa chấn phản xạ
2D và tiến hành đo cổ từ và trọng lực với khối lượng là 3000 km tuyến 2D. Vào
cuối năm 1974 và đầu năm 1975, công ty Mobil đã khoan giếng khoan tìm kiếm


9

đầu tiên trong bể Cửu Long, giếng khoan BH- 1X ở phần đỉnh cấu tạo Bạch Hổ. Kết
quả thử vỉa đối tượng cát kết Miocen dưới ở chiều sâu 2755- 2819 m đã cho dòng
dầu công nghiệp, lưu lượng đạt 342m 3/ngày đêm. Kết quả này đã khẳng định triển
vọng và tiềm năng dầu khí của bể Cửu Long.
I.2.2.Giai đoạn 1975 đến 1979
Với sự thay đổi chính trị của đất nước năm 1975, công tác tìm kiếm thăm dò
dầu khí cũng có một bước ngoặt mới với nhiều thành quả đáng ghi nhận.
Năm 1976: công ty địa vật lý CGG khảo sát 1.211 km theo các con sông ở
đồng bằng sông Cửu Long và ven biển Vũng Tàu – Côn Sơn. Kết quả thu được là
các tầng phản xạ chính từ CL20 – CL80 khẳng định có sự tồn tại một mặt cắt trầm
tích Đệ Tam dày ở bồn trũng Cửu Long.
Năm 1978: công ty Geco đã tiến hành thu nổ địa chấn 2D trên lô 09, 10, 16,
19, 20 và 21 với tổng số 11.899 km và làm chi tiết trên cấu tạo Bạch Hổ. Tiếp theo,

với sự khảo sát 3.222 km tuyến địa chấn trên lô 15 và cấu tạo Cửu Long (nay là
Rạng Đông) đã đi đến quyết định khoan 4 giếng triển vọng nhất trên cấu tạo Cửu
Long, Trà Tân (nay là Hải Sư Đen), Đồng Nai (nay là Sư Tử Đen) và cấu tạo Sông
Ba. Kết quả là đều gặp các biểu hiện dầu khí trong cát kết Miocene dưới và
Oligocene nhưng không có giá trị công nghiệp.
I.2.3.Giai đoạn 1980 đến 1988.
Công tác tìm kiếm & thăm dò dầu khí ở thềm lục địa Việt Nam được mở rộng,
nổi bật nhất là các hoạt động của VSP với sự tập trung nhiều giếng khoan vào cấu
tạo Bạch Hổ, Tam Đảo và Rồng. Kết quả là vào cuối giai đoạn này VSP đã khai thác
những tấn dầu đầu tiên từ hai đối tượng Miocene và Oligocene dưới của cấu tạo
Bạch Hổ vào năm 1986 và lần đầu tiên phát hiện dầu trong đá móng granit nứt nẻ
vào tháng 09/1988.
I.2.4. Giai đoạn 1989 đến nay.
Đánh dấu bởi sự phát triển mạnh mẽ công tác tìm kiếm, thăm dò cùng với sự
ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Dầu khí. Hàng loạt công ty dầu nước
ngoài đã ký hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC) hoặc cùng đầu tư vào các lô mở và
có triển vọng tại bể Cửu Long.


10

Bên cạnh đó, phải kể đến sự tham gia ngày càng hiệu quả của các công ty
khảo sát địa vật lý thăm dò như công ty dịch vụ khảo sát địa chấn CGG, Geco –
Prakla, Western Geophysical Company, PGS,…. Hầu hết các lô trong bồn trũng đã
được tiến hành khảo sát địa chấn tỉ mỉ, có sử dụng phương pháp địa chấn 3D đối với
các diện tích có triển vọng và trên những vùng mỏ đã phát hiện. Đặc biệt đã có
những tiến bộ rõ nét trong việc xử lý tài liệu địa chấn 3D khi áp dụng quy trình xử
lý dịch chuyển độ sâu trước cộng (PSDM và PSTM).
Năm 2003: đã có khoảng 300 giếng khoan thăm dò, thẩm lượng và khai thác ở
bể Cửu Long. Ngày càng nhiều phát hiện dầu khí đã được xác định: Rạng Đông (lô

15.2); Sư Tử Đen, Sư Tử Vàng, Sư Tử Trắng (lô 15.1); Topaz – North, Diamond,
Pearl, Emerald (lô 01); Cá Ngừ Vàng (lô 09.2); Voi Trắng (lô 16.1); Đông Rồng,
Đông Nam Rồng (lô 09.1); Hải Sư Đen, Hải Sư Trắng (lô 15.2/01). Trong số đó có
05 mỏ dầu: Bạch Hổ, Rồng (bao gồm cả Đông Rồng và Đông Nam Rồng), Rạng
Đông, Sư Tử Đen và Ruby được khai thác với tổng sản lượng khoảng 45.000
tấn/ngày. Tổng lượng dầu đã thu hồi từ 05 mỏ kể từ khi đưa vào khai thác cho đến
đầu năm 2005 khoảng 170 triệu tấn.
Trong thời gian gần đây còn phát hiện và công bố thêm các mỏ có tính thương
mại như: Sư Tử Vàng, Cá Ngừ Vàng,…
Như vậy, quá trình tìm kiếm – thăm dò dầu khí tại bồn trũng Cửu Long đã
diễn ra rất sớm. Đây là nơi tập trung thăm dò – khai thác dầu khí đầu tiên và nhiều
nhất tại thềm lục địa Việt Nam và là nơi có tiềm năng kinh tế về dầu khí rất lớn.
I.3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA CHẤT KHU VỰC.
I.3.1. Đặc điểm kiến trúc.
Bồn trũng Cửu Long về hình thái có dạng bầu dục phương kéo dài ĐB - TN,
giới hạn phía Đông là biển Đông Việt Nam, Tây là châu thổ sông Mê Kông, phía
Bắc là các đới nâng cao của địa khối Đà Lạt, Kon Tum. Ở bồn Cửu Long các tầng
địa chấn đã được các nhà thầu liên kết và đo vẽ bản đồ được tóm tắt như sau: Tầng
móng, F, E, D, C, sét Bạch Hổ, BI.1, BI.2, BII, A. Các yếu tố cấu trúc chính trong
bồn trũng Cửu Long được thể hiện rõ trên các bản đồ từ nóc móng đến nóc tập E.
Bồn trũng Cửu Long được chia ra thành 2 tầng kiến trúc.
Tầng kiến trúc dưới: Tầng kiến trúc này được tạo nên bởi các thành tạo phun
trào và xâm nhập có tuổi Trias – Kreta gồm các đá granite, biotit, granodiorite,


11

diorite và nhiều nơi còn gặp rhyolit thuộc phức hệ Hòn Khoai, Định Quán và Cà
Ná.
Tầng kiến trúc trên: Tầng kiến trúc này chính là lớp phủ trầm tích Kainozoi,

được tạo nên chủ yếu từ các thành tạo lục nguyên tuổi Eocene – Đệ Tứ. Nó được
chia thành 03 phụ tầng cấu trúc với ranh giới là các bề mặt bất chỉnh hợp.
Phụ tầng kiến trúc dưới: Gồm hệ tầng Cà Cối và hệ tầng Trà Cú (Eocene –
Oligocene dưới). Phần lớn các trầm tích hạt thô nằm ở đáy, xen kẽ hạt mịn ở trên
chứa nhiều VLHC nguồn gốc lục địa, phân bố ở các địa hào hẹp chạy dọc trung tâm
bể (phía Đông và Tây cấu tạo Bạch Hổ), dày từ 800 ÷ 2.200 m, được thành tạo khi
xảy ra sự va chạm giữa vi mảng Ấn Độ và mảng Âu – Á vào thời kỳ Eocene giữa
gây nứt tách vỏ lục địa. Các lớp phân bố xiên chéo và chồng gối phủ bất chỉnh hợp
lên đá cổ.
Phụ tầng kiến trúc giữa: Gồm hệ tầng Trà Tân và hệ tầng Bạch Hổ (Oligocene
trên – Miocene dưới) với diện phân bố rộng, phủ ra đến địa hào trung tâm, bề dày từ
900 ÷ 3600 m. Bề dày khá lớn tích lũy được trong thời điểm này có lẽ liên quan đến
hoạt động tách giãn đáy biển Đông (17 ÷ 32 triệu năm) nên tạm gọi đây là thời kỳ
đồng tạo rift. Trầm tích phần lớn hạt mịn chứa nhiều VLHC, là tầng chắn địa
phương khá tốt. Môi trường trầm tích chủ yếu là hồ nước ngọt, delta, nước lợ ven
bờ và biển nông. Các lớp phủ bất chỉnh hợp lên các thành hệ cổ, ít xiên chéo hơn
song có xu hướng tăng bề dày phía trung tâm và bất chỉnh hợp góc thể hiện rõ ở ven
rìa, đặc biệt ở rìa Đông Bắc.
Phụ tầng kiến trúc trên: Gồm 03 hệ tầng Côn Sơn, Đồng Nai và Biển Đông
(Miocene trung – Đệ Tứ) phủ bất chỉnh hợp lên phụ tầng kiến trúc giữa và dưới.
Diện tích được mở rộng khá nhiều, có liên quan đến sự phát triển thềm lục địa và
giai đoạn tách giãn gần đây.
Hệ thống đứt gãy.
Hệ thống đứt gãy ở bồn trũng Cửu Long được chia thành 4 nhóm chính theo
các phương tương ứng: Đông Bắc – Tây Nam, Đông – Tây, Bắc – Nam và các đứt
gãy nhỏ theo các phương khác nhau của biển Đông (Pliocene – Đệ Tứ). Trầm tích
chủ yếu là biển nông xen kẽ ven bờ, có bề dày chung là 1.800 ÷ 2.200 m với các
trầm tích nằm ngang, phủ lên các trầm tích cổ. Vào Đệ Tam sớm đã diễn ra sự va
chạm giữa hai mảng Ấn – Úc và Âu – Á làm hình thành và phát triển mạnh các bể
trầm tích ở Đông Nam Á trong đó có bể Cửu Long. Phần lớn các đứt gãy quan trọng

thuộc bể này là các đứt gãy thuận có kế thừa từ móng, phát triển đồng trầm tích và


12

đều biến mất ở Oligocene muộn.
Hai hệ thống đứt gãy có phương ĐB - TN và Đ - T giữ vai trò chủ đạo khống
chế lịch sử phát triển địa chất và các yếu tố kiến trúc chính của bồn trũng. Trong đó,
hệ thống đứt gãy có phương ĐB - TN gắn liền với giai đoạn tạo rift và là yếu tố
chính khống chế đới nâng trung tâm Rồng – Bạch Hổ. Còn hệ thống đứt gãy
phương Đông – Tây có tuổi trẻ hơn phân cắt hệ thống đứt gãy có trước và ở nhiều
nơi thấy rõ sự dịch chuyển ngang Đ - T. Đặc biệt tại nơi giao nhau giữa các hệ
thống đứt gãy thường xảy ra quá trình nén ép cục bộ, làm xuất hiện các đứt gãy
chờm nghịch.
Mỗi hệ thống đứt gãy đều có thời gian hình thành, cường độ hoạt động, biên
độ dịch chuyển khác nhau. Tuy nhiên, đa phần chúng ngưng hoạt động vào cuối
Oligocene sớm, chỉ còn vài đứt gãy hoạt động đến Miocene sớm như ở phần trung
tâm và Đ - B của bồn trũng.
I.3.2. Các yếu tố cấu tạo.
Việc phân chia các đơn vị cấu tạo được dựa trên đặc điểm cấu trúc địa chất của
từng khu vực, ứng với sự khác biệt về chiều dày trầm tích. Các đơn vị cấu tạo này
được giới hạn bởi những đứt gãy hoặc hệ thống đứt gãy có biên độ đáng kể.

Hình 1.3: Các yếu tố cấu trúc của bồn trũng Cửu Long
(Nguồn: Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam)


13

Nếu coi bể Cửu Long là đơn vị cấu trúc bậc I thì các đơn vị cấu trúc bậc II là:

Trũng phân dị Bạc Liêu là một trũng nhỏ nằm ở phần cuối Tây Nam của bể
Cửu Long với diện tích khoảng 3600 km2. Gần một nửa diện tích của trũng thuộc lô
31, phần còn lại thuộc phần nước nông và đất liền. Trũng có chiều dày trầm tích Đệ
Tam không lớn khoảng 3 km và bị chia cắt bởi các đứt gãy thuận có phương TB –
ĐN. Trong trũng có khả năng bắt gặp trầm tích như trong trũng phân dị Cà Cối.
Trũng phân dị Cà Cối nằm chủ yếu ở cửa sông Hậu, có diện tích nhỏ và chiều
dày trầm tích không lớn, trên dưới 2000 m. Tại đây đã khoan giếng khoan CL – 1X
và mở ra hệ tầng Cà Cối. Trũng bị phân cắt bởi các đứt gãy kiến tạo có phương ĐB
– TN, gần như vuông góc với phương của đứt gãy trong trũng phân dị Bạc Liêu.
Đới nâng Cửu Long nằm về phía Đông của trũng phân dị Bạc Liêu và Cà Cối,
phân tách hai trũng này với trũng chính bể Cửu Long. Đới nâng có chiều dày trầm
tích không đáng kể, chủ yếu là trầm tích hệ tầng Đồng Nai và Biển Đông. Đới nâng
không có tiền đề, dấu hiện dầu khí vì vậy đã không được nghiên cứu chi tiết và
không xác định sự phát triển các đứt gãy kiến tạo.
Các đơn vị cấu trúc vừa nêu được xem là rất ít hoặc không có triển vọng dầu
khí, vì vậy chúng ít khi được đề cập đến trong các công trình nghiên cứu và đôi khi
không được xem như một đơn vị cấu thành của bể Cửu Long.
Đới nâng Phú Quý được xem như phần kéo dài của đới nâng Côn Sơn về phía
Đông Bắc, thuộc lô 01 và 02. Đây là đới nâng cổ, có vai trò khép kín và phân tách
bể Cửu Long với phần phía Bắc của bể Nam Côn Sơn. Tuy nhiên, vào giai đoạn
Neogen – Đệ Tứ thì diện tích này lại thuộc phần mở của bể Cửu Long. Chiều dày
trầm tích thuộc khu vực đới nâng này dao động từ 1.5 đến 2 km. cấu trúc của đới
nâng bị ảnh hưởng khá mạnh bởi hoạt động núi lửa, kể cả núi lửa trẻ.
Trũng chính bể Cửu Long đây là phần lún chìm chính của bể, chiếm tới ¾ diện
tích bể, gồm các lô 15, 16 và một phần các lô 01, 02, 09, và 17. Theo đường đẳng
dày 2 km thì trũng chính bể Cửu Long thể hiện rõ nét là một bể khép kín có dạng
trăng khuyết với vòng cung hướng ra về phía Đông Nam. Toàm bộ triển vọng dầu
khí đều tập trung ở trũng này. Vì vậy, cấu trúc của trũng được nghiên cứu khá chi
tiết và được phân chia ra thành các đơn vị cấu trúc nhỏ hơn như một bể độc lập thực
thụ. Các đơn vị cấu tạo bậc 3 gồm: trũng Đông Bắc, trũng Tây Bạch Hổ, trũng

Đông Bạch Hổ, sườn nghiêng Tây Bắc, sườn nghiêng Đông Nam, đới nâng Trung
tâm, đới nâng phía Bắc, đới nâng phía Đông, đới phân dị Đông Bắc, đới phân dị
Tây Nam (Hình 1.4).


14

Hình 1.4: Mặt cắt ngang trũng chính bể Cửu Long
(Nguồn: Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam)
Sườn nghiêng Tây Bắc là dải sườn bờ Tây Bắc của bể kéo dài theo hướng ĐB
– TN, chiều dày trầm tích tăng dần về phía Tây Nam từ 1 đến 2.5 km. Sườn nghiêng
bị cắt xe bởi các đứt gãy kiến tạo có hướng ĐB – TN hoặc TB – ĐN, tạo thành các
mũi nhô. Trầm tích Đệ Tam của bể thường có xu hướng vát nhọn và gá dấy lên
móng cổ granitod trước Kainozoi.
Sườn nghiêng Đông Nam là dải sườn bờ Đông Nam của bể, tiếp giáp với đới
nâng Côn Sơn. Trầm tích của đới này có xu hướng vát nhọn và gá dấy với chiều dày
dao động từ 1 đến 2,5 km. sườn nghiêng này cũng bị phứ tạp bởi các đứt gãy kiến
tạo có phương ĐB – TN và á vĩ tuyến tạo nên các cấu tạo địa phương như cấu tạo
Amethyst, Cá Ông Đôi, Opal, và Sói.
Trũng Đông Bắc, đây là trũng sâu nhất, chiều dày trầm tích có thể đạt tới 8
km. trũng có phương kéo dài dọc theo trục chính của bể, nằm kẹp giữa hai đới nâng
và chịu khống chế bởi hệ thống các đứt gãy chính hướng ĐB – TN.
Trũng Tây Bạch Hổ, trong một số tài liệu trũng này được ghép chung với trũng
Đông Bắc. tuy nhiên, về đặc thù kiến tạo giữa 2 trũng có sự khác biệt đáng kể đặc
biệt là phương của các đứt gãy chính. Trũng Tây Bạch Hổ bị khống chế bởi các đứt
gãy kiến tạo có phương á vĩ tuyến, tạo sự gấp khúc của bể. Chiều day trâm tích này
có thể đạt tới 7,5 km.
Trũng Đông Bạch Hổ nằm kẹp giữa đới nâng Trung Tâm về phía Tây, sườn
nghiêng Đông Nam về phía Đ – ĐN và đới nầng Đông Bắc về phía Bắc. trũng có
chiều dày trâm tích đạt tới 7 km và là một trong ba trung tâm tách giãn của bể.

Đới nâng Trung Tâm là đới nâng nằm kẹp giữa hai trũng Đông và Tây Bạch
Hổ và được giới hạn bởi các đứt gãy có biên độ lớn với hướng đổ chủ yếu về phía
Đông Nam. Đới nâng bao gồm các cấu tạo dương và có liên quan đến những khối


15

nâng cổ của móng trước Kainozoi như: Bạch Hổ, Rồng. các cấu tạo bị chi phối
không chỉ bởi các đứt gãy thuận hình thành trong quá trình tách giãn, mà còn bởi
các đứt gãy trượt bằng và chờm nghịch do ảnh hưởng của sự siết ép vào Oligocen
muộn.
Đới nâng phía Tây Bắc nằm về phía Tây Bắc trũng Đông Bắc và được khống
chế bở các đứt gãy chính phương ĐB – TN. Về phía TB đới nâng bị ngăn cách bởi
sườn nghiêng Tây Bắc bởi một địa hảo nhỏ có chiều dày trầm tích khoảng 6 km. đới
nâng bao gồm Vừng Đông và dải nâng kéo dài về phía Đông Bắc.
Đới nâng phía Đông chạy dài theo hướng ĐB – TN, phía TB ngăn cách với
trũng ĐB bởi hệ thống những đứt gãy có phương á vĩ tuyến và ĐB – TN, phía ĐN
ngăn cách với đới phân dị Đông BẮc bởi võng nhỏ, xem như phần kéo dài của
trũng Đông BẠch hổ về phía ĐB. Trên đới nâng đã phát hineej được các cấu tạo
dương như: Rạng Đông, Phương Đông và Jade.
Đới phân dị Đông Bắc (phần đầu Đông BẮc của bể) nằm kẹp giawux đới
nâng Đông Phú Quá và sườn nghiêng Tây Bắc. đây là khu vực có chiều dày trầm
tích trung bình và bị phân dị mạnh bởi các hệ thống đứt gãy có đường phương TB –
DDN, á kinh tuyến và á vĩ tuyến tạo thành nhiều địa hào, địa lũy nhỏ (theo bề mặt
móng). Một số các cấu tạo dương địa phương đã xác định như: Hồng Ngọc, Pearl.
Turquoise, Diamond, Agate.
Đới phân dị Tây Nam nằm về đàu Tây Nam của trũng chính. Khác với đới
phân di ĐB, đới này bị phân dị mạnh bởi hệ thống những đứt gãy với đường
phương chủ yếu là á vĩ tuyến tạo thành những địa hào, bán địa lũy xen kẽ nhau.
Những cấu tạo có quy mô lớn trong đới này phải kể đến: Đu Đủ, Tam Đảo, Bà Đen

và Ba Vì.
Các cấu tạo dương địa phương dương bậc IV là đối tượng tìm kiếm và thăm
dò dầu khí chính của bể.
I.3.3.Địa tầng và thạch học.
Địa tầng của bồn trũng Cửu Long gồm đá móng cổ trước Kainozoi và trầm
tích lớp phủ Kainozoi. Đặc trưng thạch học – trầm tích và hóa đá của mỗi phân vị
địa tầng được thể hiện trong cột địa tầng tổng hợp của bồn trũng (hình 1. 5). Để
thuận tiện cho công tác tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí các phân vị địa tầng
được đối sánh với các tập địa chấn. Các mặt phản xạ địa chấn đều trùng với các
ranh giới của các phân vị địa tầng.
Móng trước Kainozoi


16

Phức hệ đá móng ở bồn Cửu Long có tuổi trước Kainozoi bao gồm toàn bộ
các đá nằm dưới tầng phản xạ “M” là tầng phản xạ nóc bề mặt móng. Phức hệ đá
móng có thành phần không đồng nhất chủ yếu là các đá magma xâm nhập gồm
granite, granodiorite, granodiorite thạch anh, monzonite, diorite, diorite thạch anh,
tonalite với các đá magma và các đá biến chất. Thành phần khoáng vật chủ yếu gồm
thạch anh, feldspar kali, plagioclas, biotite, muscovite, amphibol và hornblend.
Khoáng vật thứ sinh được thành tạo do hoạt động nhiệt dịch chủ yếu là zeolite,
thạch anh, calcite, sericite, clorite, kaolinite. Lớp bề mặt của đá móng thường bị
phong hóa mạnh có bề dày từ 4 m – 55 m.
Các đá mạch xuyên cắt vào móng hay lấp đầy các khe nứt (dạng đai mạch,
nhỏ), một số nơi phủ trực tiếp trên bề mặt đá móng (lô 16-1). Thành phần chủ yếu
gồm diaba, ít hơn là bazan tại mỏ Bạch Hổ, Rồng, andesite và dacite tại lô 15-1, 152, với bề dày từ vài mét đến vài chục mét.
Phức hệ đá móng được phát hiện tích tụ dầu khí có giá trị công nghiệp đầu tiên
tại mỏ Bạch Hổ và được khai thác vào năm 1986, từ đó tầng đá móng đã trở thành
đối tượng tìm kiếm - thăm dò dầu khí quan trọng trong bồn Cửu Long nói riêng,

thềm lục địa Nam Việt Nam nói chung.
Về mặt thạch học có thể xếp thành hai nhóm chính: granit và granodiorit –
diorit. Dựa trên việc so sánh các nghiên cứu tại rất nhiều giếng khoan sâu vào móng
với kết quả nghiên cứu các phức hệ magma xâm nhập trên đất liền, theo đặc trưng
thạch học và tuổi tuyệt đối mà phân loại thành 03 phức hệ: Hòn Khoai, Định Quán
và Cà Ná.


Phức hệ Hòn Khoai: Đây được xem là phức hệ đá magma cổ nhất ở bể



Cửu Long, có tuổi Trias muộn (khoảng 195 ÷ 250 triệu năm). Granitoid
Hòn Khoai gồm chủ yếu là amphybol – biotit – diorit, monzolit và
adamelit. Chúng bị biến đổi, cà nát mạnh và phần lớn các khe nứt được
lấp đầy bởi khoáng vật thứ sinh: calcite – epidot – zeolit. Diện phân bố
chủ yếu là ở phần cánh của các khối móng nhô cao như cánh Đông Bắc
mỏ Bạch Hổ.
Phức hệ Định Quán: Có tuổi Jura và Kreta sớm (khoảng 95 ÷ 155 triệu
năm), bắt gặp phổ biến ở cấu tạo Bạch Hổ (vòm Bắc), Ba Vì, Tam Đảo
và Sói. Ở các mỏ Rạng Đông, Sư Tử Đen và Sư Tử Vàng, thành phần
thạch học chủ yếu là đá granodiorit, đôi chỗ gặp monzonit – biotit –


17



thạch anh đa sắc. Các thành tạo thuộc phức hệ xâm nhập này có mức độ
giập vỡ và biến đổi cao, hầu hết các khe nứt đều được lấp đầy bởi các

khoáng vật thứ sinh: calcit, zeolit, thạch anh và clorit.
Phức hệ Cà Ná: Có tuổi Kreta muộn – Paleocene sớm (khoảng 60 ÷ 95
triệu năm), phát triển và gặp phổ biến nhất trên toàn bể. Đặc trưng thạch
học của phức hệ là granit thủy mica và biotit, thuộc loại natri – kali dư
nhôm, silic và ít canxi. Các khối granitoid của phức hệ này sinh thành
đồng tạo núi, phân bố dọc theo hướng trục của bể và hòa tan các đá cổ
hơn. Chúng bị giập vỡ mạnh với mức độ biến đổi thứ sinh mạnh mẽ hơn
hai phức hệ trên, đặc trưng bởi quá trình zeolit hóa, thạch anh thứ sinh.


18

Dầu

Khí

Hình 1.5: Cột địa tầng tổng hợp bồn trũng Cửu Long


19

Trầm tích Kainozoi
Nằm bất chỉnh hợp trên mặt đá móng kết tinh bị bào mòn, phong hóa là các
thành tạo Kainozoi hoặc núi lửa. Địa tầng được mô tả từ dưới lên trên, từ cổ đến trẻ
và được trình bày tóm tắt trong cột địa tầng.
Hệ Paleogene
Thống Eocene
Hệ tầng Cà Cối (E2cc)
Các trầm tích thuộc hệ tầng này được thành tạo trong môi trường lục địa:
deluvi, proluvi, alluvi với bề dày 200 ÷ 400 m, được mô tả bởi Lê Văn Cự tại giếng

khoan CL – 1X thuộc vùng sụt lún sông Hậu. Chúng gồm chủ yếu: cuội sạn kết, cát
kết đa khoáng, xen các lớp mỏng bột kết và sét kết hydromica – clorit – serixit.
Phần dưới của hệ tầng là cuội kết, sạn kết (thành phần chính của cuội và sạn là
andesit, rhyolit, phiến mica và quaczit) trong khi phần trên là cát hạt thô sáng màu,
bột sét kết màu xám xanh. Hóa thạch bào tử phấn hoa được phát hiện gồm:
Klukiosporites, Triporopollenites, Trudopollis, Plicapollis,… thuộc nhóm thực vật
khô cạn, thường phổ biến trong Eocene.
Hệ Paleogene
Thống Oligocene
Phụ thống Oligocene dưới
Hệ tầng Trà Cú (E31tc) – Tập địa chấn F và tập địa chấn EI
Hệ tầng Trà Cú được Lê Văn Cự xác lập năm 1981, 1982 tại giếng khoan Cửu
Long – 1X, bề dày 250 m thuộc vùng Cà Cối, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Các
trầm tích của hệ tầng này bao gồm các tầng cuội sạn sỏi xen ít lớp cát hạt thô, bột và
sét có màu sắc sặc sỡ, cấu tạo phân lớp dày, dạng khối. Cuội có thành phần đá phun
trào andesit, được mài tròn tốt nhưng độ chọn lọc kém và phát triển rộng ở phía Tây
Bắc của bể. Cát kết có độ mài tròn kém, phần lớn các hạt màu tím với sét và cancit
là vật liệu xi măng gắn kết. Phần trên cùng còn xen kẽ các lớp sét than, thấu kính
than. Hóa thạch bào tử phấn hoa gồm: Trudopollis, Ephedra, Cycas, Ginggo….
Chúng được thành tạo và lắng đọng trong môi trường sông hồ, đầm lầy hoặc châu
thổ.
Hệ Paleogene
Thống Oligocene


20

Phụ thống Oligocene trên
Hệ tầng Trà Tân (E32tt) – Tập địa chấn E, tập địa chấn D và tập địa chấn C
Hệ tầng Trà Tân được Ngô Thường San và nnk (1980) xác lập ở giếng khoan

15A–1X (khoan trên cấu tạo Trà Tân/ cấu tạo 15A). Các trầm tích của hệ tầng này
gồm những lớp sét đen dày, xen kẽ các lớp cát màu xám đến xám tro và những lớp
bột màu đen, xám đến xám sáng. Phần trên còn gặp các thấu kính than, các mảnh
than vụn thậm chí là các lớp sét than dày 5 ÷ 7m, có pyrit, glauconit. Cát kết có độ
hạt từ mịn đến trung, thỉnh thoảng gặp hạt thô với thành phần chủ yếu là thạch anh
(chiếm 25 ÷ 35%), fenpat (từ 25 ÷ 40%) và các loại mảnh đá (từ 10 ÷ 25%) thường
là cát kết ackoz – grauvac, một vài nơi gặp cát kết thạch anh đơn khoáng có thành
phần ximăng silic. Bột kết, sét kết có phân lớp dày dạng khối, có thêm sét
hydromica, clorit và một ít kaolinit. Hóa thạch bào tử phấn hoa gồm: F. Trilobata,
Verutricolporites, Ciccatricosiporites. Các phân tích cổ sinh hiện nay của VDK cho
các giếng khoan mới đều xác định tuổi Oligocene muộn cho hệ tầng này.
Hệ tầng Trà Tân được phủ trực tiếp lên phức hệ đá móng chung quanh trũng
địa hào lớn, hoặc được phủ trực tiếp trên hệ tầng Trà Cú tại trung tâm trũng địa hào,
được hệ tầng Bạch Hổ phủ không chỉnh hợp lên trên.
Hệ tầng Trà Tân được phân làm 3 tầng khác nhau từ dưới lên trên là tầng Trà
Tân dưới, tầng Trà Tân giữa và tầng Trà Tân trên.


Tầng Trà Tân dưới: Được liên kết với tập địa chấn E gồm chủ yếu cát kết



xen kẹp sét kết, bột kết. Cát kết arkose, lithic arkose, độ hạt mịn, trung
bình - rất thô và cuội kết, độ bào tròn từ bán góc cạnh đến bán tròn cạnh,
được gắn kết khá chắc bởi xi măng carbonate, sét, thạch anh. Sét kết màu
nâu đậm – nâu đen giàu vật chất hữu cơ. Tỉ lệ cát kết/ sét kết (cát kết
chiếm 45 -65%), tăng dần khi đi từ trung tâm của bồn về phía tây nam ở
lô 16, lô 17. Các trầm tích của tầng có thế nằm nghiêng với góc dốc lớn,
được tích tụ trong môi trường đồng bằng ven hồ, hồ nước ngọt và đồng
bằng alluvi. Tầng Trà Tân dưới là tầng chứa dầu quan trọng.

Tầng Trà Tân giữa: Được liên kết với tập địa chấn D gồm chủ yếu sét
kết, bột kết xen kẹp cát kết và các lớp mỏng than. Sét kết dày màu nâu
đậm – nâu đen rất giàu vật chất hữu cơ. Các trầm tích của tầng có thế
nằm nghiêng thoải - biến đổi nhiều, được lắng đọng trong môi trường hồ,


21



hồ sâu đến vũng vịnh, đồng bằng ven bờ, diện phân bố tương đối rộng
gần khắp toàn bồn. Tầng Trà Tân giữa đóng vai trò tầng sinh dầu/khí
chính, đồng thời cũng là tầng chắn khu vực của bồn Cửu Long.
Tầng Trà Tân trên: Được liên kết với tập địa chấn C gồm chủ yếu cát kết
xen kẹp sét kết, bột kết. Cát kết hạt thô, màu xám trắng, Sét kết màu nâu
đậm – nâu đen giàu vật chất hữu cơ giàu loại humic và sapropel, được
lắng đọng trong môi trường đầm hồ nước lợ, vũng nước ngọt và đồng
bằng alluvi, nghèo Bosedinia spp., chiếm ưu thế trong các mặt cắt giếng
khoan. Các trầm tích tầng Trà Tân trên phân bố khắp bồn, có thế nằm
nghiêng – ít biến đổi nhiều. Tại nhiều giếng khoan ở các lô 01/97 và lô
02/97 có đá magma, lớp basalt xen kẽ, phân bố diện rộng. Các trầm tích
tầng Trà Tân trên là tầng chứa dầu khí quan trọng.

Các thành tạo trầm tích này có tuổi Oligocene, phân bố rộng khắp bể Cửu
Long, chủ yếu dày ở các hố sụt trung tâm và mỏng dần ra phía rìa với bề dày
khoảng 1.300 m, ranh giới trên là một bất chỉnh hợp khu vực tương ứng nóc tập địa
chấn C. Diện tích càng được mở rộng hơn các tầng cổ. Theo các nhà địa chất dầu
khí, sét kết của hệ tầng này có hàm lượng và chất lượng VLHC cao đến rất cao, đặc
biệt là tầng Trà Tân giữa. Chúng là những tầng sinh dầu khí tốt đồng thời là tầng
chắn tốt cho đá chứa móng nứt nẻ ở bể Cửu Long. Mặc dù tầng cát kết nằm xen kẹp

có chất lượng thấm, rỗng và độ liên tục thay đổi từ kém tới tốt, nhưng cũng là đối
tượng tìm kiếm dầu khí đáng chú ý của bể.
Hệ Neogene
Thống Miocene
Phụ thống Miocene dưới
Hệ tầng Bạch Hổ (N11bh) – Tập địa chấn BI
Hệ tầng Bạch Hổ được Ngô Thường San, Hồ Đắc Hoài xác lập năm 1981 và
lấy tên theo giếng khoan Bạch Hổ-1 (BH-1) do Công ty Mobil khoan 1974.
Trầm tích hệ tầng Bạch Hổ có chiều dày từ 100 ÷ 1.500 m phân bố rộng khắp
bể Cửu Long tương ứng với tập địa chấn BI, gặp hầu hết trong các giếng khoan từ
độ sâu khoảng 1.800 ÷ 2.000 m đến khoảng 2.800 ÷ 3.000 m. Hệ tầng này bao gồm
toàn bộ các trầm tích phủ không chỉnh hợp trên hệ tầng Trà Tân và nằm dưới hệ
tầng Côn Sơn. Ranh giới dưới được xác định là không chỉnh hợp ở nóc hệ tầng Trà
Tân – nóc tập C. Ranh giới trên là nóc “tầng sét Rotalia” – nóc tập BI. Tầng sét


22

Rotalia có chiều dày từ 30 m – hơn 300 m (chủ yếu trong khoảng 10 m – 150 m).
Các nhà địa chất của công ty Deminex (1980) đã gọi tầng sét này là Rotalia band.
Hệ tầng có bề dày trầm tích thay đổi từ 100 m – 1500 m (khá ổn định từ 400 m –
800 m).
Các hóa đá đặc trưng được phát hiện: Rotalia, Ammonia,…cho thấy môi
trường trầm tích là đồng bằng ven biển – biển nông, ở phần trên nhiều sét và nhiều
cát ở dưới. Các phân tích cổ sinh hiện nay của VDK cho các giếng khoan mới đều
xác định tuổi Miocene sớm.
Hệ tầng Bạch Hổ được chia làm 2 tầng gồm tầng Bạch Hổ dưới và tầng Bạch
Hổ trên.



Tầng Bạch Hổ dưới: Các trầm tích gồm chủ yếu là cát kết, bột kết (chiếm



trên 60%), xen với các lớp sét kết. Cát kết màu trắng, hồng đục, hơi xám,
độ hạt từ mịn đến trung bình, trung bình đến thô, rất thô, độ bào mòn từ
bán sắc cạnh đến bán tròn cạnh, độ chọn lọc từ vừa đến tốt, gắn kết kém.
Sét kết màu xám tối, nâu đậm, nâu đỏ, vàng, đỏ. Xi măng gắn kết là sét
kaolinit với ít xi măng calcite, thủy mica, sericite và carbonate. Bột kết
màu xám đến nâu, xanh lá nhạt đến xám, chứa sét carbonat, bột kết từ
xốp đến cứng vừa, giàu kaolinit, chứa biotite và xi măng sét. Các trầm
tích được tích tụ trong môi trường đầm lầy, ven sông, chúng thuộc phần
giữa tam giác châu xa cửa sông. Đá magma phun trào gặp ở nóc của
tầng, phổ biến ở phía bắc bồn chủ yếu ở lô 01/97, 02/97, một ít ở cấu tạo
Ruby thành phần chủ yếu basalt, andesite – basalt, trachyt – basalt,
andesite và tuff.
Tầng Bạch Hổ trên: Các trầm tích gồm chủ yếu là sét kết màu xám, xám
xanh xen kẽ cát kết và bột kết. Ở phần dưới nhiều cát, ở phần trên nhiều
sét, trên cùng là tầng sét kết chứa Rotalia “Tầng sét Rolatia” phủ toàn bể
với bề dày từ 30 m – hơn 300 m (chủ yếu trong khoảng 10 m – 150 m)
được thành tạo trong môi trường đồng bằng ven bờ – biển nông. Đây là
tầng chắn khu vực rất tốt cho phần Trung tâm và phần Bắc của bể Cửu
Long, giảm dần khả năng chắn về phía Tây Nam khi tầng sét đã biến
tướng chuyển sang sét tạp lục địa lẫn bột. Sét kết màu nâu đỏ xen sét kết
màu xám xanh, xám trắng, xám vàng, xám hồng, hoa cà, lốm đốm xanh
lá, phân lớp mỏng chứa ít vôi, đôi chỗ chứa ít than. Bột kết và cát kết


23


không chứa vôi, dễ vỡ gắn kết yếu, vô định hình, dạng khối đôi khi cứng
và phân phiến chứa vảy mica được thành tạo trong môi trường biển
nông, vũng nước lợ – đồng bằng ven bờ thuộc các kênh rạch, sông thuộc
đồng bằng tam giác châu.
Các trầm tích hệ tầng Bạch Hổ lắng đọng trong môi trường sông, đầm lầy,
đồng bằng ven bờ ở phần dưới chuyển sang môi trường trầm tích ven bờ biển nông
ở phần trên.
Hệ tầng Bạch Hổ có những lớp cát xen kẽ các lớp sét kết, có chất lượng thấm,
độ rỗng, độ liên kết tốt, được đánh giá là đối tượng tìm kiếm dầu khí quan trọng tại
bồn Cửu Long. Dầu hiện đang được khai thác từ các lớp cát này, đặc biệt là ở mỏ
Bạch Hổ, Ruby, Rạng Đông và Sư Tử Đen.
Hệ Neogene
Thống Miocene
Phụ thống Miocene giữa
Hệ tầng Côn Sơn (N12cs) – Tập địa chấn BII
Hệ tầng Côn Sơn được Ngô Thường San xác lập năm 1980, Đỗ Bạt (1993) xác
định bao gồm cả tầng sét Rolalia) đã xác định hệ tầng Côn Sơn ở giếng khoan 15B1X.
Hệ tầng Côn Sơn được liên kết với tập địa chấn BII bao gồm toàn bộ các trầm
tích phủ không chỉnh hợp góc yếu lên các trầm tích của hệ tầng Bạch Hổ. Sự thay
đổi đột ngột vật liệu trầm tích từ sét Rotalia đến cát kết dạng khối rắn chắc, xi măng
giàu vôi, calcite, anhydrite và xen các lớp mỏng sét kết. Ranh giới dưới được thể
hiện rõ trên các phân tích cổ sinh, qua sự thay đổi đột ngột môi trường trầm tích
cũng như mức độ phong phú các phức hệ cổ sinh khi qua ranh giới. Ranh giới dưới
được xác định là nóc hệ tầng Bạch Hổ (nóc lớp sét Rotalia) – nóc tập BI. Ranh giới
trên được xác định là đáy tầng cát dày của trầm tích hệ tầng Đồng Nai – nóc tập BII
nằm ngang.
Các trầm tích hệ tầng Côn Sơn chủ yếu gồm các lớp cát kết ackoz – lithic dày
với xi măng sét, cacbonat, giàu dolomite, anhydrite và calcite ở phần dưới của hệ
tầng, có màu xám vàng nhạt – xám, nâu nhạt, độ hạt từ mịn đến thô, độ bào mòn từ
á sắc cạnh đến tròn cạnh, độ chọn lọc từ kém đến trung bình, gắn kết kém đến cứng

- rất cứng, dạng khối, xen kẽ các lớp bột kết, sét kết phân lớp, đá vôi sét chiếm gần


24

5% và đôi chỗ gặp các lớp than mỏng, phong phú glauconite. Nhiều mảnh đá, vật
liệu than, ít pirite. Độ rỗng hệ tầng khoảng từ 15 ÷ 20% với độ gắn kết yếu, khả
năng thấm chứa. Tuy nhiên tại đây lại vắng các tầng chắn khu vực nên hệ tầng này
cùng với các hệ tầng trẻ hơn không có triển vọng dầu khí. Bào tử phấn hoa thuộc
phức hệ Florschuetzia, Acrostichum, Rhizophora, phong phú Foraminifera. Các
phân tích cổ sinh hiện nay của VDK cho các giếng khoan mới đều xác định tuổi
Miocen trung cho hệ tầng này. Môi trường trầm tích là alluvi ở phía Tây, sang phía
Đông là đầm lầy – đồng bằng ven bờ. Bề dày thay đổi trong khoảng 250 ÷ 900 m.
Hệ Neogene
Thống Miocene
Phụ thống Miocene trên
Hệ tầng Đồng Nai (N13đn) – Tập địa chấn BIII
Hệ tầng Đồng Nai được Ngô Thường San xác lập năm 1980 ở giếng khoan 15G-1X.
Hệ tầng Đồng Nai gồm toàn bộ trầm tích phủ không chỉnh hợp góc yếu trên
trầm tích hệ tầng Côn Sơn và nằm dưới hệ tầng Biển Đông. Ranh giới dưới tiếp
giáp với hệ tầng Côn Sơn – nóc tập BII, được xác định bởi lớp cát dày ở đáy hệ tầng
Đồng Nai có gamma thấp hơn. Ranh giới trên tiếp giáp hệ tầng Biển Đông – nóc tập
BIII, được đặt ở đáy tầng cát có đặc điểm phân lớp dày, dạng khối và có giá trị
gamma thấp.
Hệ tầng có bề dày thay đổi từ 500 ÷ 750 m với thành phần chủ yếu là cát kết
xen các lớp mỏng sét kết, đá vôi, dolomite và các lớp mỏng than, chứa nhiều hóa đá
biển. Phần dưới gồm những lớp cát xen các lớp sét mỏng, vài nơi có lẫn cuội sỏi
kích thước nhỏ. Phần trên là cát thạch anh có kích thước lớn với độ chọn lựa kém,
hạt sắc cạnh. Nhìn chung mức độ gắn kết yếu, đôi chỗ còn bở rời. Cát kết màu xám,
xám sáng, xám phớt nâu, độ hạt trung đến thô lẫn sạn sỏi đôi khi có cuội, thành

phần chủ yếu là thạch anh, một ít các mảnh đá biến chất, tuff và các tinh thể pyrit
được gắn kết bằng ximăng sét cacbonat, có cấu tạo phân lớp dày hoặc dạng khối, độ
chọn lọc và mài tròn trung bình – kém. Các lớp sét montmorilonit màu nâu dẻo
dính, có bề dày tới 20 m. Trong sét thỉnh thoảng cũng gặp than nâu hoặc bột màu
xám sáng.


25

Các trầm tích gắn kết yếu của hệ tầng Đồng Nai được thành tạo trong môi
trường đầm lầy – đồng bằng ven bờ ở phần Tây của bể và biển nông – lòng sông ở
phần Đông , với các hóa đá đặc trưng là Dacrydium, Operculina. Các trầm tích hệ
tầng gần như nằm ngang, nghiêng thoải và không biến vị, không có tiềm năng dầu
khí.
Hệ Neogene
Thống Pliocene
Hệ tầng Biển Đông (N2 – Qbđ) – Tập địa chấn A
Hệ tầng Biển Đông được Lê Văn Cự, Hồ Đắc Hoài xác lập năm 1982.
Trầm tích hệ tầng Biển Đông phủ bất chỉnh hợp lên trầm tích Miocene, phân
bố rộng khắp thềm lục địa Việt Nam, nằm gần như ngang, nghiêng thoải, không bị
biến vị, với bề dày thay đổi từ 400 ÷ 700 m, độ dày tăng dần về phía Biển Đông.
Thành phần chủ yếu của hệ tầng là cát mịn – bột – sét, phần trên cát trở nên thô hơn
và trong cát có lẫn bột, cát màu hồng. Phần trên cùng là các thành tạo Đệ Tứ gồm
cát bở rời xen kẽ sét màu xám sáng chứa lượng lớn Foraminifera: cát ackoz, cát
thạch anh màu xanh, trắng có độ mài tròn trung bình, độ lựa chọn kém và chứa
nhiều khoáng vật glauconit. Thành phần khoáng vật gồm thạch anh, oligoclaz,
octoclaz, mica với ximăng cacbonat sáng màu, dạng khối ở một số tập. Tuy nhiên
vẫn còn tồn tại trạng thái bở rời và gắn kết yếu ở một số tập khác. Sét cacbonat sáng
màu chiếm 30% và sét monmorilonit nâu chiếm 25% phân lớp, có chứa nhiều mảnh
vỏ động vật. Môi trường thành tạo trầm tích là biển nông, rất giàu hóa đá biển (đôi

khi tạo thành khoảng địa tầng chủ yếu là các mảnh sinh vật biển), có các phức hệ cổ
sinh gồm Florschuetzia meridionalis, Pinus, ...
I.3.4. Lịch sử phát triển địa chất.
Bể trầm tích Cửu Long là bể rift nội lục điển hình, bể được hình thành và phát
triển trên mặt đá kết tinh trước Kainozoi (thường được gọi là mặt móng).


×