Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.09 KB, 4 trang )

Phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ
Chí Minh
Phân tích Chiều tối để thấy được vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cách
mạng. Đồng thời, cần nổi bật được vẻ đẹp cổ điển và hiện đại trong tác
phẩm Chiều tối. Sau đây, là phần phân tích bài thơ Chiều tối của Hồ Chí
Minh.

Mở bài Chiều tối
Raxun Gamzatop từng nhận định “Thơ sinh ra từ tình yêu và lòng căm thù, từ nụ
cười trong sáng hay những giọt nước mắt cay đắng”. Vâng, thơ chính là tiếng
nói của tư tưởng tình cảm, là người thư kí trung thành của người nghệ sĩ. Tiếng
nói ấy có khi là tiếng giận dữ căm hờn, có khi là tiếng khóc than thảm thiết và
cũng có khi là tiếng reo hân hoan của niềm vui, niềm hạnh phúc. Thả hồn vào
thiên nhiên, vào cuộc sống núi rừng, Bác đã cất lên tiếng êm ả, thanh bình của
núi rừng vào lúc chiều tối qua bài thơ “Chiều tối”.
Bài thơ được khởi hứng ở cuối chặng đường chuyển lao của Hồ Chí Minh từ Tĩnh
Tây đến Thiên Bảo vào lúc chiều tối giữa núi rừng. Mặc dù bị xiềng chân, xích
tay, nhiều khi phải lăn lội tới “Năm mươi ba cây số một ngày – Áo mũ dầm mưa
rách hết giày” nhưng người không hề bị vướng bận bởi khó khăn gian khổ, tâm
hồn người không bị giam hãm bởi xiềng xích mà tự nó vượt lên tất cả, hòa mình
vào thiên nhiên, cuộc sống núi rừng.

Thân bài
Mở đầu bài thơ là khung cảnh thiên nhiên núi rừng rộng lớn, vắng lặng với cánh
chim mỏi mệt đang bay về tổ dưới chòm mây nhẹ trôi:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không


(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)


Nhà thơ Phương Lựu từng nhận định: “ Thơ ca là tiếng hát của trái tim, là nơi
dừng chân của tinh thần, do đó không đơn giản mà cũng không thần bí, thiêng
liêng”. Có lẽ người chiến sĩ cách mạng, người thi sĩ ấy đã có khoảng lặng của
tâm hồn để cất lên tiếng hát êm ả sau chặng đường mệt mỏi. Miêu tả thiên
nhiên, nhà thơ sử dụng thi liệu quen thuộc trong thơ ca khi viết về buổi chiều.
Mây và chim là hai nét chấm phá cho bức tranh thêm sinh động. Nhà thơ không
thiên về tả mà thiên về gợi để ghi lấy linh hồn của tạo vật. Đó là nét đơn sơ,
hoang dã của thiên nhiên miền sơn cước.
Trong vườn thơ trung đại Việt Nam, có biết bao thi sĩ từng động lòng trước cánh
chim buổi chiều tà: “Chim hôm thoi thót về rừng” (Nguyễn Du), “Ngàn mai gió
cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan). Nhưng hình tượng cánh chim
trong thơ Bác không chỉ được cảm nhận ở bên ngoài mà được cảm nhận rất sâu
ở trạng thái bên trong “chim mỏi”. Phải chăng cái mỏi của những cánh chim đi
tìm chốn ngủ sau một ngày kiếm ăn cũng chính là cái mỏi mệt của người tù sau
một ngày vất vả lê bước đường trường. Ngoại cảnh dường như chính là tâm
cảnh. Nhà thơ hòa hợp đồng điệu tâm hồn mình với cảnh vật. Cội nguồn của sự
cảm thương ấy là tình yêu mênh mang của Bác với sự sống trên đời cùng với
cánh chim bay về tổ là chòm mây trôi nhẹ giữa thinh không: “Cô vân mạn mạn
độ thiên không”. Nếu trong thơ ca cổ gợi đầy đủ về sự vĩnh viễn, hư không:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến) thì trong vần thơ của Bác là
một chòm mây cô đơn đang chậm chậm trôi trên bầu trời. Hình ảnh thơ gợi tâm
trạng lẻ loi, đơn độc và sự băn khoăn trăn trở chưa biết tương lai sẽ đến đâu của
người tù nơi đất khách. Ta từng bắt gặp đám mây cô độc trong vần thơ của Lí
Bạch:
Chúng điều cao phi tận
Cô vân độc khứ nhàn
Nếu vần thơ của Lí Bạch gợi cảm giác về sự thoát tục thì thơ Bác là cánh chim
yên ả của đời sống thường ngày. Có lẽ dù trong hoàn cảnh nào tâm hồn Bác vẫn



luôn hướng về thiên nhiên, vẫn có cái nhìn trìu mến dõi theo từng biểu hiện của
tạo vật. Con đường chuyển lao đầy đau đớn mệt mỏi vậy mà cảm hứng thơ vẫn
đến với Bác. Đó là dáng vẻ của bậc tao nhân mặc khách đang ung dung thưởng
ngoạn cảnh chiều hôm núi rừng. Ý chí vượt lên hoàn cảnh cùng ước mong sum
họp, khát vọng tự do của một người tù đày nơi đất khách đã thôi thúc tâm hồn
của người nghệ sĩ đến với thiên nhiên, sống hết mình với thiên nhiên. Bức tranh
thiên nhiên cổ điển bình dị không chỉ có hình xác mà còn có hồn – cái hồn của
con người hòa hợp, tương giao với thiên nhiên.
B. Shelly từng nhận định “Thi sĩ là một con chim sơn ca ngồi trong bóng tối hát
lên những tiếng êm dịu để làm vui cho sự cô độc của chính mình”. Phải chăng
trong bóng tối của núi rừng kia, người nghệ sĩ cảm nhận được tiếng xay ngô cót
két của người thiếu nữ, cảm nhận sự sống đang hân hoan trong lòng:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng)
Trong thơ xưa con người xuất hiện theo tính chất ước lệ, thường ẩn đi, chìm đi
như muốn hòa vào thiên nhiên:
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà
Còn con người trong thơ Bác là con người lao động, là trung tâm của bức tranh
thơ. Đó là hình ảnh một cô gái đang xay ngô dưới núi bên ánh lửa hồng. Cô gái
hiện lên với vẻ đẹp trẻ trung, khỏe mạnh tràn đầy sức sống. Người thiếu nữ
không trở nên nhỏ bé yếu ớt trước thiên nhiên mà trở thành điểm sáng của bài
thơ, trung tâm của cảnh vật. Hình ảnh “lô dĩ hồng” là hình ảnh bình dị của đời
sống làm bừng sáng, xua đi cái lạnh lẽo nơi núi rừng bởi lửa là tượng trưng cho
sự sống, cho ánh đèn sinh hoạt của con người. Đối với người tù đày như Bác,
hình ảnh lò than đó rực hồng đem lại cho người sự ấm áp, niềm vui và hạnh
phúc bình dị thường ngày. Một lần nữa ta nhận ra cái nhìn trìu mến hướng về sự



sống của Người. Nó bắt nguồn từ niềm quan tâm của Bác với con người. Bác
không chỉ cảm thông mà có cả niềm vui, niềm thích thú trước vẻ đẹp của sự
sống. Người quên đi nỗi khổ của mình để chia sẻ với người dân tự do tự chủ.
Dường như trong sự vận động của thơ có sự chảy trôi của thời gian. Bánh xe
thời gian đang lăn dần từ chiều tà đến đêm khuya bởi ba từ “ma bao túc” được
điệp vòng ở câu cuối. Sự nối âm liên hoàn, nhịp nhàng vừa diễn tả vòng quay
không dứt của động tác xay ngô vừa diễn tả dòng lưu chuyển của thời gian.
Kết thúc bài thơ là chữ “hồng” giúp người đọc hình dung ra bóng tối đang buông
xuống xóm núi bởi khi nào trời tối người đi đường mới thấy được ánh lửa rực
hồng đến thế. Chữ “hồng” vang lên như một thanh âm trong trẻo giữa núi rừng,
làm bừng sáng bức tranh nơi núi rừng, xua tan đi bóng tối, sưởi ấm tâm hồn cô
đơn, hiu quạnh đang nhớ quê hương da diết của thi nhân. Qua đó hình ảnh thơ
thể hiện cái nhìn lạc quan tươi sáng của người chiến sĩ cộng sản trong hoàn
cảnh tù đày gian khổ. Người không chỉ hướng về sự sống mà còn hướng về ánh
sáng và tương lai. Cùng với đó chữ “hồng” thể hiện sự vận động trong tâm trạng,
chất thép và trí tuệ của con người Hồ Chí Minh.

Kết bài Chiều tối
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa phong cách cổ điển và hiện
đại, giữa vẻ đẹp giản dị mà sâu sắc. Bài thơ diễn tả phong cảnh thiên nhiên và
đời sống một cách chân thực, hàm súc đồng thời thể hiện tình yêu, sự gắn bó
với con người, thiên nhiên cùng lòng nhân ái đạt đến độ quên mình của nhà thơ.
Người làm thơ trong tình cảnh khốn khó mà vẫn để tâm hồn mình hướng tới
thiên nhiên và niềm hạnh phúc đơn sơ của con người.



×