Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận hết môn Tâm lý học sức khỏe: Lịch sử hình thành và phát triển Tâm lý học sức khỏe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.96 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
MÔN: TÂM LÝ HỌC SỨC KHỎE
------------------------------

BÀI TIỂU LUẬN THI HẾT MÔN
CHỦ ĐỀ 1: LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN TÂM LÝ HỌC SỨC KHỎE

HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN VIỆT ANH
KHOA: XÃ HỘI HỌC
MÃ SINH VIÊN: 12031110


1. Đặt vấn đề
Đối với nhiều người, sự khỏe mạnh đơn giản chỉ là cơ thể không đau
yếu hoặc nhanh chóng bình phục sau bệnh tật. Thế nhưng lại có một số vấn
đề thật khó để lý giải, chẳng hạn như: Tại sao những người đàn ông đã kết
hôn thường sống lâu hơn những người không lập gia đình?; Khảo sát những
người nhiễm HIV dương tính, các nhà nghiên cứu nhận thấy tâm trạng lạc
quan gia tăng tế bào kháng thể và nâng cao khả năng đề kháng của người
bệnh; Việc thực hiện các lễ nghi tôn giáo tại sao lại khiến con người cảm thấy
khỏe mạnh hơn?... Dường như giữa thể chất và tâm lý của con người luôn tồn
tại một mối liên hệ nào đó. Sự ra đời của Tâm lý học sức khỏe vào đầu thế kỷ
XX – một ngành khoa học còn khá mới mẻ – đã giúp chúng ta giải đáp những
thắc mắc đó.
2. Mối quan hệ giữa cơ thể và tâm lý – Những ý tưởng khởi nguồn
của Tâm lý học sức khỏe
Trong lịch sử, mối quan hệ giữa tâm lý và cơ thể luôn là chủ đề gây
tranh cãi đối với các nhà triết học, các nhà tâm lý học và các nhà sinh lý học1.
Họ luôn phân vân giữa ý kiến cho rằng cơ thể và tâm lý là các thành tố của


cùng một hệ thống và ý kiến chúng thuộc về hai hệ thống hoàn toàn tách biệt
với nhau. Khi chúng ta nhìn về lịch sử cổ đại, mọi thứ trở nên sáng tỏ hơn khi
trở về điểm xuất phát là quan điểm của con người về mối quan hệ giữa cơ thể
và tâm lý.
Trong suốt thời tiền sử, phần lớn các nền văn hóa đều cho rằng cơ thể
và linh hồn luôn gắn kết với nhau. Bệnh tật nảy sinh khi những linh hồn dữ
xâm nhập vào cơ thể, và người cổ đại chữa bệnh bằng cách cố gắng xua đuổi
những linh hồn đó2. Nhiều đầu lâu từ thời kỳ đồ đá có những lỗ nhỏ, cân đối
mà ngày nay chúng ta tin rằng những lỗ đó được tạo ra một cách cố ý bằng
1

Marian Pitts & Keith Phillips (1998), The Psychology of Health 2
Lane, London, 5 -6.
2
Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill, 4.

2

nd

edition, by Routlege, 11 New Fetter


cách dùng những vật sắc nhọn để những linh hồn dữ thoát ra khỏi cơ thể,
cùng với đó là việc các pháp sư biểu diễn những nghi lễ shaman để chữa
bệnh. Họ còn tin rằng, các phù thủy – những kẻ có ma thuật và năng lực siêu
nhiên – có thể dùng bùa phép để khiến cho một người mắc bệnh hoặc thậm
chí là chết.
Người Hy Lạp cổ đại được cho là những người đầu tiên phát hiện ra
vai trò của các yếu tố thể chất đối với sức khỏe và bệnh tật. Không đổ tại cho

những linh hồn dữ gây ra sự đau yếu, người Hy Lạp cổ đại phát triển những
lý luận riêng của họ về bệnh tật. Alkmeon, Arixtote đã nói đến mối quan hệ
giữa hiện tượng tâm lý và não, mối quan hệ giữa cơ thể và bệnh tật.
Hyprocrat và sau đó là Galen đã đề cập tới yếu tố dịch thể trong mối quan hệ
giữa tâm lý và cơ thể. Theo quan điểm của họ, con người mắc bệnh khi bốn
thể dịch của cơ thể là: máu, mật đen, mật vàng và niêm dịch mất đi sự cân
đối, hài hòa3. Bởi vậy, mục tiêu của việc chữa bệnh là phục hồi trạng thái cân
bằng của các thể dịch này trong cơ thể. Mặc dù vậy, họ cũng đã nhấn mạnh
đến vai trò của tâm lý. Người Hy Lạp cổ đại đưa ra một nhóm các tính cách
dựa trên các thể dịch này: Những người có quá nhiều máu sẽ là người vui vẻ,
năng động, lạc quan. Những người có nhiều niêm dịch sẽ là những người
chậm chạm, ể oải. Những người có quá nhiều mật vàng rất hay nóng nảy và
những người có nhiều mật đen sẽ hay u buồn. Tương ứng với bốn loại thể
dịch là bốn cách chữa bệnh khác nhau. Người Hy Lạp cho rằng bệnh tật có
nguồn gốc từ các yếu tố thể chất nhưng đồng thời cũng tin rằng các yếu tố
tâm lý cũng có ảnh hưởng nhất định.
Tuy nhiên, tới thời Trung cổ, những kẻ hay do dự, lung lạc lại dùng
những yếu tố siêu nhiên để giải thích nguồn gốc của bệnh tật. Họ cho rằng
bệnh tật là sự trừng phạt của Chúa đối với những hành động tội lỗi của con
người, và phương thức chữa bệnh chính là xua đuổi mọi tội lỗi bằng cách tra

3

Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill, 4.

3


tấn cơ thể bệnh nhân. Sau đó, hình thức chữa bệnh này được thay bằng việc
sám hối thông qua cầu nguyện và làm điều thiện.

Bắt đầu từ thời Phục hưng cho tới nay, y học đã phát triển và có những
bước tiến vĩ đại. Đến cuối thế kỷ 18, nhận thức của con người đã tiến xa hơn
một chút với khái niệm về bệnh lý mô. Điều này bao gồm nhận thức về việc
các mô trong một cơ quan có thể bị bệnh trong khi các mô lân cận lại không
bị ảnh hưởng. Vào thế kỷ 19, con người đạt được bước tiến lớn hơn nữa khi
phát hiện ra rằng mô động vật được tạo thành từ các tế bào. Các tế bào được
xem là nguồn gốc của sự sống và do đó nó cũng trở thành nơi để con người
tìm kiếm nguồn gốc của bệnh tật. Sau đó bệnh tật được xem là sự phản ứng
lại của các tế bào với các kích thích bất thường, dẫn tới việc các tế bào bị trục
trặc, trở nên suy yếu, bị thay đổi hoặc bị chết4.
3. Mô hình y sinh của Y học
Như vậy là vào thế kỷ 19, nền y học hiện đại đã được thiết lập. Người
ta nghiên cứu cơ thể con người thông qua việc giải phẫu và những khảo sát y
học. Học thuyết của Darwin - “Nguồn gốc của các loài” được công bố vào
năm 1856 đã nêu ra thuyết tiến hóa. Học thuyết mang tính cách mạng này đã
chỉ ra vị trí của con người trong tự nhiên và cho rằng chúng ta là một phần
của tự nhiên, chúng ta phát triển từ tự nhiên và chúng ta là một loài sinh vật.
Điều này hoàn toàn phù hợp với mô hình y sinh của y học, trong đó nghiên
cứu con người theo cùng một cách mà tất cả các loài sinh vật khác được
nghiên cứu từ trước đó5. Mô hình này mô tả con người có sự đồng nhất về
mặt sinh học với tất cả các loài sinh vật khác. Mô hình y sinh học của y học
có thể được hiểu rõ thông qua việc trả lời các câu hỏi:
Điều gì gây nên bệnh tật? Theo mô hình y sinh của y học, bệnh tật đến
từ bên ngoài cơ thể, tấn công cơ thể và gây ra những biến đổi bên trong cơ
4
5

/>rd
Jane Ogden (2004), Health Psychology – A textbook 3 edition, Mc Graw Hill, 2.


4


thể. Bệnh tật có thể do nhiều yếu tố gây nên như sự mất cân bằng, vi khuẩn,
virút hoặc các yếu tố di truyền.
Ai là người chịu trách nhiệm cho bệnh tật? Bởi vì bệnh tật nảy sinh từ
các yếu tố sinh học vượt quá khả năng kiểm soát của con người, nên các cá
nhân không phải là người gây ra bệnh. Họ được nhìn nhận như là các nạn
nhân của những sự tấn công từ bên ngoài gây ra những thay đổi ở bên trong
cơ thể.
Bệnh nhân nên được chữa trị như thế nào? Mô hình y sinh cho rằng
chữa bệnh thì cần sử dụng các loại vắcxin, phẫu thuật, sử dụng các hóa chất
hoặc tia X,… - tất cả những yếu tố đó đều nhằm mục đích thay đổi tình trạng
của cơ thể người bệnh.
Ai là người chịu trách nhiệm chữa bệnh? Người chịu trách nhiệm điều
trị bệnh là các chuyên gia y tế: bác sĩ, y tá,...
Mối quan hệ giữa sức khỏe với bệnh tật là như thế nào? Trong mô
hình y sinh, sức khỏe và bệnh tật được xem là những trạng thái hoàn toàn
khác biệt – con người chỉ có thể hoặc là khỏe mạnh hoặc là đau yếu, không
có trạng thái nào ở giữa 2 thái cực đó.
Mối quan hệ giữa giữa cơ thể và tâm lý là như thế nào? Cũng theo mô
hình y sinh, chức năng của tâm lý và cơ thể là hoàn toàn độc lập, không phụ
thuộc lẫn nhau. Quan điểm này khá tương đồng với thuyết nhị nguyên truyền
thống về sự phân tách giữa tâm lý – cơ thể. Theo đó, tâm lý không thể gây ra
những ảnh hưởng đến thể chất, tâm lý và cơ thể được xác định như là những
thành tố riêng biệt. Thay đổi thể chất được xem như không có liên quan tới
những thay đổi trong trạng thái tâm lý.
Vai trò của tâm lý đối với sức khỏe và bệnh tật ra sao? Bệnh tật có thể
dẫn đến những hệ quả về mặt tâm lý, nhưng bệnh tật không phải do yếu tố
tâm lý gây ra. Ví dụ, bệnh ung thư có thể khiến con người cảm thấy đau khổ

5


nhưng những xúc cảm của con người lại không được xem là có liên quan tới
sự khởi nguồn hay tiến trình của bệnh ung thư.
Mặc dù mô hình y sinh đem lại những lợi ích không thể chối cãi trong
việc nghiên cứu một số loại bệnh tật, song mô hình này vẫn còn có những
hạn chế. Trước hết, đây là một mô hình giản hóa luận. Điều đó có nghĩa là nó
đã biến bệnh tật thành các quá trình cấp thấp – như là sự rối loạn các tế bào
hay mất cân bằng hóa học; nó phủ nhận vai trò của các yếu tố xã hội và tâm
lý đối với bệnh tật. Thứ hai, về bản chất, mô hình y sinh là một mô hình đơn
nhân tố – Nó giải thích bệnh tật chỉ là do sự làm việc sai chức năng của các
cơ chế sinh học, mà thực chất bệnh tật là do rất nhiều nhân tố gây ra – và chỉ
một vài trong số các nhân tố đó là thuộc về các nguyên nhân sinh học. Thứ
ba, mô hình y sinh khẳng định tuyệt đối về sự chia tách giữa hai yếu tố tâm lý
và cơ thể. Và cuối cùng, mô hình y sinh quá nhấn mạnh đến bệnh tật hơn là
sức khỏe con người, nghĩa là, nó tập trung nghiên cứu vào những sự bất
thường dẫn đến bệnh tật hơn là những điều kiện, những yếu tố có thể góp
phần nâng cao sức khỏe6. Do đó, sự thiếu sót của mô hình y sinh là rất lớn.
Một điều chắc chắn là sự phát triển của bệnh tật ngoài ra còn chịu ảnh hưởng
của những yếu tố tâm lý và xã hội – những yếu tố này bị bỏ qua trong mô
hình y sinh.
4. Y học tâm thể và Y học hành vi
Trong thế kỷ 20, nhiều ngành nghiên cứu mới đã phát triển như Y học
tâm thể, Y học hành vi như một sự phản đối lại Mô hình y sinh của Y học ở
thế kỷ 19. Những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau này đã làm sáng tỏ vai trò
ngày càng quan trọng của tâm lý đối với sức khỏe và sự thay đổi nhận thức
về mối quan hệ giữa cơ thể và tâm lý. Có thể nói rằng, những quan niệm hết
sức tiến bộ này đã trở thành một trong những cơ sở cho sự ra đời của Tâm lý
học sức khỏe sau này.

6

Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill, 6 - 7.

6


Y học tâm thể
Việc tìm hiểu mối liên hệ mật thiết giữa đời sống cảm xúc của con
người và các quá trình sinh lý của cơ thể được khởi xướng trong nhiều nghiên
cứu đầu thế kỷ 20. Y học tâm thể đã ra đời trên nền tảng những nghiên cứu
đó. Năm 1938 tạp chí “Y học tâm thể” ra đời ở Mỹ và chỉ một năm sau đó,
“Hiệp hội khoa học Tâm thể Mỹ” được hình thành và trong 25 năm đầu tiên
tồn tại của nó quan niệm về bệnh tật chủ yếu dựa vào nền tảng lý luận của
Phân tâm học và Tâm thần học.
Đầu thế kỷ XX, Sigmund Freud đã bày tỏ sự quan tâm sâu sắc của
mình đối với các bệnh tâm thể trong lá thư của ông gửi cho Georg Groddeck
– người chuyên nghiên cứu các khả năng điều trị rối loạn thể chất thông qua
các quá trình tâm lý vào thời điểm đó7. Freud đã phát triển lý thuyết về việc
các quá trình tâm lý nhất định có thể dẫn đến rối loạn thể chất như thế nào,
chẳng hạn như sự kích động chuyển đổi. Ông cho rằng các cuộc xung đột vô
thức có thể tạo ra các rối loạn thể chất cụ thể - các rối loạn này tượng trưng
cho sự xung đột tâm lý bị dồn nén. Cuộc xung đột được chuyển đổi thành
một triệu chứng: ví dụ như việc đột ngột mất giọng nói và thính giác, liệt cơ,
bệnh động kinh giả8.
Năm 1932, Walter Cannon quan sát thấy rằng những cảm xúc có thể
gây ra những thay đổi sinh lý trong cơ thể có thể dẫn đến bệnh tật, ví dụ: sự
lo lắng có liên quan đến việc tăng nhịp tim, huyết áp,… Dựa trên những quan
sát này, vào những năm 30 và 40, Flanders Dunbar và Franz Alexander đã
liên kết các kiểu mẫu tính cách với từng loại bệnh cụ thể9. Không giống như

Freud xem các rối loạn thể chất như là một vấn đề hoàn toàn thuộc về tâm
thần, Dubar và Alexander đề xuất rằng các cuộc xung đột tâm lý có thể gây ra
sự bất an, và sự bất an này tác động lên các cơ chế sinh lý của cơ thể thông
7

Erwin, Edward (2002), The Freud Encyclopedia: Theory, Therapy and Culture, Routledge, 245.
Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill, 5.
9
/>8

7


qua hệ thần kinh tự chủ. Hệ thần kinh tự chủ là một bộ phận của hệ thần kinh
trung ương, làm nhiệm vụ thiết lập các tác động giữa cơ thể và môi trường,
đặc biệt là điều hoà các quá trình hoạt động bên trong cơ thể. Các loại rối
loạn mà Dunbar và Alexander nhận thấy có liên kết với tính cách là các
chứng rối loạn bị kiểm soát trực tiếp bởi hệ thống thần kinh tự chủ (ví dụ:
Bệnh tim, viêm loét, hen suyễn, cao huyết áp, viêm khớp dạng thấp, viêm đại
tràng,…). Chẳng hạn, tăng huyết áp được cho là gây ra bởi sự tức giận bị kìm
nén, chứng viêm loét là do những suy nghĩ được gây ra bởi những cảm xúc
dồn nén như sự thất vọng.
Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến phản đối học thuyết của Dunbar và
Franz. Trước hết, những người phản đối cho rằng những nghiên cứu trên mới
chỉ dựa vào những phương pháp luận hết sức mơ hồ, và không phù hợp với
nền khoa học hiện đại ngày nay. Thứ hai, quan trọng hơn là những người
phản đối cho rằng những xung đột nội tâm riêng lẻ hay là kiểu nhân cách của
mỗi cá nhân là không đủ để gây ra bệnh tật10. Mặc dù chịu nhiều ý kiến phản
đối, song không thể phủ nhận rằng những thành tựu đầu tiêng của Y học tâm
thể đã đặt nền tảng cho sự thay đổi sâu sắc trong nhận thức về mối tương tác

giữa tâm lý và cơ thể. Ngày nay, Y học tâm thể được coi là một chuyên khoa
của Tâm thần học và Thần kinh học. Phương pháp điều trị y tế và tâm lý trị
liệu được sử dụng để điều trị các rối loạn tâm thể11.
Y học hành vi
Từ những năm 1960, trong lòng Y học tâm thể đã hình thành và phát
triển các phương pháp tiếp cận và lý thuyết về mối quan hệ qua lại giữa các
yếu tố tâm lý và các yếu tố xã hội, các yếu tố tâm lý và các yếu tố sinh lý. Y
học hành vi xuất hiện từ những năm 1970. Lee Birk là người đầu tiên sử dụng

10

Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill, 6.
Wise TN (2008). "Update on consultation-liaison psychiatry (psychosomatic medicine)". Curr Opin
Psychiatry.
11

8


thuật ngữ “Y học hành vi” trong tiêu đề một cuốn sách được xuất bản vào
năm 1973 của mình12.
Y học hành vi là một liên ngành kết hợp cả hai lĩnh vực y học và tâm
lý học; là sự tích hợp của kiến thức trong sinh học, hành vi, tâm lý, và khoa
học xã hội có liên quan đến sức khỏe và bệnh tật. Y học hành vi đặc biệt phát
triển ở Mỹ, nơi mà nguyên nhân của rất nhiều các vấn đề sức khỏe chủ yếu là
do hành vi và lối sống của con người như: hút thuốc lá, ít vận động, lạm dụng
rượu hoặc ma túy…Tất cả các yếu tố trên đều nằm trong các nguyên nhân
gây tử vong hàng đầu tại Mỹ. Y học hành vi sử dụng các phương pháp trị liệu
hành vi, mô hình hóa hành vi và đặc biệt là kỹ thuật trị liệu “mối liên hệ
ngược sinh học” để chữa trị một số loại bệnh.

Đến năm 1974, Trung tâm Y học hành vi thành lập bởi John Paul
Brady và Ovide Pomerleau F. tại Đại học Pennsylvan và Phòng thí nghiệm
cho nghiên cứu Y học hành vi được thành lập tại Đại học Stanford. Vào năm
1978 và năm 1979, Hiệp hội Y học hành vi, Viện Nghiên cứu Y học hành vi,
tạp chí Y học hành vi được thành lập.
5. Tâm lý học sức khỏe
Việc thừa nhận Tâm lý học sức khỏe là một lĩnh vực nghiên cứu riêng
biệt mới chỉ diễn ra gần đây. Mặc dù yếu tố tâm lý sức khỏe đã được nghiên
cứu từ những năm đầu thế kỷ 20 bởi các ngành như Y học tâm thể và Y học
hành vi, nhưng đó chủ yếu là các nhánh của Y học chứ không phải của Tâm
lý học. Tâm lý học sức khỏe bắt đầu xuất hiện như một môn học riêng biệt
của ngành Tâm lý học tại Hoa Kỳ trong những năm 1970. Vào giữa thế kỷ
20, những hiểu biết y học về tác động của hành vi lên sức khỏe ngày càng
được nâng cao. Chẳng hạn, trong nghiên cứu ở hạt Alameda vào những năm
60 cho thấy những người ăn uống điều độ, duy trì một trọng lượng cơ thể ổn
định, được ngủ đủ giấc, không hút thuốc lá, không uống rượu và tập thể dục
12

A Brief History of the Orgins of Behavioral Medicine, />
9


đều đặn có sức khỏe tốt hơn và sống thọ hơn13. Ngoài ra, các nhà tâm lý học
và các nhà khoa học khác đã phát hiện ra mối quan hệ giữa các quá trình tâm
lý và sinh lý người, chẳng hạn như là sự hiểu biết đầy đủ hơn về tác động của
sự căng thẳng tâm lý xã hội lên hệ thống tim mạch và miễn dịch, v…v…
Các nhà tâm lý học đã làm việc trong môi trường y học trong nhiều
năm. Dù vậy đó chỉ là một lĩnh vực tương đối nhỏ, với mục đích chủ yếu là
giúp đỡ bệnh nhân điều chỉnh bệnh tật. Năm 1969, William Schofield chuẩn
bị một báo cáo cho Hiệp hội tâm lý học Mỹ (APA) với tiêu đề “Vai trò của

Tâm lý học trong việc cung ứng các dịch vụ y tế”14. Dù có một số trường hợp
ngoại lệ, nhưng ông nhận thấy rằng phần lớn các nghiên cứu tâm lý thường
xem xét sức khỏe tâm thần và sức khỏe thể chất là hai mặt riêng biệt, và ít coi
trọng đến tác động của các yếu tố tâm lý lên sức khỏe thể chất. Là một trong
số ít các nhà tâm lý học làm việc trong lĩnh vực này vào thời điểm đó,
Schofield đề xuất hình thức giáo dục và đào tạo mới cho các nhà tâm lý học
trong tương lai. Đáp ứng đề nghị của ông, vào năm 1973 APA cho thành lập
một tổ chức chuyên biệt để xem xét làm thế nào các nhà tâm lý học có thể (a)
giúp mọi người kiểm soát những hành vi liên quan đến sức khỏe, (b) giúp đỡ
các bệnh nhân kiểm soát các vấn đề về sức khỏe thể chất, và (c) đào tạo nhân
viên chăm sóc sức khỏe để làm việc hiệu quả hơn với bệnh nhân15.
Được dẫn dắt bởi Joseph Matarazzo, vào năm 1977, APA thành lập
thêm một ban phục vụ cho việc nghiên cứu Tâm lý học sức khỏe. Tại hội
nghị đầu tiên, Matarazzo phát biểu rằng việc xác định vị trí của Tâm lý học
sức khỏe là hết sức quan trọng. Ông cho rằng: “Tâm lý học sức khỏe là một
tổ hợp của những đóng góp về mặt giáo dục, khoa học và nghề nghiệp đặc
thù của ngành Tâm lý học với tư cách là một phân ngành khoa học về việc
bảo vệ và hỗ trợ sức khỏe, phòng ngừa và điều trị bệnh tật, nghiên cứu về

13

Belloc N. & Breslow L. (1972), Relationship of physical health status and health practices. Preventive
Medicine, 1(3), 419 - 421.
14
Schofield (1969), The role of psychology in the delivery of health services. American Psychologist, 24(6).
15
Johnston. M., Weinman J. & Chater A. (2011), A healthy contribution. The Psychologist, 24(12), 890-892.

10



nguyên nhân và chẩn trị bệnh, phân tích và nâng cao hệ thống chăm sóc sức
khỏe và hình thành chiến lược sức khỏe”16.
Tại Anh, tổ chức British Psychology Society (BPS) đã đề xuất để Tâm
lý học sức khỏe trở thành một lĩnh vực riêng biệt. Marie Johnston và John
Weinman lập luận trong tập san của BPS rằng lĩnh vực Tâm lý học sức khỏe
hiện có nhu cầu rất lớn. Vào tháng 12 năm 1986, ngành Tâm lý học sức khỏe
được thành lập tại Hội nghị London của BPS, do Marie Johnston làm chủ
nhiệm17. Tại Hội nghị thường niên của tổ chức vào năm 1993, người ta xem
xét các xu hướng hiện thời trong Tâm lý học sức khỏe, và một định nghĩa về
ngành Tâm lý học sức khỏe được đưa ra đó là: “Nghiên cứu các quá trình tâm
lý; các hành vi sức khỏe, bệnh tật và chăm sóc sức khỏe”18. Ngành Tâm lý
học sức khỏe được công nhận là một chuyên ngành riêng biệt ở Anh năm
1997. Sự công nhận này đồng nghĩa với việc đào tạo và hành nghề chuyên
nghiệp của các nhà Tâm lý học sức khỏe được thừa nhận. BPS tiếp tục điều
chỉnh việc đào tạo và thực hành trong Tâm lý học sức khỏe cho đến khi các
quy định về tiêu chuẩn, trình độ chuyên môn được thông qua bởi Hội đồng
Chuyên môn Y tế vào năm 201019.
Năm 1986, Tổ chức “The European Health Psychology Society” được
thành lập. Những tổ chức tương tự được thành lập ở nhiều quốc gia khác trên
thế giới, bao gồm Úc và Nhật Bản20. Các trường đại học bắt đầu phát triển
các chương trình đào tạo trình độ tiến sỹ Tâm lý học sức khỏe. Ở Mỹ, chương
trình đào tạo sau tiến sĩ ngành Tâm lý học sức khỏe được lập ra cho những cá
nhân đã hoàn tất văn bằng tiến sĩ Tâm lý học lâm sàng.
Tâm lý học sức khỏe không nhìn nhận tâm lý và cơ thể là 2 phần tách
biệt mà cho rằng tâm lý là yếu tố quan trọng trong cả việc gây ra và chữa trị
16

Nguyễn Thị Minh Hằng (2014), Tập bài giảng Tâm lý học sức khỏe, 7.
Johnston M., Weinman J. & Chater A. (2011), A healthy contribution, The Psychologist, 24 (12), 890-892.

18
Johnston M. (1994), Health psychology: Current trends, The Psychologist, 7.
19
Johnston M., Weinman J. & Chater A. (2011), A healthy contribution, The Psychologist, 24 (12), 890-892.
20
Freedheim & I. Weiner (2001), Handbook of Psychology Vol.1: History of Psychology, New York Wiley,
117 – 118.
17

11


bệnh tật. Đây là điểm tương đồng chính giữa Y học tâm thể, Y học hành vi và
Tâm lý học sức khỏe. Nhưng khác với Y học tâm thể và Y học hành vi, Tâm
lý học sức khỏe là một ngành đặc thù của Tâm lý học.
Cái gì gây ra bệnh tật? Tâm lý học sức khỏe cho rằng con người nên
được nhìn nhận là một hệ thống phức tạp và nguyên nhân gây ra bệnh tật là
do vô số yếu tố chứ không phải chỉ là một yếu tố đơn lẻ. Bệnh tật là kết quả
của sự tương tác, sự kết hợp giữa các yếu tố sinh học (ví dụ: virút), yếu tố
tâm lý (ví dụ: niềm tin, hành vi) và yếu tố xã hội (ví dụ: nghề nghiệp). Điều
này được thể hiện trong “Mô hình Sinh – Tâm – Xã hội” do D. Engel đưa ra
vào năm 1977 và bổ sung, làm rõ vào năm 1980. Mô hình này cố gắng hợp
nhất các yếu tố tâm lý (Tâm) và yếu tố môi trường (Xã hội) vào trong mô
hình y sinh truyền thống (Sinh)21.
Sinh:

Tâm:

Xã hội:


˖ Virus

˖ Hành vi

˖ Tầng lớp

˖ Vi khuẩn

˖ Niềm tin

˖ Nghề nghiệp

˖ Thương tổn

˖ Xúc cảm

˖ Nhóm sắc tộc

˖ Sự căng thẳng
Ai là người chịu trách nhiệm cho bệnh tật? Bởi vì bệnh tật được nhìn
nhận là kết quả của hàng loạt các yếu tố tác động, cho nên mỗi cá nhân không
còn đơn thuần là một nạn nhân thụ động. Ví dụ, hành vi của con người cũng
là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh và do đó, mỗi người đều phải có
trách nhiệm đối với sức khỏe và bệnh tật của chính bản thân mình.
Bệnh tật nên được điều trị như thế nào? Chữa bệnh nên chữa toàn bộ
cơ thể, chứ không chỉ chữa những thay đổi thể chất đang xảy ra.
Ai chịu trách nhiệm chữa bệnh? Bởi vì toàn bộ cơ thể đều cần được
chữa trị chứ không chỉ là những đau yếu về thể chất, người bệnh do đó cũng
21


rd

Jane Ogden (2004), Health Psychology – A textbook 3 edition, Mc Graw Hill, 4 - 5.

12


chịu một phần trách nhiệm cho việc điều trị của họ. Bệnh nhân có nghĩa vụ
phải uống thuốc, thay đổi những thói quen có hại và những niềm tin sai lầm
của họ. Họ không phải là những nạn nhân.
Mối quan hệ giữa sức khỏe và bệnh tật? Sức khỏe và bệnh tật không
phải là những thái cực hoàn toàn riêng biệt mà có sự tồn tại của những trạng
thái, những mức độ khác nhau giữa chúng. Con người không chỉ đơn thuần
khỏe mạnh hay đau yếu mà cứ đi đi lại lại giữa 2 thái cực đó, lúc thì ở điểm
này và lúc thì ở điểm khác.
Mối quan hệ giữa tâm lý và cơ thể? Tâm lý học sức khỏe cho rằng giữa
tâm lý và cơ thể có mối tương tác.
Vai trò của tâm lý đối với sức khỏe và bệnh tật? Các yếu tố tâm lý
không phải chỉ là hệ quả của bệnh tật mà nó còn đóng vai trò như là nguyên
nhân gây ra bệnh. Các yếu tố tâm lý có thể ảnh hưởng tới tình trạng sức khỏe
của con người theo cả con đường trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp có nghĩa là
cách một con người cảm nhận cuộc sống của họ (ví dụ “Tôi cảm thấy rất áp
lực và căng thẳng”) sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể họ và làm thay đổi tình
trạng sức khỏe của họ. Theo con đường gián tiếp, cách mà một người suy
nghĩ (ví dụ “Tôi cảm thấy căng thẳng”) sẽ ảnh hưởng đến hành vi (“Tôi sẽ
hút một điếu thuốc”) và chính điều này tác động đến sức khỏe của họ.
Có một thực tế là, sự thay đổi các kiểu mẫu bệnh tật đã và đang diễn ra
ở Mỹ và ở hầu hết các nước phát triển khác trên thế giới. Cho tới thế kỷ 20,
nguyên nhân chính gây ra bệnh tật và tử vong ở Mỹ là các rối loạn cấp tính,
đặc biệt là bệnh lao, viêm phổi và các bệnh truyền nhiễm khác. Các rối loạn

cấp tính là các bệnh ngắn hạn, thường là do sự tấn công của virút, vi khuẩn,...
Thế nhưng ngày nay, các bệnh mãn tính – đặc biệt là bệnh tim, ung thư và
bệnh đái tháo đường – lại là những nguyên nhân chủ yếu gây ra sự ốm yếu

13


tàn tật và tử vong, nhất là ở các nước công nghiệp22. Ở khu vực châu Âu 86%
các ca tử vong là do các bệnh mãn tính. Theo dự đoán, trong những năm tới,
các bệnh mãn tính sẽ còn tiếp tục gia tăng. Các bệnh mãn tính phát triển từ
từ, trong một thời gian dài cùng với sự phát triển của con người. Thông
thường, các bệnh mãn tính không thể chữa khỏi nhưng có thể được kiểm soát
bởi bệnh nhân và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Dự đoán 10 nguyên nhân hàng đầu gây ra tử vong trên thế giới năm 2015
Hạng

Nguyên nhân

Số người chết/
100,000 người

1

Bệnh tim, thiếu máu cục bộ

105

2

Đột quỵ


92

3

Nhiễm trùng hô hấp

44

4

Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

44

5

Bệnh tiêu chảy

25

6

HIV/AIDS

23

7

Khí quản, phế quản, ung thư phổi


23

8

Đái tháo đường

21

9

Tai nạn giao thông

20

10

Bệnh tim, tăng huyết áp

16

(GLOBAL HEALTH ESTIMATES SUMMARY TABLES: PROJECTION
OF DEATHS BY CAUSE, AGE AND SEX (WHO, 2013))23
Những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những bệnh tật này chính là một
trong những hậu quả của việc thay đổi lối sống trong thế kỷ 20. Cuộc sống
hiện đại với nhịp sống hối hả gấp gáp, những áp lực trong học tập, công
việc,…, các vấn đề về tài chính, sự thay đổi trong mối quan hệ giao tiếp giữa
người với người,… đều là nguyên nhân dẫn tới stress và hàng loạt các bệnh
khác. Ngoài ra, những thói quen sức khỏe của các cá nhân chẳng hạn như chế
22

23

Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill, 8 -9.
World Health Organization, World Health Statistics 2013: A wealth of information on global public health.

14


độ ăn uống hay hút thuốc lá đều có liên quan tới sự phát triển của các bệnh
tim mạch và ung thư, hoặc việc quan hệ tình dục không lành mạnh dẫn tới sự
phát triển của bệnh AIDS.
Ngày nay, trên thế giới, các rối loạn tâm thần và thần kinh chiếm tới
11% tổng gánh nặng bệnh tật toàn cầu trong năm 2004, được đánh giá bằng
công cụ DALYs – tạm dịch: “Những năm của cuộc đời phải thích nghi với
trạng thái mất khả năng hoạt động”. Điều này được dự báo tăng lên 15%
trong năm 2020. Trầm cảm góp phần lớn thứ 4 cho gánh nặng bệnh tật trong
năm 2004 và ước đoán xếp hàng thứ 2 sau bệnh nhồi máu cơ tim vào năm
2020. Năm trong mười nguyên nhân hàng đầu gây ra tàn tật là các rối loạn
tâm thần (Tâm thần phân liệt; Rối loạn cảm xúc lưỡng cực; Trầm cảm; Sử
dụng rượu và Rối loạn ám ảnh cưỡng bức)24. Mất trí và động kinh cũng là
nguyên nhân chủ yếu gây tàn tật và mức độ tàn tật cao thường đi kèm với
chậm phát triển tâm thần. Ở khu vực Tây Thái Bình Dương, gánh nặng thậm
chí còn cao hơn ở một số khu vực khác của thế giới.
Gánh nặng của các rối loạn tâm thần sẽ rất nặng nề và đang tăng lên,
phổ biến ở tất cả các quốc gia. Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới
(WHO), chỉ số phổ biến của các rối loạn thần kinh – tâm lý tăng lên 4
lần/1000 người dân trong thế kỷ XX25. Ở tất cả các quốc gia, tỷ lệ các rối
loạn tâm thần cao hơn ở những người đã trải qua bất hạnh trong các quan hệ
xã hội. Một số loại rối loạn nặng, có sự khởi đầu rầm rộ tấn công vào lứa tuổi
trẻ như trầm cảm, nghiện rượu và ma tuý, động kinh, tâm thần phân liệt và

các rối loạn loạn thần có liên quan. Sự hiện mắc của các rối loạn tâm thần cao
trong số trẻ em và thanh thiếu niên cũng như người trưởng thành và người già
- không phân biệt nhóm tuổi.
Chi phí kinh tế cho các rối loạn tâm thần rất cao. Chi phí trực tiếp bao
gồm chi phí cho các dịch vụ y tế và xã hội. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, chi
24

World Health Organization, DALY rates by region 2004, />Nguyễn Thị Minh Hằng (2014), Tập bài giảng Tâm lý học sức khỏe, 3.

25

15


phí y tế trực tiếp cho việc điều trị các rối loạn tâm thần ở Mỹ là 57,5 tỉ USD,
tương đương với chi phí cho bệnh ung thư. Nhưng cũng có các loại chi phí
khác như mất việc làm, giảm hiệu quả công việc, ảnh hưởng đến cuộc sống
hữu ích, gia đình và xã hội, có thể dẫn đến cái chết. Chi phí gián tiếp cho các
rối loạn tâm thần cao hơn nhiều so với các loại bệnh tật khác. Ở các nước
phát triển chi phí gián tiếp thường là gấp 2 – 6 lần chi phí trực tiếp, và chi phí
này còn cao hơn rất nhiều ở các nước đang phát triển26.
Trong bối cảnh đó, vai trò của Tâm lý học sức khỏe lại càng quan
trọng hơn bao giờ hết. Bởi vì người bệnh có thể sống cùng với những căn
bệnh của mình trong nhiều năm, nên những nhà tâm lý học sức khỏe sẽ giúp
đỡ người bệnh điều chỉnh các yếu tố tâm lý và xã hội để phù hợp với sự thay
đổi tình trạng sức khỏe của họ. Chẳng hạn các căn bệnh mãn tính sẽ gây ảnh
hưởng tới các hoạt động trong gia đình, bao gồm mối quan hệ với bạn đời
hay con cái, và nhà tâm lý học sức khỏe sẽ có nhiệm vụ tìm hiểu những sự
thay đổi và giúp giải quyết những vấn đề có thể nảy sinh trong gia đình 27.
Ngoài ra, có một thực tế là nhiều bệnh nhân bị bệnh mãn tính không đi theo

những phương thức chữa trị truyền thống. Để hiểu được điều gì đã khiến
người bệnh cố gắng tìm kiếm những phương thức chữa trị khác và tính toán
những ảnh hưởng của nó cũng là một trong những vấn đề mà nhà tâm lý học
sức khỏe cần phải làm sáng tỏ.
Gánh nặng bệnh tật sinh ra bởi các rối loạn tâm thần và thần kinh có
thể giảm đi bởi hiện nay đã có các kỹ thuật điều trị mới và có hiệu quả bằng
các trị liệu tâm lý xã hội của Tâm lý học sức khỏe. Những điều trị này bao
gồm các liệu pháp nhận thức ngắn và các trị liệu tâm lý khác, hỗ trợ – giáo
dục gia đình, phục hồi chức năng tâm lý xã hội cho những người bệnh. Các
dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chung có thể
giải quyết hữu hiệu phần lớn các rối loạn tâm thần. Tâm lý học sức khỏe ngày
26

Nguyễn Thị Minh Hằng (2014), Tập bài giảng Tâm lý học sức khỏe, 6.
Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill, 9.

27

16


càng mở rộng phạm vi phát triển của nó ở Anh nói riêng và ở châu Âu nói
chung, ở Mỹ, Úc, New Zealand và cả ở Nhật Bản. Các số liệu thống kê cho
thấy, chăm sóc sức khỏe là ngành công nghiệp dịch vụ lớn nhất tại Mỹ, và nó
vẫn đang tiếp tục phát triển một cách nhanh chóng và mạnh mẽ. Người Mỹ
chi tới 1.7 nghìn vào năm 2003 cho việc chăm sóc sức khỏe và con số này
vẫn sẽ tiếp tục tăng lên trong những năm tới28. Các chương trình bảo vệ sức
khỏe tâm lý, các cơ sở chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng tiếp tục mở rộng và
phát triển,…
Đối với các sinh viên, việc học tập bộ môn Tâm lý học sức khỏe trở

thành một phần không thể thiếu trong chương trình đào tạo ngành Tâm lý
học. Với sinh viên của các ngành có liên quan tới Tâm lý học, Tâm lý học
sức khỏe cũng trở thành một phần trong ngành học của họ, chẳng hạn như y
khoa, điều dưỡng, hay các ngành nghiên cứu về sức khỏe con người khác29.
Thêm vào đó, không chỉ dừng lại ở việc học tập những kiến thức căn bản về
Tâm lý học sức khỏe, một số lượng lớn sinh viên tiếp tục đi sâu nghiên cứu ở
mức độ cao hơn để phát triển sự nghiệp của họ trong lĩnh vực này. Điều này
đã dẫn đến một số cuộc tranh luận về tương lai của ngành Tâm lý học sức
khỏe cũng như những vai trò của nhà tâm lý học sức khỏe. Các cuộc tranh
luận đã chỉ ra hai con đường chính để phát triển sự nghiệp: trở thành nhà điều
trị tâm lý học sức khỏe hoặc trở thành nhà tâm lý học sức khỏe chuyên
nghiệp.
6. Kết luận
Tóm lại, Tâm lý học sức khỏe quan tâm đến việc hỗ trợ về tâm lý cho
các cá nhân để họ có sức khỏe tốt trong quá trình sống. Mặc dù còn là một
ngành khoa học mới mẻ nhưng không thể phủ nhận rằng Tâm lý học sức
khỏe đã và đang mang lại những hiệu quả thiết thực về kinh tế - xã hội đối
28

/>29
American Psychological Association, Careers in Psychology, />
17


với đời sống con người. Từ khi Tâm lý học sức khỏe có những bước tiến bộ
như: các phòng thực nghiệm tâm lý ra đời; tâm lý học sức khỏe được đưa vào
nghiên cứu và giảng dạy trong các trường đào tạo cán bộ y tế; sự phục hồi
sau bệnh tật do các nhà tâm lý học sức khỏe tiến hành có kết quả tốt… thì
tâm lý học sức khỏe lại càng trở nên quan trọng và là một bộ phận hữu cơ,
không thể thiếu được của Tâm lý học. Chúng ta cần có những chính sách để

tiếp tục thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của ngành khoa học này.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Minh Hằng (2014), Tập bài giảng Tâm lý học sức khỏe.
2. Đặng Phương Kiệt (Chủ biên) (2000), Tâm lý và sức khỏe, Nhà xuất
bản Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Tiếng Anh
1. Marian Pitts and Keith Phillips (1998), The Psychology of Health 2nd
edition, Routlege, 11 New Fetter Lane London.
2. Shelley E. Taylor (1999), Health Psychology, Mc Graw Hill.
3. Jane Ogden (2004), Health Psychology – A textbook 3rd edition, Mc
Graw Hill.
4. Freedheim & Weiner (2001), Handbook of Psychology Vol.1: History
of Psychology, New York Wiley.
5. Johnston M., Weinman J. & Chater A. (2011), A healthy contribution,
The Psychologist, 24 (12).
6. Johnston M. (1994), Health psychology: Current trends, The
Psychologist, 7.
7. Belloc N. & Breslow L. (1972), Relationship of physical health status
and health practices. Preventive Medicine, 1(3).
8. Erwin, Edward (2002), The Freud Encyclopedia: Theory, Therapy and
Culture, Routledge, 245.
9. Trang web truy cập tháng 5 năm 2014.
10.Trang web truy cập tháng 5 năm 2014.
11.Trang web truy cập tháng 5 năm 2014.
12.Trang web truy cập tháng 5 năm

2014.
13.Trang web truy cập tháng 5 năm
2014.
19



×