Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Những biến đổi phong tục và nghi lễ liên quan đến việc cưới hỏi ở Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.35 KB, 25 trang )

XÃ HỘI HỌC GIA ĐÌNH


Họ và tên: Nguyễn Thị Tuyết
Lớp: K55 - Xã Hội Học
MSSV: 10030904

Đề bài: Hãy chọn một vấn đề thuộc lĩnh vực nghiên cứu của xã hội học gia đình
để phân tích tập trung vào 3 vấn đề sau:
1, Tính bức xúc của vấn đề
- Biện luận như thế nào để toát ra được đây là vấn đề cần quan tâm
2, Giải thích trên cơ sở lý thuyết, dữ liệu, kết quả nghiên cứu nguyên nhân của vấn
đề
- Dựa trên cơ sở lý thuyết để giải thích
- Dữ liệu
3, Phân tích, biện luận có tính thuyết phục về xu hướng của vấn đề trong tương lai
- Từ việc phân tích 2 vấn đề trên chúng ta cần phân tích đưa ra những xu hướng
của vấn đề đó thay đổi như thế nào?

1


Bài làm:
Chủ đề: “ Những biến đổi phong tục và nghi lễ liên quan đến việc cưới hỏi ở Hà
Nội”
A, Đặt vấn đề:
Những phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian là một bộ phận quan trọng
để cấu thành nên bản sắc văn hoá dân tộc, bản sắc chính là diện mạo riêng biệt
không thể hoà tan của mỗi một dân tộc. Và Việt Nam cũng là đất nước sở hữu một
nền văn hoá đặc sắc, độc đáo và giàu sức sống. Ngay từ xa xưa, các thế hệ người
Việt đã sáng tạo, tích luỹ và tập hợp nên một loạt các hệ thống nghi lễ gắn liền với


mọi khía cạnh, mọi giai đoạn của đời sống thường ngày, như nghi lễ vòng đời,
nghi lễ tang ma, nghi lễ thờ cúng và đặc biệt là nghi lễ hôn nhân. Mỗi loại nghi lễ
lại có những đặc sắc riêng, được duy trì , tồn tại và phát triển liên tục trong tiến
trình lịch sử dân tộc và từ lâu đã trở thành một bộ phận tất yếu trong đời sống văn
hoá của dân tộc Việt.
Việc dựng vợ gả chồng từ xưa đến nay vẫn được coi là một sự kiện trọng
đại của đời người. Hôn nhân đặt nền móng cho gia đình và sự kế thừa gia thống.
Bởi vậy nghi thức hôn nhân chính là một trong những nghi thức được coi trọng
nhất trong hệ thống những nghi thức theo suốt cuộc đời người. Việc cưới hỏi và
phong tục, nghi lễ trong cưới hỏi là một trong những hiện tượng văn hoá cộng
đồng ở nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có cả ở Việt Nam. Phong tục và nghi
lễ là những thứ gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân. Bởi vậy, khi thời
đại đổi thay, cuộc sống của người dân có nhiều chuyển biến, hệ thống phong tục
và nghi lễ cũng biến đổi như một điều tất yếu cho phù hợp với xu thế và đòi hỏi
của thời đại cũng như cho phù hợp với nếp sống sinh hoạt của hiện đại. Sự biến
đổi văn hoá nói chung và phong tục cưới hỏi nói riêng thường diễn ra theo hai xu
hướng:
+ “Giữ lại những thuần phong mỹ tục, loại bỏ những phong tục tập quán,
những nghi lễ, nghi thức hủ tục, lạc hậu, nhiêu khê không còn phù hợp với cuộc
sống hiện đại.
+ Sáng tạo ra những nét văn hoá mới đáp ứng nhu cầu và điều kiện của
2


cuộc sống mới”. ( Báo gia đình và giới – quyển 22, số 4 năm 2012, tr: 3 )
Tuy nhiên theo tôi thì những nghi lễ, phong tục liên quan đến cưới hỏi
không chỉ dừng lại ở 2 xu hướng trên mà nó còn có xu hướng là tiếp biến và dung
hoà hay du nhập các hình thức, phong tục và lễ nghi của các quốc gia khác đặc
biệt sự biến đổi của nghi lễ và nghi thức cưới hỏi ngày nay là có sự dung hoà, du
nhập rất nhiều từ các nước Phương Tây.

Tất cả những biến đổi đấy không chỉ ở Việt Nam nói chung mà ngay cả trên
địa bàn thành phố Hà Nội - nơi được cho là cái nôi của nền văn hoá thanh lịch với
rất nhiều lễ nghi, phong tục nhưng nó cũng không là ngoại lệ khi những lễ nghi
trong việc cưới hỏi cũng có sự biến đổi theo quy luật chung và theo năm tháng.
B, Nội Dung:
1, Cơ sở lý thuyết:
a, Sử dụng “Lý thuyết nhu cầu của Maslow”để giải thích về vấn đề trên:
- Maslow nhà khoa học xã hội nổi tiếng đã xây dựng học thuyết về nhu cầu
của con người vào những năm 1950. Lý thuyết của ông nhằm giải thích những nhu
cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng
đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần.
- Lý thuyết của ông giúp cho sự hiểu biết của chúng ta về những nhu cầu
của con người bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Ông đã đem
các loại nhu cầu khác nhau của con người, căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ
tự phát sinh trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu
cầu của con người tư thấp đến cao.
Nhu cầu sinh lý: Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con
người như nhu cầu ăn uống, ngủ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục.
Là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của
con người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không tồn tại được.
Đặc biệt là với trẻ em vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung
cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này. Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu này
chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu
khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa.
Nhu cầu về an toàn hoặc an ninh:
An ninh và an toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có lợi
cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người.
- Nội dung của nhu cầu an ninh: An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất,
3



là tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn
nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự,…
Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh tồn
con người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự an toàn. Nhu cầu an toàn
nếu không được đảm bảo thì công việc của mọi người sẽ không tiến hành bình
thường được và các nhu cầu khác sẽ không thực hiện được. Do đó chúng ta có thể
hiểu vì sao những người phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét
vì đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người khác.
Vd, nếu nhà tham vấn làm việc với trẻ em lang thang thì phải xác định được
rằng đa số trẻ em lang thang đã bị “tắc” ở bậc nhu cầu này bởi những rủi ro mà các
em đang phải đối diện ở cuộc sống ngoài đường phố (cướp giật, lạm dụng,…). Bởi
vì các em phải luôn cảnh giác với các rủi ro này nên không thể tập trung vào việc
thỏa mãn các nhu cầu ở bậc cao hơn.
Những nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận (tình yêu và sự chấp
nhận).
- Do con người là thành viên của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và
được người khác thừa nhận.
- Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ
bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng
trung thành giữa con người với nhau.
- Nội dung của nhu cầu này phong phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các
vấn đề tâm lý như: Được dư luận xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán
thưởng, ủng hộ, mong muốn được hòa nhập, lòng thương, tình yêu, tình bạn, tình
thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Lòng thương, tình bạn, tình yêu, tình
thân ái là nội dung lý lưởng mà nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận luôn theo
đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình phát triển
của nhân lo
Nhu cầu được tôn trọng
- Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự trọng và được người

khác tôn trọng.
+ Lòng tự trọng bao gồm nguyện vọng muồn giành được lòng tin, có năng
lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện
và tự hoàn thiện.
+ Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được uy tín,
được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… Tôn trọng là được người
khác coi trọng, ngưỡng mộ. Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi
cách để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là điều không
thể thiếu đối với mỗi con người.
Nhu cầu phát huy bản ngã: Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong
cách phân cấp về nhu cầu của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm
năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó.
4


- Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết,
nghiên cứu,…) nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,…), nhu cầu thực hiện
mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân.
Trong vấn đề thảo luận này tôi đã vận dụng lý thuyết nhu cầu của Maslow
để giải thích cho sự biến đổi của những phong tục, nghi lễ liên quan đến cưới hỏi
đang diễn ra ở Hà Nội hiện nay.
Xã hội Việt Nam truyền thống nói chung và Hà Nội nói riêng chịu ảnh
hưởng rất lớn từ Phương Đông đặc biệt từ Trung Quốc với tư tưởng, nghi lễ mang
tính cưỡng chế hà khắc chặt chẽ của nho giáo. Trong xã hội xưa, hôn nhân không
phải là việc riêng của đôi nam nữ mà là việc của cả gia đình, dòng họ và việc tổ
chức nghi lễ cưới hỏi là một biểu hiện của nếp sống xã hội, của nền văn hoá truyền
thống dân tộc. Tất cả các nghi lễ trong việc đại sự của cả đời người phải được tiến
hành một cách quy củ, bài bản với đầy đủ những lễ nghi và phong tục với mong
muốn cho đôi vợ chồng được hoà hợp và hạnh phúc. Dân gian có câu:
“ Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà

Trong ba việc ấy thật là khó thay”
Quả thật trong đời sống tinh thần của người Việt thì đám cưới chính là một
sự kiện hệ trọng trong cuộc đời mỗi người. Cưới hiểu theo nghĩa thông thường là
tổ chức ngày lễ chính thức để người nam và nữ trở thành vợ chồng. Với ý nghĩa đó
đám cưới trở thành một ngày lễ thiêng liêng và vui mừng nhất, nếu không muốn
nói là duy nhất trong cuộc đời mỗi người. Có thể khẳng định từ lâu việc tổ chức lễ
cưới là một nhu cầu và cũng là phong tục không thể thiếu trong cuộc sống cộng
đồng, mà ý nghĩa của nó thể hiện ở nhiều khía cạnh: kinh tế, xã hội, đạo đức, văn
hoá.
Một số nghi thức trong việc cưới hỏi trong xã hội truyền thống ngày xưa
xét trên một khía cạnh nào đó cũng thể hiện được những ý nghĩa nhất định. Tuy
nhiên với những thủ tục nhiêu khê, rườm rà lạc hậu và cổ hủ thì ngày nay với sự
tiến bộ của Đất Nước và sự du nhập, ảnh hửơng từ những nền văn hoá tiến tiến
hiện đại của phương Tây thì các nghi lễ trong việc cưới hỏi ở Hà Nội đã có sự thay
đổi nhiều. Vẫn giữ lại những nét đẹp truyền thống của người Tràng An, sáng tạo ra
những cái mới nhưng đồng thời vẫn thể hiện được sự sang trọng, lịch sự và văn
minh tiên tiến phù hợp với sự phát triển của thời đại.
2, Giải quyết vấn đề
2.1: Quan niệm về hôn nhân trong dân gian:
Trong cuốn sách “ Nghi lễ hôn nhân của tác giả Minh Đường, do nhà xuất
bản thời đại phát hành năm 2010” thì xã hội xưa, hôn nhân không phải là việc
riêng của đôi nam nữ mà là việc của gia đình dòng họ. Quan niệm xưa “ cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy” tồn tại hang ngàn năm nay đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi
5


ngưới Việt. Mối quan tâm hàng đầu của các gia đình người Việt trong xã hội nông
nghiệp cổ truyền là sự bảo tồn và phát triển dòng họ vì thế bố mẹ phải là người
quyết định hạnh phúc của con cái. Đồng thời do ảnh hưởng của nho giáo thì việc
không có con trai nối dõi tông đường được liệt vào tội nặng nhất là tội “ bất hiếu”

chính vì vậy quan niệm của người xưa cho rằng con trai phải nhất định có cháu
trai để thờ cúng phụng sự tổ tiên mới coil à làm tròn bổn phận với gia đình.
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu khi cha mẹ tìm mối dựng
vợ gả chồng cho con cái chính là “môn đăng hộ đối”, có nghĩa là cả hai nhà phải
tương xứng với nhau về địa vị xã hội, về danh giá và về kinh tế. Đồng thời trong
xã hội nông nghiệp xưa thì việc sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào sức người, không
hiếm gia đình quan niệm hôn nhân đồng nghĩa với việc thêm nhân lực lao động, vì
vậy các gia đình thường cho con trai lấy vợ từ rất sớm. Người vợ có thể hơn chồng
năm bảy tuổi thậm chí là hang chục tuổi, trong khi đó chú rể vẫn còn là một cậu
bé. Chính vì vậy mà nạn tảo hôn thời xưa đã hình thành nên vô số bi kịch cho số
phận của người phụ nữ. Trong hôn nhân người phụ nữ đóng vai trò hoàn toàn thụ
động, họ không có quyền phản kháng mà phải ngậm đắng nuốt cay chấp nhận số
phận và sống an phận trong những cuộc hôn nhân sắp đặt trong suốt cuộc đời.
Lễ giáo xưa còn kén dâu theo tiêu chuẩn tam tòng và tứ đức.
Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải tuần theo đó là: “ tại
gia đòng phụ, xuất giá tòng phu và phu tử tòng tử” ( tức là ở nhà thì phải
theo cha, đi lấy chồng thì phải theo chồng và khi chồng chết thì phải theo
con).
Tứ đức bao gồm: công, dung , ngôn , hạnh: Đó là những phẩm chất
mà người phụ nữ cần phải có: sự đảm đang, khéo léo ( công), nhan sắc của người
phụ nữ như sự dịu dàng, đoan trang, nề nếp, chỉn chu toát ra từ cách dáng điệu,
cách ăn mặc, nói cười ( dung). Tiếp theo là lời nói, chính là cách ăn nói, giao tiếp
trong ứng xử hàng ngày với mọi thành viên trong gia đình và mọi mối quan hệ xã
hội như: ông bà, cha mẹ, bạn bè, hàng xóm, láng giềng… phải nhã nhặn, dịu dàng,
hợp tình, khéo cảnh ( ngôn); và cuối cùng là đạo đức, đức hạnh của người phụ nữ
được thể hiện trong từ hạnh. Đó là đạo đức làm người trong đó bao hàm phần đạo
lý với các bổn phận và nghĩa vụ với mọi người xung quanh.
Trong xã hội phong kiến chữ “ trinh” cũng là một tiêu chuẩn đánh giá
và quan trọng trong việc chọn dâu. Mặc dù không ai quy định, không sách nào giải
thích chữ “ trinh” nhưng đây lại là một tiêu chuẩn đứng trên tất cả, thậm chí còn

được đứng trước cả tứ đức. Đây cũng là một tiêu chuẩn vô cùng khắc nghiệt của
xã hội cũ.
Trong xã hội Việt Nam xưa, các tiêu chuẩn chọn dâu nhiều khi đã được
khái quát thành khuôn mẫu, hiện diện thường xuyên trong cuộc sống người dân.
Và rõ ràng đây không chỉ là tập quán được xuất hiện trong tầng lớp thống trị xã
hội mà còn được thực hành ở các tầng lớp dưới, tầng lớp bình dân.
2.2: Các tục lệ, nghi lễ trong hôn nhân ở Hà Nội xưa.
6


Tục lệ hôn nhân truyền thống của người Việt Nam nói chung và người Hà
Nội xưa nói riêng tương đối thống nhất về các nghi lễ cơ bản. Tuy nhiên ở các giai
cấp, các tầng lớp khác nhau trong xã hội có sự khác biệt nhất định nhưng theo
phong tục cổ truyền của người Việt thì việc cưới xin thường được tiến hành với
đầy đủ các nghi thức, nghi lễ trang trọng như tác giả Bùi Tuấn Mỹ và Phạm Minh
Thảo đã nêu trong cuốn “ Tục cưới hỏi ở Việt Nam” thì đám cưới thường trải qua
6 bước:
- Lễ nạp thái: Nhà trai đưa lễ để tỏ ý đã kén chọn cô dâu, gọi là chạm mặt
hay giạm vợ.
- Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai nhờ người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày
sinh tháng đẻ của người con gái.
- Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ
hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
- Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho
sự hứa hôn chắc chắn.
- Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng

- Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ
nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.


Tất cả các nghi thức đều tuân thủ thực hiện đầy đủ và tuân thủ theo từng
bước trong một đám cưới.
2.3: Thực trạng và xu hướng biến đổi các phong tục, nghi lễ trong việc cưới hỏi
hiện nay.
2.3.1: Thực trạng về sự biến đổi các phong tục, nghi lễ trong việc cưới
hỏi hiện nay.
a, Biến đổi và nghi lễ từ truyền thống sang hiện đại
Trong xã hội truyền thống thì việc cưới hỏi diễn ra phải tuân thủ đầy đủ
những quy tắc của 6 bước với 6 lễ nghi nhưng trong thời đại hiện nay thì các lễ
nghi đã có sự thay đổi. Theo học giả Phan Kế Bính trong cuốn “ Phong tục Việt
Nam” và cuốn “ Việt Nam văn hoá sứ cương” – NXB Bốn Phương của Giáo sư
7


Đào Duy Anh thì hiện nay hôn lễ của người Việt Nam nói chung và Người Hà Nội
nói riêng vẫn dựa trên cơ sở của sự bảo tồn các giá trị truyền thống nhưng đồng
thời cũng có sự lược bỏ và lựa chọn những nghi lễ cho phù hợp với thời đại thì
hiện nay hôn lễ ở Hà Nội các nghi lễ xưa từ 6 rút bớt chỉ còn có 3 nghi lễ chính:
1, Lễ chạm ngõ ( dạm ngõ) tương đương với lễ Nạp Thái
2, Lễ ăn hỏi tương đương với lễ Nạp Tệ
3, Lễ cưới tương đương với lễ cưới
- Lễ dạm ngõ: Đây là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của
hai gia đình. Lễ dạm ngõ ngày nay không còn theo lối xưa, mà chỉ là buổi gặp gỡ
giữa hai gia đình. Nhà trai đến nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đôi nam nữ được
tự do đi lại, tiếp tục quá trình tìm hiểu nhau một cách kỹ càng hơn trước khi đi đến
quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, không cần vai trò hẹn trước của người mai mối
và cũng không cần lễ vật rườm rà. Sau lễ chạm ngõ, người con gái được xem như
đã có nơi có chốn.
Lễ hỏi: là một thông báo chính thức về sự kết giao của hai gia đình và hai
họ. Nó đánh dấu một chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: Cô gái

được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi. Lễ vật của lễ
hỏi là cau tươi, giầu, vỏ, bánh cốm, chè , rượu, bánh xu xê, hoa quả, lợn quay… để
thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng dục của cha mẹ cô gái.
Tuỳ theo gia cảnh của nhà trai và nhà gái mà số lượng thích hợp. Và mâm lễ vật ăn
hỏi phải đựng trong các tráp nhôm hoặc gỗ có sơn son thiếp vàng và phải phủ vải
điều. Số lượng “ tráp lễ” thường là các số lẻ như 3,5,7,9. Trong các tráp, số lượng
vật phẩm phải là số chẵn (ví dụ như 100 chiếc bánh cốm, 100 gói chè sen). Sở dĩ
số lượng mâm quả trong lễ ăn hỏi ở miền Bắc luôn luôn là số lẻ và số lễ trên mâm
quả thì nhất thiết phải là số chẵn, luôn đi theo cặp bởi số lẻ tượng trương cho sự
phát triển, còn số chẵn tượng trưng cho việc có cặp có đôi. Sắp xếp như vậy với ý
niệm cầu chúc và mong muốn cho cặp vợ chồng trẻ luôn luôn có nhau và cùng
nhau sinh con đàn cháu đống, sống đến đầu bạc răng long.
- Lễ cưới : là đỉnh điểm của mọi nghi thức và chi tiết của việc kết hôn.
Nghi thức lễ cưới đầy đủ gồm 3 nghi thức.
Phần 1: Lễ xin hôn: Trước giờ đón dâu, mẹ chú rể sẽ cùng một người thân
trong gia đình đến nhà gái đem cơi trầu, chai rượu để báo trước giờ đoàn đón dâu
sẽ đến, nhà gái yên tâm chuẩn bị đón tiếp.
Phần 2: Lễ rước dâu: Dù đoàn rước dâu của nhà trai có đi bằng phương tiện
gì chăng nữa thì trước khi vào nhà gái cũng phải “chấn chỉnh đội hình”. Thông
thường, đi đầu là đại diện nhà trai; tiếp đến là bố chú rể, chú rể và bạn bè. Đoàn
rước dâu nên có đội hình gọn nhẹ để khiến mọi việc nhanh chóng và diễn ra thoải
mái hơn.
8


Sau khi đã vào nhà gái, nhà trai được mời an tọa. Hai bên giới thiệu nhau,
sau một tuần trà, đại diện nhà trai đứng dậy có vài lời với nhà gái xin chính thức
được rước cô dâu về. Khi được “các cụ” cho phép, chú rể vào phòng trong để trao
hoa cho cô dâu, cùng cô dâu đến trước bàn thờ thắp nén hương rồi ra chào bố mẹ,
họ hàng hai bên. Cha mẹ cô dâu dặn dò đôi vợ chồng trẻ về cách sống, về tình yêu

thương, về đạo lý vợ chồng. Sau đó, vị đại diện nhà trai sẽ đáp lời thay chú rể và
xin rước dâu lên xe. Nhà gái sẽ cùng theo xe hoa về nhà trai dự tiệc cưới.
Về đến nhà trai, việc đầu tiên là cô dâu và chú rể được cha mẹ dẫn đến bàn
thờ để thắp hương yết tổ (lễ gia tiên), rồi chào họ hàng bên chồng. Sau đó nhà trai
mời nhà gái và tất cả những người cùng tham dự tiệc cưới…
Mặc dù Lễ Nạp Thái vẫn được giữ nguyên nhưng ý nghĩa của nó cũng đã
thay đổi. Ngày xưa Nạp Thái là việc nhà trai nhờ người mai mối tới nhà gái để ngỏ
ý. Người con trai và con gái chưa hề biết mặt nhau và vai trò của người mai mối là
rất quan trọng. Ông bà mai là cầu nối liên lạc giữa hai gia đình và là người kết
duyên cho người con trai và người con gái và cũng là người có ảnh hưởng lớn đến
kết quả của lễ thành hôn. Người làm mai phải là người có tuổi, phải hiểu biết gia
cảnh hai bên và nhất là phải biết ăn nói. Nếu người làm mai là họ hàng hoặc người
thân của hai bên nhà trai hay nhà gái thì càng thêm thuận lợi. Họ là mai là hoàn
toàn tự nguyện, hầu như không có lễ vật tạ ơn. Trước đây nhà trai thường tỏ lòng
biết ơn đối với ông bà bằng một cái thủ lợn trong lễ Nạp Thái. Tuy nhiên nếu hai
vợ chồng mà không hạnh phúc với nhau thì người mai mối cung bị mang tiếng là
không mát tay và phải chịu nhiều phiền toái.
Hiện nay không còn phổ biến chuyện mai mối như trước nữa mà người con
trai và người con gái tự tìm hiểu và lựa chọn thời gian để 2 gia đình gặp nhau. Cha
mẹ và họ hàng lúc này chỉ đóng vai trò là người khuyên can hoặc đóng góp ý kiến
và quyền quyết định cuối cùng là thuộc về con cái.
Tuy nhiên hiện nay những nghi lễ và phong tục liên quan đến việc cứơi xin
ở Hà Nội vẫn diễn ra theo những hình thức trên nhưng nó đã có sự biến đổi nhất
định trong đó.
b, Phong tục xem tuổi trước khi cưới:
Việc xem tuổi trước khi cưới để xem đôi trai gái có hợp nhau không là một
tập quán lâu đời. Trước đây công việc này mang ý nghĩa rất quan trọng, thậm chí
quyết định việc đi đến kết hôn hay không ở đôi trai gái. Công việc này được thực
hiện ở lễ Vấn Danh, sau lễ Nạp Thái ít ngày nhà trai sẽ nhờ người mai mối sang
nhà gái xin tuổi cô gái để đến thày bói, thầy mo hay một người có uy tín biết cách

xem tướng số trong vùng xem hai người có hợp tuổi với nhau không? Nếu hợp thì
nhà trai sẽ tiến hành các bươcs tiếp theo trong lễ cưới. Nếu không hợp thì sẽ thong
báo lại với nhà gái và xin từ hôn. Trong trường hợp này nhà gái cũng hoàn toàn

9


thông cảm và chấp nhận như lẽ tự nhiên.
Hiện nay lễ Vấn Danh đã không còn và vai trò của người mai mối cũng
không còn quan trọng như trước, người con trai và con gái có quyền quyết định
nhiều hơn trong hôn nhân của mình thì việc so tuổi có còn tồn tại và trong trường
hợp 2 người không hợp nhau thì họ lựa chọn cách giả quyết như thế nào?
Trong bài báo gần đây đăng trên tạp chí “ Gia đình và giới” quyển 22-số 4năm 2012 với nhan đề “ những biến đổi phong tục và nghi lễ trong việc cưới xin ở
Hà Nội” của tác giả Lê Ngọc Văn thì “việc xem tuổi trước khi cưới không thực sự
phổ biến đối với các gia đình ở Thành phố Hà Nội. Tính chung có khoảng 24% số
người được hỏi ý kiến cho biết có xem tuổi trước khi cưới. Trong số những người
xem tuổi trước khi cưới có sự khác biệt giữa các nhóm xã hội. Cụ thể theo khu vực
cư trú: nhóm nội thành, giáp nội thành và xa nội thành với tỷ lệ là 31,8%, 22,6%
và 18, 6%. Trong số đó thì nhóm 40 tuổi trở xuống chiếm tỷ lệ cao nhất và cao
hơn nhóm từ 41-50 tuổi; 52-60 tuổi và 61 tuổi trở lên” ( tr: 4, Lê Ngọc Văn)
Bảng 1: Phong tục xem tuổi trước khi cưới ( %)

Các nhóm xã hội

Khu vực cư trú

Giới tính

Độ tuổi


Có xem tuổi trước khi
cưới
Nội thành

31,8

Giáp nội thành

22,6

Xa nội thành

18,6

Nam

25,9

Nữ

23,1

40 tuổi trở xuống

35,3

Từ 41 - 50 tuổi

26,6


Từ 51 - 60 tuổi

19,8

Từ 61 tuổi trở lên

14,8

10


Từ bảng số liệu và dựa theo kết quả điều tra nghiên cứu của tác giả Lê
Ngọc Văn cho thấy mặc dù lễ vấn danh không còn là một nghi thức quan trọng
nhưng tâm lý và thói quen cũng như nhu cầu đi xem tuổi để tránh những điều
không hay vẫn còn hiện hữu. Điều này có nghĩa việc đi xem bói, xem tử vi , xem
tuổi không được công khai như trước nữa nhưng trên thực tế nó vẫn là một bước
không thể thiếu khi tổ chức cưới hỏi. Họ tin rằng nếu hợp tuổi thì đôi vợ chồng sẽ
hạnh phúc, hoà thuận, ăn nên làm ra. Nếu không hợp tuổi thì sẽ phải sống vất vả
hoặc một người phải sang thế giới bên kia hoặc có nhiều đau khổ đe doạ tương lai
của hai vợ chồng kể cả việc con cái sau này. Và để cầu bình an cho 2 vợ chồng thì
ngày tổ chức đám cưới thường diễn ra vào các ngày có liên quan đến số 9 như
ngày 9,19,29…Vì họ tin rằng số 9 ở đây được coi là ngày bình an.
Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến việc xem tuổi của đôi bạn trẻ trước
khi cưới hỏi đó là họ chứng kiến nhiều mâu thuẫn, xung đột xảy ra trong rất nhiều
cặp vợ chồng và dẫn tới ly hôn ngày nay hay không hợp mệnh được xem là mộ
trong những nguyên nhân dẫn tới bất hạnh này. Chính vì lẽ đó mà việc xem tuổi
được coi là yếu tố tâm lý giúp con người vững tin hơn với hy vọng về cuộc sống
hôn nhân tốt đẹp. Và vô hình chung việc xem tuổi của đôi nam nữ đã trở thành
một nhu cầu thiết yếu không thể bỏ qua trong việc tiến hành các nghi lễ cưới hỏi ở
các gia đình trên địa bàn Hà Nội.

Tuy nhiên nếu không hợp tuổi thì vẫn tổ chức đám cưới và tìm cách thay
đổi hình thức đón dâu với hy vọng là tránh được nhiều điều xấu về sau. Ví dụ như
việc đón dâu vào từ cổng sau hoặc cô dâu chú rể không được về cùng nhau hay tục
lệ đón dâu hai lần….và kết quả từ điều tra mới đây trên tạp chí xã hội học số 2
năm 2010 của tác giả Mai Văn Hai trong tác phẩm: “ Biến đổi nghi lễ cưới hỏi ở
Đồng Bằng châu thổ Sông Hồng qua các thời kỳ” cho thấy trên địa bàn Hà Nội có
47, 3% trả lời là “ tìm cách khắc phục cho thích hợp” ; 45,4% cho là “ không quan
trọng” và chỉ có 7,3% ý kiến cho rằng “ kiên quyết không cho đôi trẻ lấy nhau”.
Điều này chứng tỏ yếu tố tình yêu trong hôn nhân ngày càng được trân trọng và
điều quan trọng là các bạn trẻ ngày nay đã không cam chịu để số phận hay “ thầy
bói, thầy tướng số” quyết định như trước nữa. Tuy nhiên việc tồn tại phong tục
xem tuổi cho thấy trong xã hội công nghiệp hiện đại ngày nay vẫn còn có nhiều
người tin vào tướng số và sự sung hợp của tuổi tác đặc biệt là những người trẻ
tuổi. Ngày nay, hôn nhân dựa trên cơ sở của tình yêu nhưng niềm tin vào số mệnh
vẫn đang chi phối quyết định hôn nhân của không ít gia đình và không ít thanh
niên.
c, Phong tục xem ngày giờ trước khi cưới
Theo quan niệm “ có thờ có thiêng có kiêng có lành” và việc chọn giờ tốt ,
ngày tốt để tổ chức việc trọng đại của cả một đời người được xem như là một nghi
lễ không thể thiếu được trong đời sống thường ngày. Phong tục này không chỉ

11


được diễn ra và lưu truyền trong hôn nhân truyền thống mà nó vẫn được tiếp tục
duy trì cho đến ngày nay. Nó phản ảnh mối quan hệ của con người với tự nhiên
nhiều hơn là niềm tin có tính chất định mệnh như việc xem tuổi, so tuổi. Con
người thường có xu hướng chọn “ ngay lành tháng tốt” trong năm để tổ chức đám
cưới cho đôi lứa. Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Lê Ngọc Văn thì gần một
nửa số người được hỏi ( 49,5%) cho biết có xem ngày giờ trước khi cưới. Không

có sự khác biệt lớn giữa các khu vực sinh sống, giới tính và hoàn cảnh kinh tế
nhưng lại có sự khác biệt đáng kể giữa các nhóm tuổi. Cụ thể nhóm người từ 61
tuổi trở lên chỉ có 30,5% xem ngày giờ trước khi cưới, trong khi nhóm từ 51 – 60
tuổi chiếm 39,1%; nhóm 41 – 50 tuổi là 55% và cao nhất là nhóm 40 tuổi trở
xuống chiếm 69,7%. “Trong số những người có xem ngày giờ trước khi cứơi hình
thức “ nhờ thầy xem” chiếm tỷ lệ cao hơn hìn thức “ gia đình tự xem” và hình thức
“ nhờ họ hang, ngừoi quen xem”. Trong số những người chọn hình thức nhờ thầy
xem khác biệt rõ nhất vẫn là nhóm tuổi. Tuổi càng trẻ thì tỷ lệ nhờ thầy xem ngày
giờ càng cao. Cụ thể nhóm những người từ 61 tuổi trở lên là 13,4%; tỷ lệ này tăng
lên 20,2% đối với nhóm 51 – 60 tuổi; 28,1% nhóm 41 – 50 tuổi và 38,2% với
nhóm 40 tuổi trở xuống.
Bảng 2: Xem ngày giờ trước khi cưới ( %)
Các nhóm xã hội

Khu vực cư trú

Giới tính

Độ tuổi

Có xem ngày giờ trước
khi cưới
Nội thành

49,5

Giáp nội thành

51,9


Xa nội thành

53,6

Nam

55,0

Nữ

49,2

40 trở xuống

69,7

41 – 50 tuổi

55,0

51 – 60 tuổi

39,1

61 tuổi trở lên

30,5

12



d, Các nghi lễ cưới xin
Lễ cưới là lễ chính và quan trọng nhất của một cuộc hôn nhân của người
Việt Nam. Và ngay cả những nghi lễ trong lễ cưới cũng đóng góp một phần không
nhỏ vào việc tổ chức lễ cưới và nó cũng là một phần quan trọng trong đám cưới.
Người dân Hà Nội hiếm cưới trái mùa mà thường cưới theo mùa. Trường hợp
cưới trái mùa thường là các đám cưới “ chạy tang” . Mùa cưới ở Hà Nội nói riêng
và người Việt nói chung thường diễn ra từ tháng 8 âm lịch năm trước đến tháng 4
âm lịch năm sau. Mùa hè thường kiêng không cưới vì theo quan niệm của người
dân thì “ 3 tháng mùa hè Ma mè ranh , mè nàng” ảnh hưởng đến con cái của đôi
vợ chồng trẻ và 3 tháng mùa hè thời tiết nóng nực rất vất vả cho việc tổ chức cưới
hỏi, đồng thời vào tháng 7 là tháng “ mưa ngâu” tháng của sự chia ly nên người ta
kiêng vì cho đó là tháng không may khi tổ chức cưới hỏi.
Các nghi lễ cưới xin truyền thống vẫn tiếp tục được duy trì ở những mức độ
khác nhau. Lễ cưới được thực hiện ở mức độ cao nhất: “ 99,3%, tiếp theo là lễ ăn
hỏi 86,9%, lại mặt 52,1% và thấp nhất à xem mặt 15,3%” ( Lê Ngọc Văn, tạp chí
gia đình và giới tr: 6, quyển 22 – số 4 – năm 20102).

Bảng 3: Mức độ thực hiện các nghi lễ cưới xin ở Hà Nội ( %)
Các nghi lễ

Có thực hiện

Lễ xem mặt

15,5

Lễ dạm ngõ

69,8


Lễ ăn hỏi

86,9

Lễ xin dâu

77,7

Lễ cưới

99,3

Lễ lại mặt

52,1

Lễ khác

1,0

( Những biến đổi phong tục nghi lễ liên quan đến cưới hỏi ở Hà Nội – Lê Ngọc
13


Văn, tạp chí gia đình và giới quyển 22 – số 4 – năm 2012 )
Cũng trong điều tra nghiên cứu của tác giả Lê Ngọc Văn thì việc thực hiện
các nghi lễ cưới xin, nhóm trẻ có tỷ lệ cao hơn nhóm cao tuổi . Ví dụ như 21%
người dưới 40 tuổi thực hiện lễ xem mặt so với 16,3% người 41 – 50 tuổi; 10,5%
người 51 -60 tuổi và 12% người 61 tuổi trở lên. 80,3% người dưới 40 tuổi thực

hiện lễ dạm ngõ so với 74,4% người 41 – 50 tuổi ; 63,3% người 51 – 60 tuổi và
51,4% người trên 61 tuổi thực hiện nghi lễ này. Cũng theo điều tra của tác giả thì
những ngừoi sống ở nội thành cũng có tỷ lệ thực hiện một số nghi lễ cưới xin cao
hơn người sống ở giáp nội thành.

Bảng 4: Nghi lễ cưới xin theo nhóm xã hội (%)
Các nhóm xã hội

Khu vực
cư trú
Giới tính
Độ tuổi

Năm kết
hôn

Nội thành
Giáp nội thành
Xa nội thành
Nam
Nữ
40 tuổi trở xuống
41 – 50 tuổi
51 – 60 tuổi
61 tuổi trở lên
1945 - 1975
1976 - 1986
1987 - 1994
1995 - 2004
2005 - 2010


Lễ
Xem
mặt
18,8
14,5
14,4
11,8
18,9
21,7
16,3
10,5
12
12,6
13,1
16,2
22,0
31,1

Lễ dạm
ngõ

Lễ ăn
hỏi

Lễ xin
dâu

Lễ cưới Lễ lại
mặt


69,3
67,9
72,9
68,0
71,7
80,3
74,4
63,3
51,4
57,1
65,9
75,8
77,5
80,4

89,3
84,0
87,3
87,2
86,6
93,4
91,2
83,1
72,4
74,2
85,2
90,8
95,8
94,1


74,3
76,9
81,9
79,0
76,8
90,2
82,7
73,4
52,9
60,4
76,8
83,3
88,0
91,6

98,5
99,7
99,5
99,0
99,4
100
99,2
99,2
98,1
98,8
99,7
99,2
99
100


60,3
49,9
46,2
48,1
55,0
66,8
57,3
42,3
29,5
34,2
48,3
63,2
56,0
52,3

14


Từ những số liệu mà tác giả Lê Ngọc Văn đưa ra ta thấy một thực trạng là
sự khác biệt rõ nhất về mức độ thực hiện các nghi lễ cưới xin là giữa các nhóm
tuổi. NHóm tuổi càng trẻ mức độ thực hiện các nghi lễ cưới xin càng ngày càng
cao. Tương tự như vậy thì ở nhóm những người mới kết hôn sau thời kỳ đổi mới
có tỷ lệ cao hơn nhóm những người kết hôn trước đổi mới. Điều này cho thấy
được sự phát triển về điều kiện xã hội và kinh tế công nghiệp hoá phát triển nên
người ta có xu hướng tổ chức cưới xin đàng hoàng hơn và đi kèm với nó là các
nghi lễ cưới xin cũng được chú trọng hơn về hình thức.
e, Hình thức tổ chức đám cưới:
Theo tục lễ xưa thì đám cưới phải có cỗ bàn “ cỗ to no đám” cỗ càng to thì
đám cưới càng lớn, danh giá cô dâu càng cao. Tuy nhiên tuỳ theo thời gian, gia

cảnh của gia đình mà có sự thay đổi chút ít trong mâm cỗ của người Hà Nội xưa.
Nhưng nhìn chung là mâm cỗ của người Hà Nội bao gồm đủ 6 đĩa, 4 bát. Con số
10 tròn trịa tượng trưng cho lời chúc hạnh phúc trọn vẹn cho đôi vợ chồng mới, đó
là chưa kể đến các loại bát đĩa phụ như rau thơm, nước chấm...Ngày nay tiệc mặn
là hình thức tổ chức đám cưới chiếm 84%, tiệc ngọt chỉ chiếm 10%, tiệc trà thuốc
5%, các hình thức khác như báo hỷ, chỉ đăng ký kết hôn không tổ chức đám cưới
hầu như không diễn ra. Theo tài liệu nghiên cứu của tác giả Lê Ngọc Văn thì sự
khác biệt đáng kể trong việc tổ chức đám cưới vẫn là các nhóm tuổi. Những người
tù 40 tuổi trở xuống có tỷ lệ tổ chức tiệc mặn cao nhất chiếm đến 96,8% so với
90,2% ở nhóm người từ 41 – 50 tuổi; 80,6% ở nhóm người từ 51 -60 tuổi và
63,3% ở nhóm người từ 61 tuổi trở lên. Nhưng ngược lại các hình thức tổ chức
tiệc ngọt và trà thuốc lại chiếm tỷ lệ cao nhất ở nhóm người từ 61 tuổi trở lên so
với tất cả các nhóm tuổi và nhóm xã hội khác là 22,9 % và 12,9%. ( Bảng 5 ).
Điều này có thể lý giải là đám cưới của những người có nhóm tuổi tù 61 tuổi trở
lên được tổ chức trong giai đoạn kinh tế khó khan của đất nước đó là thời ỳ bao
cấp hoặc chiến tranh . Chính vì vậy mà việc tổ chức tiệc mặn là một việc khó khăn
hơn rất nhiều so với thời kỳ đất nước đổi mới.
Bảng 5: Hình thức tổ chức đám cưới (%)

Nhóm xã hội

Khu vực
cư trú
Giới tính

Nội thành
Giáp nội thành
Xa nội thành
Nam
Nữ


Tiệc
mặn

Tiệc
ngọt

Trà
thuốc

Báo hỷ

78,0
89,2
89,1
85,1
85,7

17,0
6,8
5,0
8,8
3,5

4,3
3,5
5,5
5,7
3,5


0
0
0,2
0
0,1

Chỉ
đăng ký
kết hôn
0,8
0,5
0
0,2
0,6

15


Độ tuổi

Năm kết

40 tuổi trở xuống
Từ 41 – 50 tuổi
Từ 51 – 60 tuổi
61 tuổi trở xuống
1945 – 1975
1976 – 1986
1987 – 1994
1995 – 2004

2005 -2010

96,8
90,2
80,6
63,3
67,5
81,0
94,2
96,2
99,3

2,0
6,0
14,5
22,9
21,3
12,3
3,6
3,1
0,7

1,2
3,0
4,0
12,9
10,4
6,1
1,7
0

0

0
0,3
0
0
0
0
0
0,5
0

0
0,5
0,8
0,5
0,4
0,6
0,6
0
0

2.3.2. Xu hướng biến đổi các nghi lễ, phong tục trong việc cưới hỏi ở Hà Nội.
a, Biểu hiện của những xu hướng biến đổi trong các nghi lễ, phong tục cưới hỏi ở
Hà Nội.
Trong bối cảnh đất nước đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và đổi mới toàn diện
từ cuối thập niên 80 cho đến nay kinh tế đất nước phát triển, đời sống nhân dân có
sư chuyển biến mạnh mẽ trên nhiều phương diện, nhiều lĩnh vực kể cả về văn hoá
và tục lệ hôn nhân cũng không phải là ngoại lệ. Đất nước trong đà đi lên với xu
hướng toàn cầu hoá và hội nhập trên tất cả các phương diện. Những nghi lễ trong

đời sống hôn nhân thay đổi theo đó cho phù hợp với đòi hỏi và nhu cầu của con
người. Các nghi lễ, phong tục cưới xin ở Hà Nội cũng biến đổi theo các xu hướng
sau:
- Bảo tồn và sự trở lại ( phục hồi) có tính chọn lọc cá quan niệm và các tục lệ hôn
nhân truyền thống kết hợp với những yếu tố tiến bộ của luật hôn nhân và gia đình.
-Từ bỏ một số hủ tục lạc hậu trong nghi lễ, phong tục cưới hỏi trong xã hội cổ
truyền.
- Sáng tạo và du nhập, dung hoà một cách thiếu lựa chọn các tục lệ, nghi lễ trong
việc cưới xin mới được du nhập từ các vùn khác nhau trong và ngoài nước theo
hình thức “ lai căng”, chưa phù hợp với thực tế của địa phương.
* Xu hướng bảo tồn và sự trở lại ( phục hồi) có tính chọn lọc cá quan niệm và
các tục lệ hôn nhân truyền thống kết hợp với những yếu tố tiến bộ của luật hôn
nhân và gia đình.
Đây là một xu hướng được bắt đầu từ những năm cuối thập kỷ 80 và đang là xu
hướng phát triển trong những năm gần đây. Đó là hiện tượng “ trở về nguồn”trong
sự phát triển của văn hoá tộc người và thể hiện hiệu quả cách thức xử lý mối quan
16


hệ giữa “ truyền thống và hiện đại”, “ đổi mới và cách tân”, “ truyền thống và phát
triển”. Một số tục lệ hôn nhân truyền thống vốn là những phong tục tập quán ăn
sâu vào cuộc sống của làng xã từ hàng ngàn đời nay, đã thấm vào trong từng
người, trở thành “ nếp ứng xử” ( văn hoá) của người dân. Có nhiều tục lệ hôn nhân
vẫn còn được lưu giữ, bảo tồn và còn nguyên giá trị trong đời sống hiện tại. Trong
thời kỳ đất nước rơi vào cảnh loạn lạc chiến tranh và thời kỳ bao cấp do nhiều
nguyên nhân mà người dân ở đây phải từ bỏ nó, nhưng trong thâm tâm họ vẫn
muốn được bảo tồn, gìn giữ. Vì vậy mà khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới,
đất nước đi lên, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện khi có cơ hội các hiện
tượng văn hoá đó được phục hồi trở lại và biểu hiện trên các mặt sau.
- Sự khẳng định trở lại vai trò của gia đình, của bố mẹ và người cao tuổi trong họ

tộc…trong việc lựa chọn vợ chồng và đứng ra tổ chức đám cưới cho con cái.
Trong xã hội phong kiến và cho đến tận gia đoạn đất nước ở thời kỳ quan liêu bao
cấp thường tuyệt đối hoá quan niệm “ cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” là hủ tục lạc
hậu và đề cao tuyệt đối “ nam nữ tự do yêu đương” vì thế hôn nhân của lứa đôi
thiếu sự định hướng và hướng dẫn đúng đắn của cha mẹ, ông bà. Điều đó đã để lại
hệ quả là gia đình không phải bao giờ cũng hạnh phúc, tỷ lệ các cặp vợ chồng trẻ
ly hôn tăng đáng kể và có xu hướng ngày một gia tăng nhiều hơn nữa. Có nhiều
quan niệm cho rằng ngày xưa cha mẹ tham gia vào việc cưới xin và chọn vợ/
chồng cho con là hủ tục nhưng không có nhiều người ly hôn như thời kỳ hiện đại
điều đó chứng tỏ một điều cha mẹ và người lớn đều có sự nhìn nhận sâu sắc, chin
chắn, toàn diện hơn lớp trẻ. Như vậy, để thấy được rằng dù ở thể chế xã hội nào thì
ý kiến đóng góp của người lớn ( ông bà, bố mẹ…) đối với sự lựa chọn bạn đời
cũng rất quan trọng. Chính vì vậy mà ngày nay ngay cả trong luật hôn nhân và gia
đình được sửa đổi sau này cũng có ghi nguyên tắc “ nam nữ tự do tìm hiểu có sự
góp mặt của người lớn”. Và hiện nay nhiều bậc bố mẹ ở Hà Nội cũng quan tâm
tham gia giúp con cái lựa chọn bạn đời, tham gia vào việc tổ chức cưới hỏi cho
con và lớp trẻ ở đây cũng đón nhận mà không cảm thấy bị gò ép…Cũng theo báo
cáo nghiên cứu về vấn đề “ biến đổi về nghi lễ, phong tục liên quan đến cưới xin ở
Hà Nội” tác giả Lê Ngọc Văn cũng đã đưa ra có đến : “ 83% số người được hỏi ý
kiến cho biết đám cưới của họ là do cha mẹ đứng ra tổ chức, chỉ có khoảng 9% là
tự lo liệu, 3% do cơ quan đoàn thể lo liệu, 2% do anh chị em trong gia đình lo liệu,
1% do bạn bè” ( tạp chí gia đình và giới quyển 22- số 4 – năm 2012). Đám cưới
của con cái vẫn tiếp tục là công việc của bố mẹ vì tại thời điểm tổ chức cưới hỏi
phần vì cô dâu và chú rể chưa đủ khả năng về tài chính còn hạn chế mà cả những
kinh nghiệm, sự hiểu biết và tường tận những nghi lễ trong đám cưới cũng không
có cho nên việc chu toàn tất cả mọi mặt của một đám cưới bố mẹ vẫn là người lo
toan và tham gia vào công việc này.
- Sự trở lại ở mức độ nhất định về việc “ xem tuổi , so tuổi” trước khi cưới. Như
đã nói ở phần trên thì quan niệm về việc “ hợp tuổi” được coil à một yếu tố quan
17



trọng nhất. Trong thời kỳ xã hội bao cấp thì nó là mê tín dị đoan nên bị phê phán
và bãi bỏ. Còn ngày nay người ta quan niệm rằng nên xem tuổi vì đây là một biện
pháp dự phòng cho tương lai tốt đẹp của đôi trai gái và gia đình hạnh phúc. Và
một thực trạng gần đây về số vụ ly hôn đang ngày một gia tăng không chỉ ở Hà
Nội mà trên cả nước nói chung thì đây cũng là một nguyên nhân trực tiếp thúc đấy
xu hướng đi “ xem tuổi, so tuổi” phát triển trong thời đại ngày nay. Theo số liệu
điều tra xã hội học của Viện Văn hoá nghệ thuật tại xã Nhân Hoà, Vĩnh Bảo, Hải
Phòng năm 1997 cũng có hiện tượng tương tự. Trong 72,5% người đã có gia đình
có đi xem tuổi ( chỉ có 27,5% không trả lời) và 66% người chưa lập ra đình nói
rằng họ sẽ đi xem tuổi trước khi cưới ( chỉ có 23,4% trả lời là không). ( Trích từ “
Biến đổi nghi lễ cưới hỏi ở Đồng Bằng châu thổ Sông Hồng qua các thời kỳ”- Mai
Văn Hai, dẫn theo Lê Như Hoa “ Hôn lễ xưa và nay ở Việt Nam” –Xb Năm 1998)
Hay trong mô hình đám cưới tác giả Khuất Thu Hồng đã điều tra ở xã Trung Văn (
Từ Liêm – Hà Nội) thì có 7 đám cưới có xem tuổi kỹ, 3 đám xem qua loa và chỉ có
2 đám là không xem.
- Việc xem “ ngày, giờ, tháng, năm” của các lễ ăn hỏi, lễ cưới được người dân
cũng rất quan tâm. Tập tục này đã có từ lâu đời nhưng trong thời kỳ bao cấp nó
được liệt vào danh sách những hủ tục mê tín dị đoan bị lên án và loại bỏ. Đa số
các đám cưới đều được tổ chức vào các ngày chủ nhật. Từ sau đổi mới nhất là
những năm gần đây cùng với hiện tượng so tuổi và “ được tuổi” được quan tâm
nhiều hơn. Các thủ tục, nghi lễ cưới hỏi đều được chọn ngày giờ, tháng năm để tổ
chức.
- Tổ chức tiệc mặn, cỗ bàn ăn uống linh đình đang phát triển trở lại. Tục lệ này
không chỉ diễn ra trong xã hội truyền thống mà ngày nay nó đang có xu hướng tiệc
mặn linh đình hoá đám cưới. Cho dù nhà nước ta một thời kỳ đã đưa ra những
chính sách khuyến khích và ép buộc nhằm giảm thiểu “ vấn nạn” này nhưng nó
vẫn “ bùng phát” trở lại và ngày càng có xu hướng linh đình hơn. Trước đây cỗ
bàn ăn uống chỉ mang hình thức “trả nợ miệng” thì ngày nay ngoài ý nghĩa ấy cỗ

bàn còn mang tính chất “ khoe khoang” hay “ thương mại hoá, kinh doanh”. Đám
cưới ngày xưa tổ chức ăn uống thì gia đình bỏ ra là chính, phần thu về từ tiền
mừng và lễ vật mừng hỷ không đáng là bao nhiêu nhưng ngày nay cỗ bàn là “ có
lời”. Việc chạy đua tổ chức tiệc mặn, cỗ bàn ở khía cạnh nào đấy còn thể hiện tâm
lý” đám đông”, “ cạnh tranh đố kỵ, con gà tức nhau tiếng gáy”. Xu hướng tổ chức
ăn uống cỗ bàn linh đình không chỉ đang ngày càng phát triển ở Hà Nội mà còn
nhiều địa phương khác trên cả nước.
* Xu hướng bãi bỏ những nghi thức hôn nhân hủ tục lạc hậu trong xã hội cổ
truyền.
Như đã trình bày ở phần trên thì việc “lục lễ” trong việc tổ chức cưới hỏi trong xã
hội truyền thống ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung với một số hủ tục lạc
18


hậu đã và đang bị bãi bỏ. Từ “ lục lễ” ( lễ nạp thái, vấn danh, nạp cát, thỉnh kỳ,
nạp tệ, thân nghinh) với những quy tắc, quy định chặt chẽ thì nay đã giản tiện đi
còn có “ tam lễ” ( chạm ngõ, ăn hỏi và lễ cưới). Đặc biệt là bãi bỏ về tục lệ “nộp
cheo” (Nộp cheo tức là nộp cho làng người con gái tiền hoặc lễ vật định bởi
hương ước để làng này công nhận là chàng rể đã lấy cô gái làng mình. Trai gái
cùng một làng lấy nhau cũng phải nộp cheo theo lệ làng).
* Sự du nhập ở mức độ nào đó các hình thức “ lai căng” trong việc cưới hỏi
Trong điều kiện Đất Nước đang phát triển và hội nhập với các quốc gia trên thế
giới không chỉ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội mà ngay cả trên lĩnh
vực văn hoá cũng có sự hội nhập, dung hoà và du nhập các hình thức văn hoá của
các quốc gia trên thế giới và nghi lễ cưới hỏi cũng không phải là trường hợp ngoại
lệ. Sự du nhập, dung hoà, “ lai căng” trong việc tổ chức, các nghi lễ, phong tục
cưới hỏi được thể hiện trên các phương diện sau:
- Trang phục cô dâu chú rể hoàn toàn khác trước. Đại đa số ở Hà Nội trang phục
cô dâu chú rể giống như các vùng khác trên cả nước. Quần áo đều thuê ở các của
hiệu, cô dâu có người chuyên nghiệp trang điểm cho. Và hầu như đại đa số các cô

dâu và chú rể đều chọn cho mình trang phục cưới được du nhập từ các Phương
Tây đó là Cô dâu mặc sorie trắng, chú rể mặc vest. Bộ váy cưới qua thời gian
cũng được cách tân vô cùng hiện đại và đem lại sự thoải mái cho các cô dâu.
- Phương tiện đưa đón rước dâu và tiến hành các nghi thức hoàn toàn khác với
xã hội cổ truyền. Trong xã hội cổ truyền người ta đón dâu trong làng trong xã chủ
yếu là đi bộ, xa hơn là xe ngựa….Sau này khi xã hội đã phát triển hơn thì việc đón
rước dâu nếu ở xa thường đi ôtô, xe máy. Thậm chí ngay trong thành phố với
khoảng cách địa lý không xa là mấy cũng có người thuê ô tô đón dau, đi một vòng
quanh thành phố rồi mới về nhà trai . Việc thuê mượn phương tiện đón rước ngoài
mục đích là làm phương tiện đi lại thì ở Hà Nội còn nhằm phô trương, khoe của và
cho “ bằng bạn bằng bè”.
- Dịch vụ cưới hỏi đang “ mọc lên như nấm sau mưa” nhằm đáp ứng các nhu cầu
của các “ thượng đế” ngày nay. Từ dịch vụ bê lễ, dựng rạp, tổ chức lễ cưới, quay
phim chụp ảnh đến dịch vụ thuê hội trường, dựng rạp, nấu ăn, ngay cả dịch vụ cho
thuê, may trang trang phục cưới và xe cộ. Dịch vụ đám cưới với tư cách là một
loại hình dịch vụ kinh doanh trong thời kỳ đổi mới phát triển mạnh mẽ. Trong
nghiên cứu của tác giả Lê Ngọc Văn thì hầu hết những người được hỏi cho biết
đều sử dụng dịch vụ cứoi hỏi ở những mức độ khác nhau. Những người sống ở
khu vực nội thành có mức độ sử dụng các loại dịch vụ cao nhất đối với hầu hết các
loại hình dịch vụ đám cưới. “ nhóm nội thành sử dụng dịch vụ thuê hội trường,
nhà hang, khách sạn cao hơn đáng kể so với nhóm giáp nội thành và xa nội thành
là 27,8% so với 2,4% và 1,5%..” ( Tạp chí gia đình và giới quyển 22 – số 4 – năm
2012 )
- Nghi thức xin dâu, đón dâu ở Hà Nội ngày nay cơ bản là giống như trước đây về
mặt tục lệ. Riêng lễ cứơi thì khác trước rất nhiều. Sau lễ khai mạc cỗ bàn cùng
19


đồng nghĩa với tổ chức lễ cưới luôn. Khách vừa sự cưới vừa ăn uống, cô dâu, chú
rể đi đến các bàn cảm ơn. Lễ cưới kết thúc khi đã tàn cỗ cưới. Những gia đình có

mời riêng khách dự tiệc cưới và khách dự tiệc trà thì thường tiệc trà được tổ chức
vào tố hôm trước ngày cưới. Những người không dự tiệc cỗ bàn thì mừng cho gia
đình và cô dâu chú rể.
- Khách mời dự cưới và tặng phẩm mừng cưới:
Đối với khách dự tiệc trà thì không phân biệt nam nữ và số người đi dự. Nếu là
khách mời ăn bây giờ thường là đi một người có thể là người đàn ông hoặc đàn bà
trong gia đình. Tặng phẩm mừng cưới chủ yếu là mừng bằng tiền. Tuỳ theo quan
hệ mà xem xét phải mừng bao nhiều tuỳ ý nhưng hiện nay lệ mừng cưới khi đi ăn
cỗ thì ít nhất phải từ 200.000đ trở lên. Trước đây người ta thường tặng vật phẩm
và có ngừơi ngồi nhận và ghi vào sổ mừng để gia đình còn biết được ai là người
tặng gì? Bao nhiêu? Để sau này còn biết mà đi lại khi nhà người đó có lễ cưới cho
phải phép còn bây giờ người ta mừng bằng tiền, tặng phẩm bằng hiện vật và tên
thì đã được ghi vào phong bì.
Điều có thể thấy là cưới xin trong thời kỳ này đơn giản hơn về nghi thức nhưng
nặng nề và rườm rà về hình thức, nghiêng về kinh tế nhiều hơn, mặt văn hoá quá
mờ nhạt. Đám cưới ồn ào, phô trương nhưng thiếu tính sinh hoạt cộng đồng. Nó
chỉ là việc riêng của cá nhân, gia đình chứ không còn là việc chung của họ tộc và
của làng xóm như trong xã hội cổ truyền. “ Tính cộng đồng, cộng cảm được thể
hiện ở 2 nghi thức chủ yếu là “ bữa ăn cộng cảm và lễ cưới” thì trong gia đoạn này
không được thể hiện. Đám cưới không được tổ chức theo nghi thức sinh hoạt văn
hoá cộng đồng và bữa cỗ chỉ có ý nghĩa kinh tế mà người ta hay gọi là “ ăn cơm
giá cao”. Nếu mất đi giá trị và ý nghĩa về phương diện lễ tục và văn hoá thì đám
cưới sẽ mất hết ý nghĩa, không còn là một trong những “ bản sắc văn hoá” độc đáo
của người Việt”. ( Nghi lễ dân gian – Minh Đường, NXB Thời Đại, XB năm
2010).
2.3.3. Vấn đề đặt ra từ thực trạng và xu hướng biến đổi về phong tục và nghi lễ
cưới hỏi.
Từ xu hướng phục hồi mạnh mẽ các phong tục và nghi lễ cưới xin cho thấy xã hội
đang tiêu tốn rất nhiều thời gian và tiền của cho đám cứoi. Mặt khác sự bùng nổ
tiệc mặn ngày càng to và phạm vi khách mời ngày càng mở rồng cùng với đó là xu

hướng “ thương mại hoá tiệc cưới” đang làm biến dạng đi bản chất văn hoá cộng
đồng. Thực trạng này đã chứng minh rằng cuộc vận động xây dựng nếp sống mới,
và các chuẩn mực văn hoá trong việc tổ chức cưới hỏi ở Thành phố Hà Nội trong
nhiều năm qua đã không đạt được kết quả như mong đợi. Nó cũng chứng minh
rằng không thể thay đổi thói quen, tập tục văn hóa cũ đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi người dân và xây dựng nên các chuẩn mực văn hoá mới chỉ bằng việc đưa ra
mệnh lệnh hay các quy định chủ quan, duy ý chí.
“Đặc điểm của các thói quen và tâph tục văn hoá là những người thực hiện các tập
tục đó không thật sự hiểu về ý nghĩa của nó. Nhiều khi nó đơn thuần chỉ là hành vi
bắt chước và theo tâm lý đám đông. Vì vậy muốn thay đổi thói quen văn hoá cần
20


tuyên truyền, giáo dục để người dân thấy rõ ý nghĩa của các hành vi văn hoá. Từ
đó người dân thấy rằng trong các tập tục văn hoá truyền thống cần giữ lại cái gì và
thay đổi cái gì? Vì sao cần giữ lại và thay đổi?” ( Xã hội học văn hoá – Mai Kim
Thanh, NXB Giáo Dục Việt)
2.4 : Nguyên nhân của sự biến đổi những nghi lễ, phong tục liên quan đến
cưới hỏi ở Hà Nội .
Những tục lệ hôn nhân trong thời kỳ này vẫn tiếp tục biến đổi và chưa định hình.
Cả trong dân gian và cả phương diện Nhà Nước cũng đang tìm kiếm một mô hình
đám cưới mới vừa “ tiên tiến hiện đại, vừa đậm đà bản sắc dân tộc”. Tất cả vẫn
còn đang trong quá trình thử nghiệm và lựa chọn. Những tục lệ cứơi hỏi truyền
thống đã từng được thử thách của thời gian trở thành nếp sống và thế ứng xử của
người Việt, những tục lệ mới đang thực thi ở các đám cưới hiện nay gọi là tiên
tiến, là mới cũng chưa được thời gian kiểm chứng, vẫn có thể thay đổi. Nói như
vậy để thấy rằng “ giải quyết hài hoà giữa bản sắc truyền thống văn hoá với đổi
mới và cách tân còn là bài toán chưa tìm được lời giải đáp”. ( Nghi lễ hôn nhân Minh Đường , NXB Thời Đại, Xb năm 2010). Từ những biến đổi của các nghi lễ
hôn nhân thời kỳ đổi mới có thể cho thấy nó xuất phát từ những nguyên nhân cơ
bản sau.

2.4.1: Sự đổi mới toàn diện của Đất Nước, đặc biệt là sự đổi mới quan điểm
chính sách của Đảng và Nhà Nước Việt Nam đối với nền văn hoá truyền thống và
nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.
Các chủ trương chính sách và các biện pháp tiến hành cứng nhắc, duy ý chí thời
kfy bao cấp nay được xem xét trên nhiều phương diện chủ quan, khách quan và
dưới nhiều góc độ. Việc thực giải quyết, thực thi mọi việc mang tính khách quan
hơn, phù hợp hơn với thực tiễn của Việt Nam hơn. Trước đây có sự đối lập tuyệt
đối giữa văn hoá cổ truyền và văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Văn hoá cổ truyền
thường bị cường điệu hoá về mặt tiêu cực nhiều hơn và nhiều khi trở thành đối
tượng bị cải tạo xoá bỏ. Hiện nay Việt Nam đã có cách nhìn đúng đắn hơn đối với
văn hoá truyền thống. Những giá trị văn hoá cổ truyền ( dù tiến bộ hay lạc hậu)
đều được coi là “ bản sắc văn hoá Việt Nam”. Đó là cơ sở để “Việt Nam hội nhập
vào Quốc tế và khu vực mà không bị hoà tan” và văn hoá Việt Nam vẫn được gìn
giữ, phát huy, phát triển trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá như hiện nay.
Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam về “ xây dựng một nền văn hoá Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là thể hiện tinh thần đó.
Cùng với sự đổi mới trong quan niệm, chính sách Nhà nước Việt Nam ở các cấp
đều có sự đổi mới trong việc quản lý và thực hành đời sống văn hoá ở trong nông
thôn. Hay nói cách khác là trước đây Nhà Nước không chỉ áp đặt mô hình văn hoá
từ trên xuống ( quản lý một chiều) cho cộng đồng mà còn quản lý cả hành vi ứng
xử văn hoá của cá nhân và gia đình. Những hành vi ứng xử khác với khuôn mẫu
văn hoá đó bị coi là “ phạm pháp”. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới ngừơi dân
21


được quyền lựa chọn hành vi ứng xử văn hoá theo cách của mình miễn là nằm
trong khuôn khổ của pháp luật. Không những về phương diện sản xuất kinh tế
người dân chủ động mà cả trong việc thực hành các văn hoá dân tộc. Trong bối
cảnh như vậy tục lệ, nghi lễ trong cứơi hỏi đã diễn ra theo xu hướng trên. Thực tế
ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung cho thấy quá trình lựa chọn các mô hình

hôn nhân cổ truyền và hiện đại là xu hướng chính thống. Các mô hình hôn lễ được
áp dụng tại Hà Nội cũng có nhiều ý kiến khen chê khác nhau. Lý do khen chê
cũng không thống nhất là do hôn lễ ở đây còn nghiêng về hai cực ( có đám thì quá
hiện đại, có đám thì lại câu nệ lệ tục) mà chưa có sự kết hợp, dung hoà giữa tính
hiện đại tiên tiến với bản sắc văn hoá dân tộc.
2.4.2. Đời sống kinh tế của người dân ở Hà Nội đang ngày càng phát triển.
Là thủ đô của cả nước và cũng là trung tâm kinh tế của nước ta, với tốc độ đô thị
hoá nhanh chóng người dân Hà Nội rất nhanh nhạy trong việc chuyển đổi kinh tế,
trong làm ăn. Không chỉ chú trọng vào việc lo làm ăn mà người dân ở Hà Nội còn
chăm lo choc ho đời sống văn hoá, lo việc cưới…Và việc đời sống ngày càng đi
lên, nền kình tế không chỉ đủ ăn mà còn dư thừa chính vì vậy đời sống văn hoá
cũng được chăm lo và phát triển chính vì vậy mà “ phú quý sinh lễ nghĩa”, người
dân ở Hà Nội quan trọng việc cưới xin hơn và coi nó như một việc trọng đại của
cả đời người nên không thể làm qua loa mà phải được chăm chút, cầu kỳ thể hiện
nét đẹp trong truyền thống văn hoá của người Tràng An. Chính sự phát triển trong
đời sống kinh tế cũng kéo theo đó là sự đổi mới trong nhận thức, quan niệm là một
trong những nguyên nhân chính tạo nên sự chuyển đổi trong hôn lễ ở Hà Nội.
2.4.3. Sự đổi mới cơ chế chính sách của Nhà nước đặc biệt là cơ chế quản lý
kinh tế.
Từ sau khi thực hiện chính sách cải cách và đổi mới trong chuyển dịch cơ cấu kinh
tế mà quan trọng hơn là đổi mới cách quản lý sau năm 1986 đến nay người dân
được quyền tự chủ sản xuất và sở hữu sản phẩm do mình làm ra. Trong thời kỳ
bao cấp phần vật chất cho đám cưới đều do Nhà Nước quản lý, phân phối từ lương
thực thực phẩm đến tất cả các mặt hang đồ gia dụng khác. Người dân muốn mua
cũng không được…vì thế người dân không có điều kiện tổ chức đám cưới theo ý
mình. Thậm chí ai có điều kiện để tổ chức đám cưới to người ta cũng lập tức đặt ra
sự nghi ngờ “ tài chính lấy ở đâu ra?”. Nhiều người dân đã cho rằng nhờ cơ chế
chính sách mới thông thoáng hơn nên người dân dễ dàng trong việc làm ăn và
trong việc tự lo cho cuộc sống của mình.
2.4.4. Sự tác động của kinh tế thị trường và sự chịu ảnh hưởng văn hoá đô thị

và “ Quốc tế hoá” đang diễn ra mạnh mẽ.

22


Từ năm 1986 trở lại đây Hà Nội càng có nhiều cơ hội thúc đẩy quá trình đô thị
hoá của mình nhanh chóng hơn nữa. Sự tham gia vào tổ chức ASEAN năm 1995
và chính thức trở thành thành viên thứ 150 vào ngày 11-1-2007 của tổ chức
thương mại quốc tế WTO của Việt Nam… và các tổ chức quốc tế khác nữa thì với
thuận lợi là thủ đô của đất nước, Hà Nội có rất nhiều cơ hội để phát triển trên tất
cả các lĩnh vực đặc biệt là kinh tế. Với xu thế mở của thị trường và toàn cầu hoá
thương mại đã giúp cho Hà Nội tiến một bước dài trên vũ đài kinh tế của cả nước.
Cùng với những thuận lợi về kinh tế thì kéo theo đó là những thuận lợi cho Hà Nội
giao lưu văn hoá. Cùng với sự du nhập các yếu tố văn hoá từ ngoài vào thì các tập
tục, nghi lễ hôn nhân mới cũng đi vào theo. Người dân tiếp thu và học hỏi những
cái mới và mang về áp dụng vào đời sống của mình. Kinh tế thị trường tạo cho con
người ta có thu nhập đáng kể, có dư giả, có của ăn của để và có nhiều thứ cho
người ta lựa chọn để thực hiện cái gọi là “ đời người chỉ có một lần”. Thêm vào đó
nền kinh tế thị trường và quá trình đô thị hoá làm cho con người ta ít quan tâm đến
việc của người khác. Dư luận xã hội cũng không còn nặng nề nữa. Chính vì vậy
mà người dân có thể tổ chức cưới xin theo ý muốn và điều kiện của mình.
C. Kết Luận
Trong tiến trình lịch sử dân tộc, tục lệ và các nghi lễ, phong tục liên quan đến cưới
hỏi của người Việt nói chung và ở Hà Nội nói riêng đã có nhiều biến đổi. Cùng với
sự biến đổi thằng trầm của thời đại lịch sử dân tộc, của thời gian thì các nghi lễ
cưới xin cũng có sự biến đổi từ truyền thống đến hiện đại. Sự biến đổi của tục lệ,
nghi lễ cưới xin ở Hà Nội thể hiện qua sự thay đổi về quan niệm, quy tắc và các
nghi lễ của việc cưới xin. Trong hai mặt biến đổi cơ bản này thì sự biến đổi về
quan niệm, tính chất và các quy tắc của việc cưới hỏi mang tính chất ổn định hơn
cả từ truyền thống đến hiện đại. Còn những biến đổi trong nghi lễ, phong tục cưới

hỏi thì có nhiều thay đổi trong hai thời kỳ truyền thống và hiện đại. Sự biến đổi
của các nghi lễ, phong tục này diễn ra theo 3 xu hướng đó là:
- Sự lưu giữ, bảo tồn và sự trở lại ( phục hồi) có tính chọn lọc các nghi lễ, phong
tục cưới hỏi truyền thống kết hợp với những yếu tố tiến bộ của luật hôn nhân và
gia đình.
- Từ bỏ một số tục lệ , nghi lễ cổ hủ lạc hậu được lưu truyền từ trong xã hội truyền
thống.
- Sáng tạo và sự dung hoà, du nhập một số hình thức, nghi lễ cưới xin của các
vùng, quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt là các nước Phương Tây.
Bằng việc phân tích những vấn đề ở trên cho ta thấy rằng việc biến đổi các nghi lễ,
phong tục liên quan đến cưới hỏi ở Hà Nội nói riêng và ở Việt Nam nói chung là
một điều tất yếu phù hợp với nguyện vọng và nhu cầu của người dân và cũng là

23


một điều tất yếu trong tiến trình phát triển của thời đại.

người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh th3.3.2áng đẻ của người con



gái.






Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau

thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để
rước dâu về.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người
con gái.

Hạngkf
-f.ppdf.lfv

Hgefgejehjfhr

Danh mục tài liệu tham khảo
1, “ Những biến đổi về các nghi lễ, phong tục cưới hỏi ở Hà Nội” – Lê Ngọc Văn,
đăng trên “tạp chí gia đình và giới” – quyển 22, số 4, năm 2012.
2, “Nghi lễ hôn nhân” – Minh Đường, NXB Thời Đại, xb năm 2010.
24


3, “ Lễ cưới người Việt” - Thư viện mở Wikipeadia tiếng Việt.
4, Tạp chí Xa hội học số 2 năm 2010 của tác giả Mai Văn Hai trong tác phẩm:
“ Biến đổi nghi lễ cưới hỏi ở Đồng Bằng châu thổ Sông Hồng qua các thời kỳ”.
5, “ Xã hội học văn hoá” – Mai Kim Thanh, NXB Giáo Dục Việt.
6, “ Phong tục Việt Nam”- Phan Kế Bính
7, Đào Duy Anh: “ Việt Nam văn hoá sứ cương” – NXB Bốn Phương – Huế 1938.
8, “Truyền thống và hiện đại trong lễ cưới ở Việt Nam” – Trang Web:
/>9, Th.s Lê Thái Thị Băng Tâm,2012, “Tập bài giảng xã hội học gia đình”.










L9, ễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc
chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là
Lễ th11ân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để
rước dâu về.
vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của người con
gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ hợp tuổi nhau thì lấy
được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thôi.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới. Và sau cùng là
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ nhà trai mang lễ đến để
rước dâu về.

25


×