Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh thái, sinh vật học và khả năng nhân giống của loài cây lá Bép (Gnetum Gnemon L.) (LV thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 79 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ NGOAN

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI,
SINH VẬT HỌC VÀ KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG
CỦA LOÀI CÂY LÁ BÉP (GNETUM GNEMON L.)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

THÁI NGUYÊN - 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

PHẠM THỊ NGOAN

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH THÁI,
SINH VẬT HỌC VÀ KHẢ NĂNG NHÂN GIỐNG
CỦA LOÀI CÂY LÁ BÉP (GNETUM GNEMON L.)
Chuyên ngành: Sinh thái học
Mã số: 60.42.01.20

LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Hùng

THÁI NGUYÊN - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu, kết
quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa có ai công bố
Tác giả luận văn

Phạm Thị Ngoan

i


LỜI CẢM ƠN
Bằng tấm lòng thành kính, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và sự kính
trọng tới:
- Các thầy cô trong Ban chủ nhiệm khoa Sinh cùng toàn thể các thầy cô
giáo, cán bộ, nhân viên của khoa Sinh trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
- Ban giám hiệu trường THPT Sông Mã, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La
cùng các đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện về thời gian công tác
để tôi có thể học tập và nghiên cứu khoa học.
- Các vị lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện Bù Đăng, Bù Gia Mập, Đồng
Phú tỉnh Bình Phước đã ủng hộ, tạo điều kiện giúp đỡ cung cấp số liệu, giúp tôi
nghiên cứu thực địa.
- Thầy giáo TS. Nguyễn Anh Hùng đã quan tâm, tận tình hướng dẫn và giúp
đỡ tôi trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài và hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, ngày…. tháng 4 năm 2017
Tác giả luận văn

Phạm Thị Ngoan


ii


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................... ii
MỤC LỤC ......................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .............................................................. iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ................................................................................. v
DANH MỤC CÁC HÌNH .................................................................................. vi
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 2
3. Phạm vi nghiên cứu ......................................................................................... 3
4. Nội dung nghiên cứu ....................................................................................... 3
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ...................................... 4
1.1. Thị trường rau xanh một số nước trên thế giới............................................. 4
1.2. Các nghiên cứu về vai trò và giá trị sử dụng các loài rau ............................ 5
1.3. Nghiên cứu rau rừng trong nước ................................................................ 11
1.4. Các nghiên cứu về cây lá Bép .................................................................... 14
1.4.1. Nghiên cứu về giá trị sử dụng ................................................................. 14
1.4.2. Nghiên cứu về khả năng nhân giống ....................................................... 18
1.5. Nghiên cứu về bảo tồn tài nguyên thực vật ................................................ 19
Chương 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................ 28
2.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 28
2.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 28
2.2.1. Phương pháp điều tra ............................................................................... 28
2.2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu .................................................. 31
Chương 3. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI ..................... 32
3.1. Điều kiện tự nhiên ...................................................................................... 32


iii


3.1.1. Vị trí địa lý, địa hình ................................................................................ 32
3.1.2. Khí hậu - Thủy văn .................................................................................. 33
3.1.3. Tài nguyên đất ......................................................................................... 34
3.1.4. Tài nguyên rừng ....................................................................................... 34
3.1.5. Tài nguyên khoáng sản ............................................................................ 35
3.2. Điều kiện kinh tế xã hội.............................................................................. 35
3.2.1. Một số chỉ tiêu về kinh tế xã hội của tỉnh Bình Phước ........................... 35
3.2.2. Tổng quan về khu vực nghiên cứu .......................................................... 38
Chương 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN........................... 41
4.1. Đặc điểm hình thái và giải phẫu cây lá Bép ............................................... 41
4.1.1. Đặc điểm hình thái ................................................................................... 41
4.1.2. Đặc điểm giải phẫu .................................................................................. 43
4.2. Đặc điểm sinh thái môi trường nơi loài rau phân bố .................................. 46
4.2.1. Đặc điểm phân bố của cây lá Bép ........................................................... 46
4.2.2. Đặc điểm sinh thái môi trường nơi loài rau phân bố ............................... 47
4.3. Thực trạng khai thác và sử dụng cây lá Bép tại tỉnh Bình Phước .............. 48
4.4. Kết quả nghiên cứu nhân giống của cây Lá Bép ........................................ 52
4.4.1. Kết quả nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp gieo hạt .................. 52
4.4.2. Kết quả nghiên cứu nhân giống bằng phương pháp giâm hom............... 54
4.5. Đề xuất giải pháp bảo tồn nguồn tài nguyên cây rau Lá Bép ..................... 57
4.5.1. Các yếu tố tác động đến sự phát triển của cây rau Lá Bép...................... 57
4.5.2. Các giải pháp bảo tồn cây lá Bép ............................................................ 57
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 60
1. Kết luận .......................................................................................................... 60
2. Kiến nghị ....................................................................................................... 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................... 62

PHỤ LỤC

iv


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH-HĐH:

: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

KVNC:

: Khu vực nghiên cứu

LSNG:

: Lâm sản ngoài gỗ

THPT:

: Trung học phổ thông

TP:

: Thành phố

iv



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 4.1.

Kết quả thống kê số lượng cây lá Bép tái sinh quanh gốc cây mẹ43

Bảng 4.2.

Thành phần cát, sét, thịt trong đất ................................................ 48

Bảng 4.3.

Thành phần các chất khoáng trong đất .......................................... 48

Bảng 4.4.

Khối lượng rau Lá Bép người dân thu hái từ rừng vào mùa mưa . 49

Bảng 4.5.

Khối lượng rau Lá Bép người dân thu hái từ rừng vào mùa khô .. 49

Bảng 4.6.

Thống kê số lượng cây Lá Bép người dân lấy từ rừng tự nhiên ... 51

Bảng 4.7.

Tần suất mua, sử dụng rau Lá Bép của người dân KVNC ........... 52

Bảng 4.8.


Ảnh hưởng của cách xử lý hạt giống đến kết quả thí nghiệm....... 53

Bảng 4.9.

Ảnh hưởng của độ sâu lấp đất đến kết quả thí nghiệm ................. 54

Bảng 4.10. Ảnh hưởng của nồng độ IBA, IAA và NAA đến tỷ lệ hom sống . 54
Bảng 4.11. Ảnh hưởng của loại giá thể dùng giâm hom đến tỷ lệ hom sống . 56
Bảng 4.11. Ảnh hưởng của loại giá thể dùng giâm hom đến tỷ lệ hom sống . 60

v


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 3.1.

Bản đồ hành chính tỉnh Bình Phước ............................................. 32

Hình 4.1.

Cây Lá Bép tại xã Đak Ơ, huyện Bù Gia Mập, tỉnh Bình Phước . 41

Hình 4.2.

Ảnh quả cây rau Lá Bép ................................................................ 42

Hình 4.3.


Lát cắt ngang thân ......................................................................... 44

Hình 4.4.

Lát cắt tiếp tuyến ........................................................................... 45

Hình 4.5.

Lát cắt xuyên tâm .......................................................................... 45

Hình 4.6.

Tế bào biểu bì mặt trên ................................................................. 46

Hình 4.7.

Tế bào biểu bì mặt dưới ................................................................ 47

Hình 4.8.

Bản đồ phân bố Chi dây Gắm (Gnetum) trên Thế giới [34] ......... 47

Hình 4.9.

Thí nghiệm giâm hom cây lá Bép ................................................. 55

vi


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Đã từ lâu, con người biết sử dụng những cây hoang dại để phục vụ cho
nhu cầu cuộc sống. Ở Việt Nam, trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Mỹ,
cây rau rừng đã trở thành lương thực không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày.
Ngày nay, cây rau rừng vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp chất
dinh dưỡng, làm thuốc cho mọi tầng lớp nhân dân từ thành thị đến nông thôn,
từ vùng cao đến vùng sâu, vùng xa... Trước tầm quan trọng của các loài rau
hoang dại, các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu về thực trạng, bảo tồn,
nhân giống, gây trồng, thành phần dinh dưỡng đối với các loại rau này. Trong
đó, cây rau lá Bép là một loài cây rau rừng hiện đang được người dân các tỉnh
Lâm Đồng, Đắc Lắk, Bình Phước... sử dụng làm thực phẩm hàng ngày và đang
có nguy cơ bị cạn kiệt nguồn tài nguyên này.
Ở Việt Nam, cây Lá Bép (Gnetum gnemon L.) là một loài thuộc chi dây
Gắm (Gnetum), họ Dây Gắm (Gnetaceae), phân bố ở một số tỉnh thuộc miền
Trung, Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ như ở Quảng Nam, Gia Lai, Kon
Tum, Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Bình Phước, Bình Thuận
và Côn Đảo. Cây lá Bép thuộc thực vật Hạt trần. Là loài cây thân
gỗ mảnh, kích thước từ nhỏ đến trung bình. Lá thuộc loại thường xanh, lá đơn
mọc đối, không có lá kèm, mép lá nguyên, gân lá lông chim, dài 8-20 cm và
rộng 3-10 cm, lúc mới mọc có màu đồng, khi trưởng thành có màu lục sẫm và
bóng mặt, có mũi nhọn ở chóp, thon dẹp dần ở gốc, gân lá 5-7 cặp dính
nhau. Lá có hình dạng, kích thước gần giống với lá chôm chôm, lá nhãn.
Rau lá Bép đã được dùng làm rau ăn của người dân tộc thiểu số từ lâu
đời, có thể ăn ở dạng xào hoặc nấu canh với cá suối... Rau lá Bép trở nên nổi
tiếng trong thời kỳ kháng chiếng chống Mỹ khi bộ đội Việt Nam sống trong
chiến khu thiếu lương thực phải ăn rau rừng để sống trong thời kỳ chiến trường
ác liệt.
1



Trong quyển "Những kỷ niệm ở rừng miền Đông" của Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân có kể rằng, một đơn vị bộ đội khi hành quân trên vùng Bình
Phước chẳng may bị lạc rừng. Hết lương thực, đoàn quân hàng trăm người phải
tìm lá cây rừng ăn cầm hơi suốt một tuần. Đó là những thứ lá rừng vị ngọt
thanh, ăn khá ngon miệng. Mãi sau này, nhiều người mới biết đó là lá Bép. Để
giúp bộ đội Trường Sơn chủ động tìm nguồn thức ăn khi thiếu lương thực, Nhà
Xuất bản Quân đội nhân dân in ấn sách rau rừng dạng sổ tay khổ nhỏ, trong đó
mô tả hàng trăn loại rau rừng, củ, quả và nấm rừng ăn được có hình ảnh mẫu
kèm theo để giúp bộ đội đi tới đâu, gặp rau nào thì đối chiếu tìm nấu. Trong đó
có loài rau Bép thuộc những cây rau chủ lực.
Theo Đông y, cây lá Bép hay còn gọi là cây lá Bét có tiềm năng lớn
không chỉ bởi giá trị dinh dưỡng mà còn vì dược tính của nó. Không chỉ ngon,
đủ calo, an toàn, nó còn chứa các hoạt chất sinh học tự nhiên cần cho sức
khỏe, kéo dài tuổi thọ. Theo Tây y, năm 1955, Masilungan và những đồng
nghiệp phát hiện chất chiết trong lá cây có chứa các chất kháng sinh.
Trước tầm quan trọng như trên, cây lá Bép đã và đang bị người dân khai
thác quá mức, nguồn tài nguyên này đang có nguy cơ bị cạn kiệt. Vì vậy, đề tài
tập trung “Nghiên cứu đặc điểm sinh thái, sinh vật học và khả năng nhân
giống của loài cây lá Bép (Gnetum Gnemon L.)” là một việc rất cần thiết và
cấp bách.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Góp phần bổ sung kiến thức về đặc điểm sinh thái, sinh vật học và kỹ
thuật nhân giống của loài rau Lá Bép (Gnetum Gnemon L) làm cơ sở cho công
tác bảo tồn và phát triển cây Lá Bép tại tỉnh Bình Phước, Lâm Đồng... và mở
rộng sản xuất.
2


2.2. Mục tiêu cụ thể

- Xác định được đặc điểm sinh thái, sinh vật học của loài rau Lá Bép
(Gnetum Gnemon L).
- Đánh giá được thực trạng khai thác và sử dụng cây Lá Bép tại tỉnh
Bình Phước.
- Đánh giá được hiệu quả của kỹ thuật nhân giống cây Lá Bép bằng
phương pháp giâm hom và bằng phương pháp gieo hạt.
- Đề xuất được giải pháp bảo tồn cây Lá Bép
3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái, sinh vật học,
thực trạng khai thác, sử dụng và khả năng nhân giống cây rau Lá Bép (Gnetum
Gnemon L.).
- Phạm vi về không gian: Tiến hành nghiên cứu tại tỉnh Bình Phước.
- Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu từ tháng 5/2016 đến tháng 6/2017.
4. Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu về đặc điểm hình thái, sinh trưởng và phát triển của cây
Lá Bép.
- Nghiên cứu về đặc điểm sinh thái môi trường nơi loài rau phân bố.
- Nghiên cứu về thực trạng khai thác và sử dụng cây Lá Bép tại tỉnh
Bình Phước.
- Nghiên cứu về kỹ thuật nhân giống đối với cây Lá Bép.
- Nghiên cứu giải pháp bảo tồn cây Lá Bép

3


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Thị trường rau xanh một số nước trên thế giới
Trong những năm gần đây, thị trường rau tươi ở châu Âu giảm về khối
lượng nhưng tăng về giá trị. Ở nhiều nước phía Đông châu Âu, mức tiêu dùng

sản phẩm rau tươi vẫn tiếp tục tăng và người tiêu dùng đang chuyển dần từ tiêu
dùng một số loại rau cơ bản sang những sản phẩm đa dạng hơn bao gồm cả các
loại nhập khẩu. Bên cạnh đó, sự tồn tại sẵn có của nhiều đồ ăn khác như thức
ăn nhẹ, đồ ăn nhanh đã trở thành sản phẩm cạnh tranh gay gắt đối với sản phẩm
rau tươi. Các nước như Đức, Tây Ban Nha, Ý, Pháp là những thị trường lớn
nhưng đã gần như bão hòa. Chỉ có một số thị trường ngách và một số nhóm sản
phẩm nhất định còn có cơ hội tăng trưởng. Đây cũng là cơ hội cho các nước
đang phát triển đẩy mạnh việc xuất khẩu rau xanh và thị trường châu Âu [33].
Tại các cửa hàng bán đồ châu Á và các khu chợ buôn bán ở một số thành
phố lớn như Moscow, Berlin, Praha, Warsaw, London, Paris… những mớ
rau muống, mùng tơi, cải xanh, rau bí, mướp, bầu, cùng rau thơm đủ loại: rau
mùi, húng láng, húng chó, tía tô, kinh giới… được bầy bán khắp nơi, nhìn qua
tưởng “thuần Việt”, nhưng thật ra được trồng tại chính các nước sở tại. Nhu
cầu sử dụng rau xanh của các nước trên thế giới ngày một tăng cao. Bảng theo
dõi chi phí sinh hoạt các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày của Mirror.co.uk cũng
cho thấy người tiêu dùng tại Anh hiện đang phải chi thêm trung bình hơn 3%
so với năm 2009 để mua rau xanh [37].
Nếu ở Việt Nam, các loại rau xanh bị coi là thực phẩm “bình dân”, nhà
nào cũng có trong bữa cơm gia đình thì khi đã “định cư” ở trời Tây, lại được
xem là món “sơn hào hải vị”. Điển hình nhất là rau muống, từ lúc nào đã trở
thành mặt hàng rất hút khách ở các nước châu Âu và chỉ dành cho những gia
đình khá giả. Không chỉ người châu Á thích ăn rau muống, mà cả dân Tây cũng

4


ưa chuộng. Tùy theo mùa, rau muống ở Nga có giá dao động từ 4,5 - 10 USD
1kg; ở Đức là 7 USD, Praha 5 USD… Theo ủy ban Phát triển Thị trường Trái
cây và Rau quả tại Kalimati ở Ấn Độ, tổng lượng rau các loại đưa ra thị trường
đã lên đến 360 tấn/ngày bắt đầu từ 17/01/2010. Trước khi lễ hội, cung lượng

trung bình hàng ngày của các mặt hàng nông sản trên thị trường vào khoảng
600 - 650 tấn/ngày. Với sự cải thiện nguồn cung cấp, giá các loại rau quan
trọng đã liên tục giảm trên thị trường. "Hầu hết các mặt hàng rau quả hiện đang
được bán với giá thấp hơn so với giá đã ghi nhận một vài tuần trước đây", ông
Ramesh Dangol, một quan chức của ủy ban cho biết. Theo tin từ ủy ban, giá cả
của Cà chua lớn, khoai tây đỏ và khoai tây trắng giảm xuống lần lượt là 24
Rupi, 20 Rupi và 14 Rupi/kg từ các mức giá 26 Rupi, 22 Rupi và 16 Rupi/kg
ghi nhận được trước đây hai tuần. Tương tự như vậy đối với một số loại rau
khác như hành, súp lơ thường và súp lơ Tarai cũng được bán với giá lần lượt là
33 Rupi, 18 Rupi và 10 Rupi/kg, giảm từ 36 Rupi, 22 Rupi và 18 Rupi/kg
tương ứng. Giá của tỏi Trung Quốc cũng giảm xuống còn 120 Rupi/kg từ 124
Rupi/kg trong khoảng thời gian này. Tuy nhiên, giá của dưa chuột lại tăng từ 20
Rupi/kg lên 24 Rupi/kg [18]
1.2. Các nghiên cứu về vai trò và giá trị sử dụng các loài rau
Cây rau xanh là thành phần quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của nhân
dân ta. Những câu nói “cơm không rau như đau không thuốc” hoặc “đói ăn rau,
đau uống thuốc” đã được khẳng định tầm quan trọng, sự cần thiết của rau trong
bữa ăn và trong đời sống của con người [4]
Nhân dân ta có rất nhiều loại rau, phổ biến nhất trong bữa ăn hàng ngày
là các loại rau cải, rau muống, rau ngót... đặc biệt người dân sống ở miền núi
thường sử dụng các loài rau rừng như rau Dớn (Diplazium esculentum), rau
Sắng (Meliantha suavis P.)... Trong bữa ăn của người dân ta chỉ có hai loại
thực phẩm (tính bằng gam) thường xuyên chiếm 3 con số là gạo và rau. Cơm
rau cũng là thành ngữ quen thuộc và phổ biển ở Việt Nam.

5


Khoa học dinh dưỡng đã phân tích và xác định trong rau quả hầu hết các
chất dinh dưỡng cần thiết cho con người. Không những rau quả đã góp phần

quan trọng và kịp thời chống đói ở những vùng đói thường xuyên hoặc bị thiên
tai mà quan trọng hơn cả là vì rau là nguồn cung cấp chủ yếu vitamin, chất
khoáng, chất xơ và một phần quan trọng chất đạm là những chất dinh dưỡng
không thể thiếu đối với hoạt động sinh lý của cơ thể [4].
Rau là nguồn cung cấp nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho hoạt động
bình thường của các chức phận sinh lý và sự chuyển hoá của các chất trong cơ
thể. Lịch sử còn ghi lại 100 người trong số 160 thủy thủ của đoàn thám hiểm
Vasco de Gama đi tìm đường sang phương Đông đã bị chết về bệnh scorbut, do
chế độ ăn dài ngày trên biển thiếu Vitamin C. Lịch sử cũng ghi lại nhiều cuộc
chiến tranh đã phải nhanh chóng kết thúc vì hàng vạn quân số của 2 bên đều bị
bệnh thiếu vitamin, không còn sức chiến đấu [4].
Giá trị dinh dưỡng của rau cũng rất cao, nếu ăn mỗi ngày khoảng 300g
rau rừng sẽ cung cấp cho cơ thể khoảng 70 - 80 calo và trên 10g protein đồng
thời có thêm lượng vitamin C cần thiết cho cơ thể [4].
Ngày nay tuy là thời bình, thực phẩm đầy đủ nhưng vẫn còn nhiều
người thiếu kiến thức về ăn uống hợp lý dẫn đến xảy ra một số bệnh như khô
mắt do thiếu Vitamin A, tê phù do thiếu Vitamin B1... Thiếu Vitamin sẽ gây
rất nhiều bệnh tật, ảnh hưởng đến sự phát triển của cơ thể, thường xuyên gây
cho người ta cảm giác mệt mỏi, thiếu sức bền bỉ, năng suất lao động và công
tác sút kém [4].
Theo Farmsworth et al và cộng sự vào năm 1985 có khoảng 119 hợp
chất hóa học chiết suất từ thực vật bậc cao được sử dụng vào sản xuất thuốc
trên toàn thế giới. Tổ chức y tế thế giới (WHO) ước tính là có 80% người dân ở
các nước đang phát triển của thế giới hiện nay đang phụ thuộc vào các loại
thuốc truyền thống để chữa bệnh và trong khoảng 85% các loại thuốc truyền
thống đó có sử dụng các chiết xuất từ thực vật. Rất nhiều nước trên thế giới
quan tâm đầu tư nghiên cứu tìm các hợp chất mới từ thực vật như Trung Quốc,
6



Nhật Bản, Mỹ, Đức, Ấn Độ... Trong thực tế các nghiên cứu như vậy chỉ được
bắt đầu từ thế kỷ 19 và công nghệ cũng phát triển rất mạnh mẽ từ đó. Tại
trung tâm Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ đã kiểm tra rất nhiều loài thực vật để
tìm kiếm chất ung thư, rất nhiều loài đã chứng tỏ có hoạt chất chống ung thư,
một số hoạt chất đã được chiết xuất và nghiên cứu về cấu trúc để thử nghiệm
chữa trị cho con người [18].
Tại Hồng Kông vào năm 1981 với dân số gần 5,7 triệu người, Hồng
Kông có ít nhất 346 người bán cây cỏ làm thuốc và 1477 cửa hàng bán thuốc từ
các loại cây cỏ, trong khi đó có 3362 thầy thuốc có đăng ký và 375 hiệu thuốc.
Hiệp hội các nhà thuốc Bắc ở đây có khoảng 5.000 hội viên. Có thể nói Hồng
Kông là một thị trường đông dược lớn nhất thế giới, nhập khẩu vượt con số 190
triệu đô la Mỹ mỗi năm. Chỉ có khoảng 70% các loại sản phẩm thảo dược đó là
được sử dụng tại chỗ, còn 30% lại được tái xuất. Theo tính toán thì mỗi năm
người dân nơi đây tiêu thụ khoảng 25 đô la Mỹ cho thuốc Bắc. Đây mới chỉ là
số liệu tính riêng cho Hồng Kông mà chưa hề đưa ra các số liệu cho cả Trung
Quốc, một đất nước mà từ hàng nghìn năm qua người dân đã quen sử dụng
thuốc dân tộc sản xuất từ thực vật để chữa bệnh [18].
Tại Nhật Bản hệ thống y học cổ truyền được gọi là Kampo là một dạng
ứng dụng y học Trung Quốc. Thuốc dân tộc bao gồm các sản phẩm từ tự nhên,
mà chủ yếu là các chiết xuất từ thực vật. Tổng chi phí cho các sản phẩm thuốc
tại Nhật Bản là khoảng 8,3 tỉ đô la Mỹ trong năm 1986, song các loại thuốc dân
tộc chỉ chiếm 12,5 triệu đô la Mỹ. Vào năm 1984, tổng chi phí cho các loại
thuốc đã lên tới 14,6 tỉ đô la Mỹ và chi phí cho thuốc dân tộc cũng tăng lên 150
triệu đô la Mỹ (Terasawa, 1986) [18].
Tonga Noweg và cộng sự (2003) nghiên cứu những loài cây làm rau lấy
từ rừng của các cộng đồng trong khu vực Vườn quốc gia Crocker Range,
Sabah, Malaysia cho thấy có đến 70,6% cộng đồng dân cư có lấy các loài rau từ
rừng, 82% phụ nữ tham gia lấy các loại rau rừng phục vụ cho gia đình 18% vừa
lấy để dùng vừa đem bán ở các chợ địa phương.


7


Wang Guang-Yin và cộng sự (2002) nghiên cứu về khai thác và sử dụng
nguồn tài nguyên rừng tại tỉnh Hà Nam, Trung Quốc, chỉ ra có tới 91 họ, 226
chi và 415 loài. Phân bố địa lý, sự khai thác và cách thức sử dụng được chỉ rõ
và đặc tính của loài, đặc điểm sinh học, các phần có thể ăn được, thời gian thu
hái và sinh cảnh của chúng cũng đề cập tới.
Tugba Bayrak Ozbucak và cộng sự đã nghiên cứu phân bố các loài cây
ăn được ở vùng biển đen Thổ Nhĩ Kỳ cho thấy các loài cây ăn được rất phổ
biến và được dân cư vùng này sử dụng thường xuyên, thống kê được có 52 loài
cây ăn được thuộc trong 26 họ. Họ có số loài nhiều nhất là họ Lamiaceae (10
loài), tiếp theo là các họ Asteraceae (5loài), Apiaceae và Boraginaceae (4 loài),
Liliaceae (3 loài), Orchidaceae và Polygonaceae (2 loài).
Ở Thái Lan đã và đang phát triển các mô hình trồng cây rau Sắng
(Melientha suavis) dưới tán các vườn cây ăn quả hay trong các mô hình nông lâm
kết hợp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông lâm nghiệp [18].
Rau quả là một trong 4 nhóm thực phẩm cần thiết để có một bữa ăn hợp
lý. Giá trị của rau quả là cung cấp cho cơ thể các chất dinh dưỡng có hoạt tính
sinh học cao, đặc biệt là các vitamin (vitamin A, vitamin C) chất khoáng, vi
khoáng. Ngoài ra là các chất axit hữu cơ, xenluloza. Ở các nước đang phát
triển, hơn 80% nguồn vitamin A sẵn có được cung cấp từ rau quả tươi dưới
dạng caroten và gần 100% vitamin C cũng được cung cấp từ rau. Trong các kết
quả dưới đây cho thấy: Trong các loại rau thì rau ngót, rau đay, rau dền là
những loại rau quý, có giá trị dinh dưỡng cao, đồng đều về vitamin A, caroten
(tương đương 1.760 mcg retinol), vitamin C (179-64-52 mg) và hàm lượng sắt
(2,8-2,5-2,1 mg %) giàu các chất muối khoáng, vi khoáng, protein gấp 3-5 lần
các loại rau khác (3- 6g%). Rau muống có giá trị dinh dưỡng trung bình (380
mcg % retinol; 2,8mg% vitamin C; 1,2 g sắt) có kém rau Ngót, rau Đay nhưng
được nhiều người ưa thích, sử dụng thường xuyên, quanh năm với số lượng lớn

(gấp vài chục lần các loại rau khác) nên giá trị của nó không nhỏ. Các loại rau

8


gia vị (mùi, tía tô, húng, thì là...) có hàm lượng vitamin A, caroten cao và đồng
đều hơn so với rau ăn và quả ngọt (bình quân 400-900 mcg% retinol) cao nhất
là Tía tô, Húng quế, Ớt vàng (hơn 9.000 mcg%) giàu sắt (1-3mg%). Rau gia vị
lại được sử dụng tươi sống, không bị tổn thất qua nấu nướng, nên giá trị sử
dụng các vitamin cao. Ngoài ra, các rau gia vị còn cung cấp nguồn kháng sinh
thực vật rất có giá trị. Tác dụng của rau ngoài cung cấp vitamin, khoáng chất,
phòng ngừa ung thư rất tốt, còn có khả năng chữa trị được nhiều loại chứng
bệnh. Ví dụ như: hành ta, hành tây, tỏi, củ sả, cà rốt, cà chua, bí ngô, ớt... là
những loại rau có nhiều beta- caroten, vitamin C và chất xơ, các chất này trong
rau có hàm lượng cao hơn so với trái cây. Các chất xơ trong rau có tác dụng
phòng bệnh rất tốt, mà chất xơ chủ yếu có trong rau, nên nó thúc đẩy sự hấp thụ
của cơ thể đối với 3 nhóm thức ăn cơ bản (nhóm đạm, đường, béo). Nếu chỉ ăn
đơn thuần các protein động vật, thì hiệu suất hấp thụ protein trong ống tiêu hóa
chỉ là 70%, còn nếu ăn thêm rau thì hiệu suất hấp thụ protein sẽ đạt tới 90%.
Như vậy có thể thấy, rau có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sức khỏe và
tuổi thọ. Đồng thời không thể dùng trái cây thay thế rau xanh trong mỗi bữa ăn
gia đình [35]
Dược phẩm: Các loại dược phẩm có nguồn gốc tự nhiên có vai trò quan
trọng trong công tác bảo vệ sức khoẻ trên phạm vi toàn cầu. Ước tính 80% dân
số của các nước kém phát triển trông cậy vào các dược phẩm truyền thống
trong việc chăm sóc sức khoẻ; và sự phụ thuộc này không hề giảm đi kể cả khi
có mặt các loại tây dược. Khoảng 120 hoá chất được chiết xuất thành dạng tinh
khiết từ 90 loài sinh vật đang được dùng trong y học trên toàn thế giới. Khá
nhiều trong số đó không thể sản xuất nhân tạo được: digitoxin khích thích hoạt
động tim, một thuốc trợ tim phổ biến nhất của đông y, được chiết xuất trực tiếp

từ cây Mao địa hoàng (Digitalis); vincristine nhân tạo, được dùng để điều trị
bệnh bạch cầu ở trẻ em chỉ đạt 20% hiệu quả của sản phẩm tự nhiên có nguồn
gốc từ cây Catharanthus roseus (Rosy Periwinkle).

9


Cùng với nông nghiệp, và việc từ bỏ y học truyền thống, hiện tại chỉ còn
một tỷ lệ rất nhỏ đa dạng sinh học trên thế giới có đóng góp cho chăm sóc sức
khoẻ trên phạm vi toàn cầu. Nhiều dẫn chứng về những tiến bộ về công nghệ
trong công nghiệp dược phẩm, và cụ thể có liên quan đến việc chế tạo và sản
xuất dược phẩm nhân tạo, sẽ có nghĩa là đóng góp này sẽ giảm nhiều hơn là
tăng. Tuy nhiên, tính đa dạng tự nhiên có thể ngày càng có giá trị đối với việc
chế tạo ra những dược phẩm nhân tạo mới.
Rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hằng ngày.
Nhiều loại rau xanh sẵn có và rẻ tiền còn là những vị thuốc rất có giá trị, một số
loại rau nếu biết cách kết hợp chế biến lại trở thành những "bài thuốc" chữa
bệnh, làm đẹp... có hiệu quả. Ưu điểm nổi bật khi sử dụng rau xanh thay cho
thuốc chữa bệnh là vừa cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể, vừa
chữa được bệnh, lại không có ảnh hưởng phụ như khi dùng thuốc. Ngày nay,
rau xanh được chế biến đến không chỉ đơn thuần là nguồn thực phẩm nuôi sống
con người, mà còn được coi là nguồn dược liệu an toàn, rẻ, thông dụng và
không có tác dụng phụ. Trong rau xanh chứa rất ít chất béo và calo, nhưng lại
cung cấp nguồn năng lượng đáng kể . Rau xanh cũng chứa ít Natri, làm giảm
lượng nước hấp thụ vào cơ thể... Ăn rau xanh thường xuyên mang lại nhiều lợi
ích về sức khỏe. Cùng với những ích lợi giảm thiểu bệnh tật, rau xanh còn là
thực phẩm giúp giảm cân hiệu quả. Trong rau xanh chứa rất ít chất béo và calo,
nhưng lại cung cấp nguồn năng lượng đáng kể nên thường được áp dụng trong
các chế độ ăn kiêng. Tất cả những đặc tính này mang lại hiệu quả cho việc
giảm cân. Chất xơ trong rau xanh cũng giúp cảm thấy no nhanh hơn và do đó

hạn chế được lượng thức ăn tiêu thụ. Ngoài ra, rau xanh cũng bổ sung nhưng
dưỡng chất cần thiết cho cơ thể để đẩy mạnh quá trình sản sinh năng lượng tại
các tế bào cơ. Nhờ vậy, bạn sẽ luôn cảm thấy đầy sức sống để có một ngày
năng động, giúp tiêu hao nhiều năng lượng hơn nữa [32].
10


Theo một nghiên cứu mới, vitamin B9 được tìm thấy đặc biệt trong các
loại rau với lá xanh có tính năng giúp những người cao tuổi phòng ngừa chứng
sa sút trí tuệ. Vitamin B9, còn gọi là acid folic, đã được cô lập và tổng hợp từ
năm 1945. Cơ thể không thể tự sản xuất chất này mà cần được bổ sung nhờ
thực phẩm. Acid folic có mặt chủ yếu trong các lá cải, rau xanh, hạt như bắp,
đậu... Vitamin B9 giúp não hoạt động tốt, tham gia trong việc tổng hợp nhiều
chất dẫn truyền thần kinh, chất hóa học cho phép các tế bào thần kinh truyền
tin. Trí nhớ và các chức năng nhận thức khác sẽ có chất lượng tốt hơn nếu được
cung cấp đầy đủ vitamin B9. Ở người cao tuổi, lượng acid folic bổ sung thường
rất thấp. Bà Katherine Tucker và các cộng sự thuộc Trung tâm nghiên cứu dinh
dưỡng con người ở trường đại học Tufts (Mỹ) đã nghiên cứu trong suốt ba năm
việc bổ sung vitamin B và khả năng trí tuệ của 321 người tuổi từ 50 đến 85.
Những người tham gia đã trải qua một loạt thử nghiệm khi nghiên cứu mới bắt
đầu và lặp lại các thử nghiệm này 3 năm sau. Các nhà nghiên cứu đã so sánh
hai kết quả, phân tích đáp án của những người tham gia nghiên cứu trong bảng
câu hỏi về chế độ ăn và cho họ xét nghiệm máu để đánh giá hàm lượng vitamin
trong máu. Các bài trắc nghiệm về nhận thức nhắm vào trí nhớ, khả năng ăn nói
lưu loát và định vị trong không gian. Kết quả là những người đã dùng nhiều
acid folic nhất ít bị sa sút trí tuệ nhất và đặc biệt là có khả năng diễn đạt lưu
loát. Theo bà Tucker, nghiên cứu này tiết lộ tác động của vitamin B9 đối với
chứng sa sút trí tuệ do tuổi già [36].
1.3. Nghiên cứu rau rừng trong nước
Những nghiên cứu về rau hoang dại ở Việt Nam hiện nay tập trung chủ

yếu vào rau rừng. Đến đầu thế kỷ 20 việc nghiên cứu về tài nguyên thực vật
rừng, đặc biệt là tài nguyên cây rau rừng mới rõ nét. Các nhà khoa học người
Việt Nam tiếp tục nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam, có thể nói rằng, ấn
phẩm “Sổ tay rau rừng” của Từ Giấy, Vũ Văn Cẩn ấn hành lần đầu vào năm
1963 là công trình đầu tiên về rau rừng ở Việt Nam. Công trình đã thống kê
được 620 loại rau, (128 loài rau hoang dại); 433 loại củ, quả, hạt; 144 loại nấm,
rong có thể ăn được [21].

11


Theo kết quả nghiên cứu của Võ Văn Chi vào năm 1976, có 145 loài
dùng để làm rau ăn thuộc 61 họ thực vật, trong đó có 10 họ có số cây dùng làm
rau ăn nhiều nhất. Đứng đầu là họ Đậu, tiếp đến là họ Cúc, họ Bầu bí, họ Ráy
và họ Dền [37].
Đến năm 1994, một công trình nữa về rau rừng đã được ấn hành, đó là
cuốn “Một số rau dại ăn được ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tiến Bân, Bùi
Minh Đức. Trong ấn phẩm này, có 113 loài rau ăn được nghiên cứu Trong công
trình đồ sộ về hệ thực vật Việt Nam: Cây cỏ Việt Nam, của tác giả Phạm
Hoàng Hộ, có 169 loài rau ăn hoang dại được mô tả, mặc dù không có các kết
quả về phân tích dinh dưỡng nhưng đây là nguồn tài liệu quan trọng để nhận
biết, xác định danh pháp các loài rau rừng [4].
Bùi Văn Tân (2010), đã nghiên cứu và đánh giá đặc điểm sinh thái, sinh
vật học, những kinh nghiệm truyền thống về quản lý sử dụng 3 loại rau: rau
Sắng (Meliantha suavis P.) rau Bò Khai (Erythropalum scandens B.), và rau
Dớn (Diplazium esculentum) trong khu vực miền núi Đông Bắc Việt Nam (cụ
thể nghiên cứu tại vườn quốc gia Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn và khu bảo tồn thiên
nhiên Thần Sa, Võ Nhai tỉnh Thái Nguyên đây là những tỉnh có điều kiện tự
nhiên gần tương đồng, có thể làm đại diện được cho vùng núi Đông Bắc nước
ta [18].

Ninh Khắc Bẩy (2013) Đã thống kê trong hệ thực vật tỉnh Phú Thọ có
225 loài cây ăn được thuộc 77 họ, 3 ngành thực vật. Trong đó cây được sử
dụng làm rau có 113 loài thuộc 96 chi 48 họ, cây cho quả ăn được 115 loài 77
chi 36 họ và cây có thể làm lương thực có 10 loài thuộc 7 chi 5 họ. Tác giả cũng đã
nghiên cứu tuyển chọn được 8 loài cây ăn được triển vọng có giá trị kinh tế để phát
triển trồng trọt bao gồm: Rau sắng (Melientha suavis), Bò khai (Erythropalum
scandens), Gioi xanh (Michelia mediocris), Chuối phấn vàng (Musa paradisiaca),
Trám trắng (Canarium album), Trám đen (Canarium tramdenum), Khoai môn
(Calocasia esculenta), Củ mài (Diospyros permisilis) [3].

12


Nguyễn Quốc Bình (2013), Khi nghiên cứu thành phần các loài cây làm
rau ăn ở 2 tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai cho thấy rất đa dạng và phong phú với các
dạng sống khác nhau như cây thảo, dây leo, cây gỗ, cây bụi. Với 234 loài thuộc
169 chi, 71 họ đã được xác định, số lượng các loài rau ăn ở 2 tỉnh Đắk Lắk và
Gia Lai nhiều hơn rất nhiều so với các tài liệu nghiên cứu trước đây. Các dân
tộc bản địa 2 tỉnh Đắk Lắk và Gia Lai có nhiều kinh nghiệm sử dụng các loài
cây rừng làm rau ăn rất độc đáo. Một số loài cây có độc tính, nhưng tùy thời
điểm thu hái có thể sử dụng làm rau ăn, như lá cây Lim xanh (Erythrophleum
fordii) rất độc, nhưng lá non vào đầu mùa mưa được dùng làm rau ăn [5].
Trương Thị Bích Quân và cộng sự (2013) đã xác định với ít nhất 100 loài
thực vật khác nhau được ghi nhận làm thực phẩm, trong đó đã định loại được
81 loài, nghiên cứu này cho thấy cộng đồng Chơ Ro có một kiến thức bản địa
phong phú về sử dụng tài nguyên thực vật làm thực phẩm, đồng thời cũng cho
thấy một sự phụ thuộc rất lớn vào tài nguyên rừng trong sinh sống hàng ngày.
Đây là điều cần được quan tâm trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại địa
phương. Cộng đồng Chơ Ro chủ yếu sử dụng các bộ phận của cây như ngọn, lá
và quả làm thực phẩm. Việc sử dụng những loại thực phẩm này có tính bền

vững khá cao và không ảnh hưởng nhiều đến tài nguyên rừng. Đây cũng là cơ
sở làm tiền đề xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích cho cộng đồng và đóng góp vào
sự phát triển du lịch sinh thái [16].
Hoàng Văn Sâm và cộng sự (2011), tại huyện Sa Pa tỉnh Lào Cai chúng
tôi xác đinh được 107 loài thuộc 73 chi 46 họ thực vật rừng được người dân sử
dụng làm rau ăn. Số loài tập trung chủ yếu là ngành Ngọc lan với 104 loài,
thuộc 43 họ. Rau rừng sử dụng làm rau ăn tại khu vực nghiên cứu có 9 dạng
sống khác nhau, trong đó tlực vật thân thảo chiếm số loài nhiều nhất với 53 loài
chiếm 49,53% và thấp nhất là dạng sống dây leo gỗ và phụ sinh với 1 loài. Rau
rừng được người dân địa phương sử dụng khá đa dạng và phong phú về bộ
phận với 10 bộ phận khác nhau, trong đó lá được sử dụng nhiều nhất với 45
13


loài chiếm 42,06%. Người dân địa phương chế biến rau rừng phổ biến nhất là
xào với 66 loài chiếm 61,68% và ít nhất là ăn quả với 7 loài chiếm 6,54%.
Nghiên cứu về kiến thực bản địa tại Sa Pa với 3 dân tộc khác nhau là Dao,
Mông và Tày trong đó người dân tộc Dao sử dụng nhiều loài rau rừng nhiều
nhất với 75 loài chiếm 70,09%, người H’Mông sử dụng 64 loài và ít nhất là dân
tộc Tày chỉ với 50 loài [17].
Song song với những nghiên cứu về các loại rau rừng thì trong những
năm gần đây cũng đã có các hoạt động bảo tồn và phát triển chúng. Ví dụ Mô
hình bảo tồn và phát triển rau Sắng ở vườn quốc gia Xuân Sơn, mô hình xây
dựng cơ sở chuyên canh rau rừng thương phẩm công ty Sannamfood (Hà Nội)
… Tuy đây cũng là 1 lĩnh vực mới, kết quả còn nhiều hạn chế, song tiềm năng
phát triển còn rất nhiều.
1.4. Các nghiên cứu về cây lá Bép
1.4.1. Nghiên cứu về giá trị sử dụng
Trên thế giới ngày nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về cây rau
Bép ở các khu vực có điều kiện thích hợp cho sinh trưởng phát triển. Những

nghiên cứu tác dụng và nhân giống cây rau Bép đã được tiến hành với sự
ủng hộ rộng rãi.
Theo Barua và cộng sự (2015) đã đánh giá toàn diện về cây rau Bép và
có kết luận rằng cây rau bép là một cây thường xanh và cây lâu năm có nguồn
gốc từ Ấn Độ về phía Đông Bắc, nó được sử dụng trong một số loại thuốc
traditional để chữa các bệnh khác nhau. Các dẫn xuất từ hạt của nó có thể
chống vi khuẩn, chống oixhoa, ức chế angiogennesis, chống lão hóa và các hợp
chất như Saponin, tannin, flaronoids và stilbenoids [23].
Kenji Watanabe (2015) nghiên cứu chất chiết xuất từ hạt rau Bép là MSE
và RSV chúng có tác dụng của MSE đối với những bệnh học về da liên quan
đến tuổi tác gây ra bởi những tổn thương do oxyhoa [25].
14


Hiroyuki Konno và cộng sự (2013) nghiên cứu ảnh hưởng có lợi của
MSE trong hạt rau Bép đối với nam giới trưởng thành từ 35 - 70 tuổi, MSE có
thể làm giảm nồng độ axit uric bất kể kháng insulin và có thể cải thiện chuyển
hóa lipip bằng cách gia tăng cholesterol [24].
Ngoài ra Narayanan K. Narayanan và cộng sự (2015) đã nghiên cứu về
chất chiết xuất từ hạt rau Bép và chứng minh rằng MSE và GC được chiết xuất
từ hạt rau Bép có tính kháng u mạnh [26].
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về loài cây này còn rất ít, chưa được
các nhà khoa học quan tâm. Theo Nguyễn Thành Đạt (2008) khi đánh giá tiềm
năng làm rau ăn của cây lá Bép tại tỉnh Lâm Đồng, kết quả phân tích tại các cơ
quan chuyên môn ở TP. Hồ Chí Minh cho thấy lá Bép có tới 16 loại Aminoacid
(trong số 20 Aminoacid quan trọng không thể thiếu đối với con người) tham gia
xây dựng Protein nhằm đảm bảo các chức năng xúc tác, miễn dịch, vận
chuyển… cho các hoạt động sống hàng ngày của cơ thể. Qua phân tích tại Viện
Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, thành phần cũng như hàm lượng các chất khoáng
trong lá Bép khá cao, trong đó K, Fe, Cu, Zn, Mo, Mg và Mn cao hơn nhiều so

với xà lách, bông cải trắng…Hàm lượng đường trong lá Bép cũng đạt 0,93%,
do vậy khi nấu canh có vị ngọt; đồng thời với hàm lượng đường khử 0,88%
giúp cơ thể dễ dàng hấp thụ nguồn năng lượng này một cách nhanh chóng.
Nhân hạt lá Bép chứa khoảng 10,9% protein, 1,6% lipid và 50,4% tinh bột nguồn bổ sung quan trọng trong điều kiện thiếu lương thực. Cây lá Bép sinh
trưởng và phát triển trong môi trường tự nhiên, không bón phân, phun thuốc trừ
sâu nên hạn chế được các tác nhân gây ngộ độc như dư lượng nitrate, kim loại
nặng… Không chỉ ngon, đủ calo, an toàn, lá Bép còn chứa các hoạt chất sinh
học tự nhiên cần cho sức khỏe, kéo dài tuổi thọ. Ngoài ra, lá Bép có tác dụng
như vị thuốc. Kỹ sư Nguyễn Thành Đạt đã sử dụng các phương pháp giâm
hom, gieo hạt và chuyển cây con từ rừng Di Linh về trồng ở Đà Lạt. Kết quả
15


thật bất ngờ: Cây con trồng dưới tán rừng tạp với cây gỗ nhỏ, cây bụi, tre
nứa… hoặc trồng xen với một số loại cây khác trong vườn đều phát triển tốt
mở ra triển vọng trồng cây lá Bép ở tất cả các huyện, thị, thành [12]
Lương Văn Dũng (2012) khi nghiên cứu tuyển chọn và xây dựng các mô
hình trồng một số loài rau rừng có giá trị ở Lâm Đồng đã thu thập và lập danh
mục được hơn 120 loại rau rừng hiện có ở Lâm Đồng. Trong đó, 9 loài rau đã
xây dựng được mô hình trồng, chăm sóc, thu hoạch và nhân giống là lá bép, lỗ
bình, cần dại, dưa núi, lạc tiên, dớn, ráy thon, sâm đu đủ và sơn địch. Trong số
này, lá Bép là loại rau rừng được quan tâm nhất [10].
Rau Lá Bép đã được dùng làm rau ăn của người dân tộc thiểu số từ lâu
đời, có thể ăn ở dạng xào hoặc nấu canh với cá suối... Rau Lá Bép trở nên nổi
tiếng trong thời kỳ kháng chiếng chống Mỹ khi bộ đội Việt Nam sống trong
chiến khu thiếu lương thực phải ăn rau rừng để sống trong thời kỳ chiến trường
ác liệt. Ngày nay, Lá Bép trở thành món ăn quen thuộc đối với người dân vùng
Tây Nguyên, có mặt trong thực đơn của các nhà hàng, như là một món ngon
đặc sản của núi rừng.
Ở nước ngoài, hạt cây Lá Bép được dùng để nấu món súp rau chua

Indonesia (Sayur Asem) và cũng có thể nghiền thành bột và chiên thành món
bánh emping, một loại bánh ghém krupuk giống như bánh phòng tôm ở Việt
Nam. Loại bánh này có hương vị hơi đắng và thường được dùng để ăn nhẹ hoặc
ăn kèm với các món chiên, xào khác.
Hoa, lá non và quả tươi được dùng như thành phần trong món cà ri rau
truyền thống gọi là Kuah pliek. Món ăn này được phục vụ trên tất cả các dịp lễ
truyền thống quan trọng, chẳng hạn như khanduri và keureudja .
Bánh quy dòn Melinjo là một phần của thực đơn trong bữa ăn tối để tiếp
đãi tổng thống Mỹ Barack Obama trong chuyến thăm cấp nhà nước với
Indonesia vào năm 2010, ngài tổng thống da đen này đã ca ngợi bánh quy giòn
là ngon.

16


×