Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một số biện pháp hiện đại hóa các giá trị thơ trữ tình trung đại việt nam chương trình ngữ văn THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.84 KB, 14 trang )

NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

MỤC LỤC
Tên đề mục
I.
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
II.
2.1.
2.2.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.4.
III.
3.1
3.2

Trang

Mở đầu
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu



1
2
2
2

Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Một số biện pháp cụ thể
Hướng học sinh tiếp cận tác phẩm từ góc độ thi pháp
Dùng phương pháp đối chiếu so sánh.
Kết hợp nhiều biện pháp khác nhau trong cùng một tiết dạy
Vận dụng thực tiễn
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

3
3
5
6
6
7
7
8
9

Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị


11
11

Tài liệu tham khảo
Danh mục SKKN đã được cấp Sở GD&ĐT công nhận xếp loại

12
13

1


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm
I. MỞ ĐẦU

1. 1.Lý do chọn đề tài
Văn học trung đại Việt Nam đặc biệt là thơ trữ tình trung đại là một di sản vô
cùng quý báu, đồ sộ về khối lượng, phong phú đa dạng về nội dung và hình
thức. Nhờ có di sản này mà cuộc sống văn hóa, tinh thần của chúng ta ngày nay
thêm phần phong phú. Trong nhà trường, di sản này có khả năng bồi dưỡng cho
học sinh những năng lực và năng khiếu thẩm mĩ, nhận thức thẩm mĩ, góp phần
xây dựng nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, bồi đắp tâm hồn tư tưởng,
tình cảm cho học sinh. Những tác phẩm văn học trung đại dạy trong nhà trường
chính là công cụ quan trọng để bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nhân văn cho tâm
hồn các em. Bởi lẽ giá trị to lớn của văn học cổ, cái cốt lõi của nó chính là vấn
đề nhân văn. Cho nên, dạy thơ trữ tình trung đại ngoài mặt cung cấp cho học
sinh hiểu biết về cuộc sống, xã hội và cung cấp cho các em về vốn văn học, lại
còn phải biết khơi gợi tinh thần nhân văn cho các em bởi như M.Gorki đã nói

“văn học là nhân học”. Cho nên học xưa để hiểu nay, “học cũ để làm mới”, “từ
mới để hiểu cũ” đó chính là phương châm tiếp thu tinh thần di sản văn hóa của
chúng ta. Với lý do trên nên việc tìm ra một số biện pháp hiện đại hóa các giá
trị của thơ trữ tình trung đại Việt Nam là vô cùng cần thiết để tạo nên cảm
hứng cho các em trong giờ học Ngữ văn ở trường THPT.
Bên cạnh đó đề tài còn xuất phát từ tinh thần cơ bản của đổi mới phương pháp
dạy học văn ở trường THPT là đề cao vai trò chủ động, tích cực của học sinh
trong hoạt động nhận thức cảm thụ và ứng dụng các kiến thức và kĩ năng văn
học. Dạy văn nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh dựa trên nguyên
tắc: “Giáo viên giúp học sinh khám phá trên cơ sở tự giác”. Giáo viên không còn
là người chỉ biết truyền thụ kiến thức, kĩ năng văn học với học sinh mà giữ vai
trò là người tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi, khám phá để hiểu, cảm, vận
dụng các kiến thức kĩ năng văn học đúng hướng, đúng cách, tránh suy diễn hay
áp đặt, giáo điều xơ cứng, máy móc. Học sinh sẽ được hiểu, cảm cái hay, cái đẹp
của tác phẩm văn học và bộc lộ sự hiểu, cảm nhận bắng ngôn ngữ, tình cảm của
lứa tuổi mình. Đặc biệt, cảm nhận thơ trữ tình trung đại là một quá trình đi từ
chữ nghĩa đến văn bản, không thể dạy tác phẩm chỉ dựa trên bản dịch hoặc các
văn bản còn sót lại mà phải liên hệ với các văn bản liên quan tới tác phẩm để rút
ngắn khoảng cách giữa các thế hệ, hiểu được cách nói, cách nghĩ của cha ông
xưa. Từ đó, học sinh có thể cảm thụ tác phẩm văn học cổ một cách sâu sắc trên
tinh thần của thời đại mình sống.
Chính từ thực tế trên, tôi mạnh dạn đưa ra một vài giải pháp để hiện đại hóa
các giá trị của thơ trữ tình trung đại Việt Nam mà trong quá trình dạy Ngữ văn
ở trường THPT đã ứng dụng để tạo sự hấp dẫn cho học sinh trong giờ đọc văn.
Sự đổi mới dạy học quan trọng nhất là đổi mới về phương pháp sẽ tạo nên niềm
hứng thú cho học sinh tiếp cận tác phẩm thơ trữ tình trung đại.
1. 2. Mục đích nghiên cứu.

2



NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

Nghiên cứu vấn đề, bản thân tôi nhằm mục đích tìm ra một số biện pháp cụ
thể để đổi mới cách dạy những bài đọc văn về thơ trữ tình trung đại Việt Nam
trong chương trình Ngữ văn THPT, theo hướng hiện đại hóa các giá trị của thơ
trữ tình trung đại tạo nên hứng thú cho học sinh trong giờ học.
Qua đó tôi muốn trao đổi kinh nghiệm cùng đồng nghiệp để tìm ra những
biện pháp hiệu quả nhất trong giảng dạy thơ trữ tình Trung đại Việt Nam ở
trường THPT.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Chương trình ngữ văn lớp 10 và lớp 11 THPT
- Học sinh lớp 10 và lớp 11 trường THPT Quảng Xương 3
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phân tích tổng hợp
- Quan sát, thực nghiệm.
- Đối chiếu so sánh.

3


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề.
2.1.1 Xuất phát từ quá trình và quy luật tiếp nhận văn học.

Trước hết sự tiến bộ của văn học mang tính đặc trưng. Tiến bộ trong văn học
không phải là sự phủ nhận hoàn toàn cái cũ mà mang tính kế thừa và bổ sung
thêm cái độc đáo mới mẻ. Từ đó nó làm cho văn học thêm phong phú, đa màu
sắc. Có những giá trị thuộc về truyền thống nhưng vẫn là hiện đại trong cảm
nhận của thế hệ hôm nay. Vì vậy chúng ta có thể hiện đại hóa các giá trị ấy bằng
cách cảm, cách nghĩ của mỗi người trong thời đại mình sống.
Thứ hai là quá trình tiếp nhận bao giờ cũng bắt đầu từ đọc văn bản, khám phá
các từ ngữ hinh ảnh, phát hiện kiến tạo ý nghĩa của tác phẩm, thưởng thức
những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.Quá trình tiếp nhận ấy có
những quy luật cơ bản của nó.
Trước hết là vai trò tích cực chủ động của người đọc.
Văn bản văn học thông báo nững thông tin nhưng thường để trống phần ý
nghĩa, tạo thành một cấu trúc mời gọi buộc người đọc phải tự mình hoàn thành
nó. Muốn chiếm lĩnh văn bản ngôn từ biến nó thành một thế giới nhệ thuật thú
vị, người đọc phải chủ động và tích cực. Chính vì vậy muốn tạo hiệu quả cho
giờ đọc – hiểu thơ Trung đại thì giáo viên phải tạo nên sự tích cực chủ động của
học sinh trong tiếp nhận văn bản. Và học sinh có thể lấp đầy khoảng trống chữ
nghĩa ấy bằng vốn văn hóa và tâm thế của thời đại các em đang sống. Mỗi lứa
tuổi, mỗi thời đại có cách tiếp nhận tác phẩm văn học khác nhau. Người đọc là
người đồng sáng tạo. Bởi vậy nếu giáo viên biết cách hướng dẫn học sinh sẽ
giúp các em tiếp nhận, làm mới tác phẩm theo hướng hiện đại. Đó chính là cách
mà chúng ta làm cho tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam có thể sống cùng
năm tháng.
Bên cạnh đó tính chủ quan và khách quan trong việc tiếp nhận văn bản văn
học cũng là một quy luật mà giáo viên phải chú trọng. Bởi vì ngoài yếu tố chủ
quan trong tiếp nhận thì phải chú ý đến tính khách quan của nó như là tổ chức
ngôn từ, đặc điểm thể loại và bên cạnh đó là từ ngữ, hình ảnh có những ý nghĩa
do truyền thống văn hóa dân tộc và thời đại quy định. Chúng ta biết rằng khi tiếp
cận một tác phẩm văn học có thể từ nhiều góc độ khác nhau như từ góc độ thi
pháp học, góc độ thể loại, góc độ văn hóa…Điều đó sẽ mang lại cái nhìn đa

chiều về tác phẩm văn học. Trong khi đó những tác phẩm thơ được học ở
chương trình THPT lại thuộc vào đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam. Vì
vậy người đọc cần phải có cái nhìn đa chiều về tác phẩm, có như vậy mới cảm
nhận hết được vẻ đẹp của nó và thấy hết được sức sống của tác phẩm.
2.1.2 Tính hiện đại trong thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
a. Thuật ngữ thơ trữ tình trung đại.
Thơ trữ tình là: “thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình trong đó
những cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện
tượng đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá thể hoá của cảm

4


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

nghĩ và tính chất chủ quan hoá của sự thể hiện là những dấu hiệu tiêu biểu của
thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả năng thể hiện những
biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc của tình cảm cho tới
những chính kiến, những tư tưởng triết học. Thuật ngữ thơ trữ tình được sử dụng
nhằm phân biệt với thơ tự sự thuộc loại tự sự. Tùy theo truyền thống văn học cụ
thể, người ta có thể phân loại thơ trữ tình theo nhiều cách khác nhau” [5].
Theo giáo sư Trần Đình Sử “ Xét về tên gọi, trong quá khứ các nhà thơ trung
đại Việt nam chưa bao giờ tự gọi thơ mình là thơ trữ tình. Trữ tình là một khái
niệm hiện đại. Mặc dù trong cửu chương của Khuất Nguyên có thể tìm thấy hai
chữ trữ tình song nó chưa trở thành thuật ngữ trong thời trung đại. Phần lớn thơ
làm trong các dịp tiễn tặng, hoạ thơ người khác, đề thơ kỷ niệm, tức cảnh, tức
sự, thư sự, tức là làm thơ theo sự đòi hỏi, khêu gợi của ngoại cảm. Khi muốn tự
bộc lộ nỗi lòng thì họ gọi là “Ngôn hoài”, “Thuật hoài”, “Ngôn chí”, “Tự tình”,

“Tự thuật”, “Mạn thuật”, “Trần tình”. Những tên gọi này rất đáng chú ý. “ chí”,
“tình”, “ hoài”, “sự”, “cảnh”… là nội dung trữ tình, còn “thuật”, “ngôn”, “tự”,
“trần” …là cách trữ tình. “thuật” là kể, “tự” cũng là kể, “ngôn” là nói ra, là
tuyên bố cho mọi người biết, “trần” là bày tỏ. Có thể xem đó là những dấu hiệu
đặc trưng của ý thức trữ tình truyền thống: trữ tình bằng cách thuật kể nỗi lòng
mình, cảm xúc chí hướng của mình”[8]. Tác giả chỉ rõ trong tập giảng văn chinh
phụ ngâm ông Đặng Thai Mai đã có nhận xét sâu sắc về lối thơ tự tình của khúc
ngâm này, đối lập tự tình với trữ tình và tự tình cũng đối lập với tự sự, bởi nó là
một cách thức trữ tình trung đại phương Đông. Thậm chí ông gọi đó là văn
chương tự tình. Khái niệm đó rất đúng và có thể áp dụng cho toàn bộ thơ trữ tình
trung đại Việt Nam.
Từ quan niệm của giáo sư Trần Đình Sử và vận dụng khái niệm đã nêu ở trên,
ta có thể hiểu khái niệm thơ trữ tình trung đại Việt Nam như sau: Thơ trữ tình
trung đại Việt Nam là loại thơ do các nhà thơ trung đại Việt Nam sáng tác ra để
biểu thị những cảm xúc, suy tư, tư tưởng tình cảm của họ hoặc nhân vật trữ tình
trước các hiện tượng của đời sống được thể hiện một cách trực tiếp.
Thơ trữ tình trung đại Việt Nam làm theo nhiều thể khác nhau.
Ta có thể tạm chia các thể thơ ấy ra làm hai loại: một loại mượn từ thơ cổ Trung
Quốc, một loại do Việt Nam sáng tạo ra.
* Những thể thơ mượn từ thơ cổ Trung Quốc: Bao gồm thể luật đường, thể cổ
phong, thể từ.
* Những thể thơ có nguồn gốc từ thơ ca dân gian Việt Nam:
Từ xa xưa, người bình dân Việt Nam đã sáng tạo ra những thể thơ thuần túy
dân tộc rất đặc sắc. Những thể thơ đó đã được các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ
dày công trau chuốt, tạo thành những thể thơ ổn định trong văn học viết. Đó là
thể lục bát, thể song thất lục bát, thể hát nói và thể Hàn luật.
b.Thơ trữ tình trung đại trong chương trình Ngữ văn THPT:
Trong chương trình Ngữ văn THPT, về nội dung số văn bản mới được đưa vào
chương trình tương đối nhiều. Tuy nhiên, nhìn chung, thơ trữ tình trung đại vẫn
chiếm một số lượng lớn cả về dung lượng, lẫn số lượng văn bản. Trong chương


5


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

trình Ngữ văn THPT, Thơ trữ tình Việt Nam thời trung đại được sắp xếp vào
chương trình Ngữ văn lớp 10 và học kỳ I của lớp 11. Thơ trữ tình Việt Nam
thời trung đại được học trong tiết với các bài thơ tiêu biểu như: Thuật hoài của
Phạm Ngũ Lão, Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới số 43) của Nguyễn Trãi,
Nhàn ( Nguyễn Bỉnh Khiêm) và Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du, đoạn trích
trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn bản dịch Đoàn Thị Điểm [1],[2]. Ở
lớp 11 có: Bài ca ngắn đi trên bãi cát (Cao Bá Quát), Tự tình (Hồ Xuân Hương),
Câu cá mùa thu (Thu điếu- Nguyễn Khuyến), Thương vợ (Trần Tế Xương,) Bài
ca ngất ngưởng (Nguyễn Công Trứ), Hương Sơn phong cảnh ca (Chu Mạnh
Trinh)[3],[4].
c. Hiện đại hóa các giá trị của thơ trữ tình trung đại.
- Chất hiện đại trong thơ trữ tình trung đại là gì?
Đây là vấn đề mà chưa có tài liệu nào đề cập đến. Tuy nhiên trong quá trình
giảng dạy tôi luôn suy nghĩ làm sao cho học sinh cảm nhận được sức sống của
tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam trong bối cảnh hiện tại. Vì vậy tôi
muốn làm mới các tác phẩm ấy bằng cách hiện đại hóa một số giá trị cơ bản về
nội dung và nghệ thuật theo cách nghĩ, cách cảm nhận của những con người
sống trong hiện tại. Điều đó làm cho học sinh thấy các tác phẩm ấy gần gũi hơn,
dễ tiếp nhận hơn.
Theo tôi chất hiện đại trong thơ trữ tình trung đại Việt Nam đó chính là sự mới
mẻ, trẻ trung là sự gần gũi trong tâm hồn, trong tư duy nghệ thuật, trong quan
niệm thẩm mỹ của các nhà thơ trung đại đối với thế hệ đang sống trong hiện tại.

Đó là sự cảm nhận về vẻ đẹp của thiên nhiên, vẻ đẹp con người, là khát vọng
sống, là cách nhìn, cách thể hiện con người và cuộc sống mang tính đi trước thời
đại của những nghệ sỹ lớn.
- Hiện đại hóa các giá trị của thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
Theo tôi đây là biện pháp quan trọng nhất để tạo hứng thú cho học sinh. Bởi vì
chính những tính chất hiện đại, trẻ trung tươi mới của thơ trữ tình trung đại mới
tạo nên sự gần gũi hấp dẫn đối với học sinh. Giáo viên cần chỉ ra cho học sinh
thấy nét hiện đại, tức là giá trị truyền thống mà vẫn mang tính thời đại của thơ
trung đại trong các giá trị nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm. Đố chính là
cách cảm, cách nghĩ, cách tư duy và các biện pháp nghệ thuật thể hiện cụ thể
trong mỗi tác phẩm thơ. Giáo viên phải giúp cho học sinh thấy đó chính là sức
sống, là sự trường tồn của thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
- Các phương diện để khám phá chất hiện đại:
a. Tứ thơ, ý thơ.
b. Thi liệu.
c. Ngôn từ, hình ảnh.
2.2. Thực trạng vấn đề.
Thực trạng dạy – học thơ trữ tình trung đại Việt Nam hiện nay.
Dạy học thơ trung đại luôn là một thử thách hết sức khó khăn đối với giáo
viên. Nhiều giáo viên còn chưa cảm nhận hết những giá trị độc đáo, vẻ đẹp tinh
tế của thơ trung đại. Một thực tế đang xảy ra là hiện nay, nhiều giáo viên đều e

6


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

ngại, thậm chí né tránh dạy các giờ thao giảng, giờ dạy mẫu là các bài thơ trung

đại.
Có nhiều lý do dẫn đến việc ngại dạy và học thơ trung đại:
1.Tiếp nhận tác phẩm văn học cổ đối với học sinh THPT ngày nay gặp nhiều
khó khăn:
Học sinh ngày nay vốn liếng từ Hán Việt rất ít. Đến với văn học cổ, các em
vấp phải hàng rào của từ ngữ, địa danh, điển tích, điển cố, thi liệu,… xa lạ khó
hiểu, muốn hiểu được phải nhờ sự cắt nghĩa giảng giải của giáo viên, không phải
là sự hiểu trực tiếp do đó hạn chế sự rung cảm, hứng thú ở các em.
2. Do khoảng cách về văn hóa, khái niệm về hệ giá trị khiến học sinh khó tiếp
nhận và cảm thụ đầy đủ được giá trị quý báu của thơ cổ.
3. Thứ ba thi pháp của thơ trung đại Việt Nam có ảnh hưởng rất sâu đậm từ văn
học cổ Trung Quốc vì vậy học sinh cảm thấy xa lạ với các tác phẩm thơ trung
đại Việt Nam.
Biết rằng, dạy học các văn bản văn học trung đại là hết sức khó khăn nhưng
thiết nghĩ cần có một số biện pháp dạy học để cả người dạy và người học đều có
niềm vui khi dạy và học từ đó tạo hiệu quả cho giờ đọc- hiểu thơ trung đại.
2.3. Một số biện pháp cụ thể.
2.3.1 Hướng học sinh tiếp cận tác phẩm từ góc độ thi pháp.
Bản chất của quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học là người đọc phải là người
đồng sáng tạo. Nếu đứng ở góc độ thi pháp thơ trữ tình trung đại giáo viên biết
gợi mở cho học sinh để các em phát hiện ra những điểm mới mẻ thì bài học sẽ
trở nên hấp dẫn lôi cuốn.
Tuy nhiên dù có tiếp cận thơ trung đại ở góc độ nào đi nữa thì cũng phải chú ý
đến mạch cảm xúc của nó. Bản chất của thơ là trữ tình. Đặc trưng của thơ cổ
phương Đông là trọng về gợi, “tả cảnh ngụ tình”. Điều đó xuất phát từ tư duy
“cầu tính tổng hợp” “thâm mặc huyền ảo” nghiêng về cảm xúc, cảm giác của
người phương Đông[6] . Thưởng thức thơ trữ tình trung đại Việt Nam, để đến
được với “hồn thơ”, người đọc phải mở rộng hồn mình phối hòa với tất cả các
giác quan, phải trải lòng ra cho mạch thơ tuôn chảy, cho chất thơ lan tỏa. Điều
đó tạo cho người học sự hứng thú khi học thơ trữ tình trung đại. Học sinh không

những nắm bắt được ý thơ mà thông qua đó cảm được tiếng nói của thi nhân,
tiếng nói của cảm xúc, của con tim, của những tấm lòng tha thiết yêu đời, yêu
người. Và tiếng lòng của thi nhân thì ở thời đại nào cũng là những rung cảm
thầm kín nhất. Nó sẽ là mạch nối giữa quá khứ và hiện đại, nó giúp cho người
đọc vượt qua mọi giới hạn của thời gian để đồng cảm cùng tác giả.
Từ thi pháp thơ trung đại với những đặc điểm riêng của nó đặc biệt là tính quy
phạm, giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy tài năng và sự sáng tạo của các nhà thơ
trong từng tác phẩm cụ thể khi vượt ra khỏi tính quy phạm ấy[6] . Đó là việc các
nhà thơ vừa đảm bảo theo đúng đặc trưng thi pháp thơ trung đại vừa thổi được
hồn của tương lai qua sự sáng tạo của mình. Đó những nhà thơ đi trước thời đại
mình sống. Chẳng hạn khi hướng dẫn học sinh đọc bài thơ Độc Tiểu Thanh ký
(Đọc Tiểu Thanh ký) của Nguyễn Du, giáo viên chỉ ra cho học sinh thấy tác giả

7


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

đã tuân thủ đặc trưng của thi pháp trung đại từ thể loại, tứ thơ, ngôn từ, hình ảnh
mang tính quy phạm như thế nào nhưng đồng thời cho học sinh thấy cái khát
vọng đồng cảm của Nguyễn Du là khát vọng muôn đời không bao giờ cũ của
người nghệ sỹ khi nhà thơ hướng tới tìm sự đồng cảm ở tương lai :
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như ?
Hay khi dạy bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ (chương
trình Ngữ văn lớp 11) có thể cho học sinh thấy trên cơ sở đặc trưng của thi pháp
trung đại mang tính phi ngã, vô ngã nhưng nhà thơ đã đưa vào đó cái tôi của
mình khi tự xưng: “Ông Hy Văn, tài bộ đã vào lồng”, hoặc phá tan cái tôn

nghiêm mang tính giáo huấn của văn chương khi lên chùa mà vẫn “ Gót tiên
theo đủng đỉnh một đôi dì”. Đó chính là tinh thần hiện đại làm nên giá trị nhân
văn mới mẻ của thơ Nguyễn Công Trứ. Đó chính là hiện đại hóa giá trị nội dung
tư tưởng của bài thơ.
2. 3.2. Dùng phương pháp đối chiếu so sánh.
Đây là một phương pháp lập luận học sinh được học trong chương trình Ngữ
văn lớp 10. Vận dụng phương pháp này giáo viên không những giúp học sinh
phát hiện và cảm nhận một cách sâu sắc các giá trị hiện đại của văn học trung
đại mà còn tích hợp được các kiến thức và khơi dạy tính tích cực chủ động của
học sinh trong học tập. Dùng phương pháp đối chiếu so sánh là đã tạo ra tình
huống có vấn đề trong học tập giúp học sinh phát huy tối đa khả năng sáng tạo,
liên tưởng của bản thân. Và học sinh sẽ cảm thấy hứng thú khi tìm thấy những
điều mới mẻ.
Giáo viên cần dùng phương pháp đối chiếu, so sánh theo kiểu liên tác phẩm.
Trên cơ sở đối chiếu so sánh giáo viên giúp học sinh nhận thấy chất hiện đại,
hơi thở của cuộc sống trong từng ý thơ, tứ thơ, trong ngôn từ, hình ảnh của thơ
trữ tình trung đại. Có như vậy học sinh mới thực sự cảm nhận được giá trị đích
thực của tác phẩm, cảm thấy hào hứng khi học thơ trung đại.
Chẳng hạn khi cho học sinh đọc bài thơ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão có thể
so sánh với những bài thơ thời chống Mỹ như Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh
Xuân, Bài ca Xuân 1968 của Tố Hữu để học sinh cảm nhận về tư thế của người
tráng sĩ trong thơ Phạm Ngũ Lão với tư thế của anh Giải phóng quân trong thơ
Lê Anh Xuân, thơ Tố Hữu từ đó thấy rằng hào khí Đông A vẫn tồn tại trong hào
khí của dân Việt Nam thời chống Mỹ. Đó chính là hiện đại hóa cảm hứng của
bài thơ.
Hay khi hướng dẫn học sinh đọc hiểu Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du cần
so sánh, liên hệ với bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu để thấy mạch
nối giữa xưa và nay giữa truyền thống và hiện đại từ đó tạo nên sự hấp dẫn đối
với học sinh.
Khi dạy bài thơ Câu cá mùa thu( Thu điếu) của Nguyễn Khuyến giáo viên có

thể cho học sinh thấy giá trị của bài thơ chính là lưu giữ trong tâm hồn của
người đọc những gì đẹp nhất, yên ình nhất về mùa thu của làng cảnh Việt Nam
như một bảo tàng vô hình trước sự mai một dần những vẻ đẹp của truyền thống.

8


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

Khi tìm chất hiện đại trong thơ trữ tình trung đại cần tìm hiểu trên nhiều khía
cạnh. Có thể là tứ thơ, có thể là ý thơ cũng có thể chỉ là chất liệu hoặc một hình
ảnh, một cách dùng từ nào đó. Đây chính là sự cách tân, sự sáng tạo của những
người nghệ sỹ lớn khi họ đủ bản lĩnh vượt ra khỏi chỗ đứng của thời đại mình để
vươn tới tương lai.
2.3.3. Kết hợp nhiều biện pháp khác nhau trong cùng một tiết dạy.
Việc tách các biện pháp trên đây chỉ là cách nói cho rõ ràng, còn trên thực tế
thì người dạy phải biết kết hợp tất cả các biện pháp trên trong một tiết dạy thì
mới có hiệu quả. Giáo viên phải xuất phát từ đặc trưng thể loại, sử dụng hệ
thống câu hỏi hợp lý, dẫn dắt học sinh đối chiếu so sánh thì mới đạt được mục
đích của mình. Bên cạnh đó có thể sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin
hỗ trợ cùng việc hiểu các yếu tố ngoài văn bản để học sinh cảm nhận được hơi
thở của thời đại mình sống trong các tác phẩm thơ trữ tình trung đại Việt Nam.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng trong một tiết dạy chúng ta không thể áp dụng tất
cả các biện pháp trên đây mà tuỳ theo mục đích và điều kiện, tình huống cụ thể
để áp dụng linh hoạt các biện pháp nhằm tạo được hiệu quả tối đa.
2.3.4.Vận dụng thực tiễn:
Thiết kế bài : Đọc văn ( tiết 36):
Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới số 43)- Nguyễn Trãi.[1]

Ở đây chúng tôi chỉ lược ra một số điểm lưu ý có vận dụng các phương pháp
nêu trên chứ không trình bày toàn bộ bài giảng.
-Phần I. Tìm hiểu chung .
Có thể cho học sinh tìm chất hiện đại qua việc tìm hiểu xuất xứ của bài thơ.
Đặt câu hỏi cho học sinh : Bài thơ thuộc phần Bảo kính cảnh giới (Răn dạy
mọi người) trong “ Quốc âm thi tập” nhưng nội dung bài thơ lại là Cảnh ngày
hè, em có suy nghĩ gì về điều đó?
Giáo viên phải chỉ ra cho học sinh thấy được sự khác biệt trong cách cảm nhận,
cách tư duy của Nguyễn Trãi so với thời đại ông sống và sự gần gũi với chính
thế hệ các em trong đề tài của bài thơ.
-Phần II. Đọc- hiểu văn bản.
1. Từ đặc trưng thể loại giúp học sinh hiện đại hóa một số giá trị trong bài
thơ qua các câu hỏi sau:
- Nhận xét về câu đầu và câu cuối của bài thơ so với quy định của thể thơ thất
ngôn bát cú Đường luật thường thấy trong thơ trung đại Việt Nam? Từ đó chỉ ra
sự sáng tạo về thể loại của Nguyễn Trãi trong việc sử dụng câu thơ sáu chữ để
thể hiện tâm trạng và khát vọng của nhà thơ? Đó chính là tinh thần đân tộc hóa
và hiện đại hóa trong nghệ thuật của bài thơ.
- Em có nhận xét gì về hình ảnh “ Lao xao chợ cá làng ngư phủ” được sử dụng
trong bài thơ? Hình ảnh này so với đặc trưng của thơ trung đại là sử dụng những
thi liệu có sẵn trong sử sách thì nó có gì đặc biệt?
GV có thể giúp học sinh liên tưởng tới những âm thanh cuộc sống trong văn
chương hiện đại như bài thơ Tràng Giang của Huy Cận hay trong một số tác
phẩm khác. Từ đó giúp học sinh thấy được chất hiện đại trong hồn thơ Nguyễn

9


NGUYỄN THỊ HOA


Sáng kiến kinh nghiệm

Trãi. Chất hiện đại ấy xuất phát từ tình yêu cuộc sống, tình yêu con người thiết
tha của thi sỹ. Nó là sự hòa quyện giữa giá trị nội dung và giá trị hình thức.
2. Dùng phương pháp đối chiếu so sánh kết hợp với những câu hỏi gợi mở,
liên tưởng.
Từ nghệ thuật sử dụng từ ngữ, hình ảnh của Nguyễn Trãi khi miêu tả bức tranh
ngày hè giúp học sinh so sánh với thơ Xuân Diệu sau này để thấy chất hiện đại
trong tâm hồn nhạy cảm của Nguyễn Trãi.
Từ các từ: “đùn đùn”; “giương”: “phun”; “lao xao” hay các hình ảnh “hòe lục”;
“thức đỏ”; “tiễn mùi hương” cho học sinh thấy Nguyễn Trãi đã cảm nhận cuộc
sống bằng tất cả các giác quan của mình và điều đó có gần với quan niệm của
Xuân Diệu là: “ Sống toàn tâm, toàn trí, sống toàn hồn; Sống toàn thân và thức
nhọn giác quan” hay không?
Hay từ câu kết của bài thơ: “ Dân giàu đủ khắp đòi phương” giúp học sinh liên
hệ so sánh với quan niệm của Hồ Chí Minh để thấy sự gặp gỡ của những tâm
hồn lớn. Và từ đó thấy khát vọng của Nguyễn Trãi vẫn đồng hành cùng thời đại
chúng ta.
Bằng cách này là giáo viên đã giúp học sinh hiện đại hóa cách cảm, cách nghĩ
của Nguyễn Trãi.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục với bản
thân, đồng nghiệp, nhà trường thông qua kết quả điều tra khảo sát.
2.4.1.

Bằng phiếu điều tra

Lớp

Năm học


10 C
10 D1
10 D1
10 A1
10 A2

2012-2013
2013-2014
2014-2015
2015-2016
2016-2017

HS hứng thú
với tiết học
80%
90%
95%
100%
100%

HS chưa hứng thú
với tiết học
20%
10%
5%
0%
0%

2.4.2. Bằng quan sát trực tiếp:
Không khí lớp học rất sôi nổi.

Học sinh hứng thú với tiết học, tham gia thảo luận nhiệt tình và có hiệu quả.
2.4.3. Kiểm tra theo hình thức tự luận.
Cho học sinh lớp 10A 2 năm học 2017 viết bài kiểm tra với yêu cầu sau :
Cảm nhận của em về những nét mới mẻ trong bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính
cảnh giới số 43) của Nguyễn Trãi ?
Kết quả cho thấy 95% học sinh đạt yêu cầu trở lên trong đó có đến 75% đạt
khá giỏi.
2.4.4. Áp dụng trong tổ bộ môn.

10


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

100% giáo viên tổ Ngữ văn trường THPT Quảng Xương 3 đã áp dụng các
phương pháp này trong các tiết dạy đọc thơ trữ tình trung đại Việt Nam trên tất
cả các lớp 10 và lớp 11. Và giáo viên tổ Ngữ văn đã nhận thấy hiệu quả rõ ràng
trong giờ dạy, học sinh hứng thú hơn trong giờ học.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận.

11


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm


Tạo được niềm đam mê, hứng thú cho học sinh trong giờ đọc văn nói
chung và đọc thơ trữ tình trung đại Việt Nam nói riêng luôn là điều mong mỏi
của mỗi thầy cô giáo dạy ngữ văn có tâm huyết với nghề. Bởi vậy việc hiện đại
hóa một số giá trị của thơ trữ tình trung đại Việt Nam ở trường THPT thúc đẩy
việc đưa môn ngữ văn trở thành cầu nối giữa nghệ thuật và cuộc sống giữa quá
khứ và hiện tại, giữa cha ông với cháu con. Điều đó giúp cho học sinh tiếp nhận
được những tinh hoa văn học dân tộc đồng thời tạo nên sự trường tồn cho văn
học trung đại Việt Nam.
Muốn tạo cho học sinh hứng thú trong học văn nói chung và học thơ trữ
tình trung đại Việt Nam nói riêng người dạy cần có vốn kiến thức phong phú, có
những biện pháp thích hợp và sáng tạo, cần có tâm huyết với nghề để từ đó cùng
học sinh cảm nhận chất hiện đại trong các tác phẩm thơ trữ tình trung đại.
Từ thực tế áp dụng tại trường THPT Quảng Xương 3, tôi mạnh dạn nêu
kinh nghiệm nhỏ này để trao đổi cùng đồng nghiệp, rất mong được sự góp ý của
các bạn.
3.2. Kiến nghị.
Đề nghị sở giáo dục và đào tạo phổ biến những sáng kiến kinh nghiệm
đạt giải A cấp ngành về các trường THPT để mọi CBGV học tập, áp dụng.
Sầm Sơn, ngày 4 tháng 05 năm 2017.
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của bản thân không sao chép.
Người thực hiện:

Nguyễn Thị Hoa

TÀI LIỆU THAM KHẢO


12


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

1.

Sách Ngữ văn 10- chương trình chuẩn - NXBGD 2009 Tập 1, Tập 2.

2.

Sách Ngữ văn 10- chương trình Nâng cao -NXBGD 2009 Tập 1,Tập 2.

3.

Sách Ngữ văn 11- chương trình chuẩn - NXBGD 2009 Tập 1, Tập 2.

4.

Sách Ngữ văn 11- chương trình Nâng cao -NXBGD 2009 Tập , Tập 2.

5.

Từ diển văn học -NXBGD 2004

6.

Lý luận văn học -NXBGD 2005


7.

Thi pháp học- NXBGD 2005

8.

Những thế giới nghệ thuật thơ – Trần Đình Sử-NXBGD -1995

DANH MỤC

13


NGUYỄN THỊ HOA

Sáng kiến kinh nghiệm

CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Hoa
Chức vụ và đơn vị công tác: Phó Hiệu trưởng Trường THPT Quảng Xương 3

TT
1.

Tên đề tài SKKN
Cách đặt câu hỏi tạo tình huống


Sở GD&ĐT

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
C

2002-2003.

Sở GD&ĐT

C

2004-2005.

Sở GD&ĐT
Và HĐKH
Tỉnh

B

2010-2011

Sở GD&ĐT

B

2013-2014.


Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)

Năm học
đánh giá xếp
loại

có vấn đề cho một bài giảng văn
2.

ở trường phổ thông trung học
Chất nhân văn của ngòi bút
Nguyễn Khải qua nhân vật Đào

3.

trong tác phẩm Mùa lạc
Một số biện pháp tạo hứng thú
cho HS trong giờ lý luận văn
học- Chương trình Ngữ văn

4.

THPT
Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả giờ đọc thơ Đường- Chương
trình Ngữ văn 10 THPT


14



×