SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT TRẦN PHÚ - NGA SƠN
---- ----
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP XÂY DỰNG “GIỜ HỌC MỞ”
TRONG DẠY HỌC NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THPT
Người thực hiện: Trần Thị Thái
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Trần Phú
Sáng kiến kinh nghiệm thuộc môn: Ngữ văn
THANH HÓA NĂM 2017
1
MỤC LỤC
1
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1
1. Lý do chọn đề tài.
2
2. Mục đích nghiên cứu.
2
3. Đối tượng nghiên cứu.
3
4. Phương pháp nghiên cứu.
3
II.PHẦN NỘI DUNG
3
1. Cơ sở lý luận.
3
2. Thực trạng vấn đề.
4
3. Các giải pháp.
6
3.1.Tác động bằng tình cảm.
6
3.2. Những bài thơ đồng sáng tạo.
8
3.3. Phương pháp trò chơi.
13
3.3.1. Một số nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi.
13
3.3.2. Một số trò chơi vận dụng lồng ghép trong giờ dạy học Ngữ văn.
13
*. Trò chơi ô chữ bí mật.
13
*. Trò chơi hỏi, đáp nhanh.
16
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
17
III.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
19
1. Kết luận
19
1.1. Những bài học kinh nghiệm.
19
1.2.Khả năng ứng dụng, triển khai của đề tài.
19
2. Kiến nghị.
20
2
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Văn học là cái đẹp bên trong được thể hiện ra bên ngoài thông qua hình
ảnh, ngôn từ và rồi thấm đượm vào tâm hồn để góp phần hình thành nên
những vẻ đẹp bên trong. Chính vì vậy mà đối với bộ môn Văn học nó đòi hỏi
cả người dạy và người học phải thực sự hào hứng, say mê. Việc dạy học văn
cũng là một nghệ thuật, nó không ưa sự nhàm chán, nó cần đến sự sang tạo và
linh hoạt về phương pháp.
Việc đổi mới phương pháp dạy học là một nhiệm vụ, yêu cầu bắt buộc
đối với giáo dục nước ta hiện nay, đặc biệt là đối với hệ thống giáo dục phổ
thông, trong đó có việc dạy và học môn Ngữ văn. Chiến lược phát triểm giáo
dục giai đoạn 2011- 2020 ban hành kèm theo quyết định 711/QĐ-TTg ngày
13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới phương
pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện theo hướng phát huy tích
cực, tự giác, chủ động, sang tạo và năng lực tự học của người học”. Và trong
những năm gần đây, việc tích cực đổi mới, đổi mới căn bản toàn diện trong
giáo dục đã đem lại nhiều kết quả khả quan. Ngành giáo dục cũng đã tổ chức
nhiều đợt chuyên đề cho giáo viên nhằm triển khai và thống nhất kế hoạch đổi
mới phương pháp dạy học.
Tại Hội thảo Khoa học Quốc gia dạy và học môn Ngữ văn ở trường
phổ thông Việt Nam (trong 2 ngày 5-6/1/2013, tại Huế), khi bàn về việc tìm
phương pháp đổi mới cho môn Văn các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, đã
đưa ra quan điểm: Dạy học Ngữ văn cần tập trung hình thành cho học sinh
phương pháp học và phương pháp đọc. Phương pháp dạy học phải tạo cho
học sinh tính hiếu kỳ, tò mò và sự đam mê để họ tự đi tìm và lý giải, qua đó
hình thành năng lực. Không nhồi nhét kiến thức, không bắt nhớ máy móc, cần
biết quên cái cụ thể, chi tiết; chỉ nhớ cách làm, cách xử lý vấn đề…giúp học
sinh tự học, tự khám phá, tự kích thích sáng tạo. Giờ Văn học trước hết hãy
giúp cho học sinh niềm yêu thích, say mê văn chương, mong muốn tìm tòi, tìm
hiểu cái hay, cái đẹp của thế giới nghệ thuật rồi sau đó mới là những yêu cầu
khác.
Tuy nhiên, việc vận dụng đổi mới phương pháp dạy học văn vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu. Dạy và học vẫn còn đơn điệu, nặng nề thuyết giảng
1
một chiều, để trò ghi chép rồi học thuộc trong vở ghi. Cách học theo lối thụ
động đó sẽ không gây được sự hào hứng, tìm tòi, khám phá những nhiều mới
mẻ trong mỗi giờ học. Đặc biệt là một thực tế hiện nay, chúng ta thấy rằng sự
yêu thích, đam mê của học sinh đối với môn văn đã giảm sút rất nhiều. Có
nhiều học sinh không còn mặn mà với việc học văn, nếu không nói là “chán”
học môn văn.
Luận ngữ có câu: “Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học
không bằng say mà học”. Niềm yêu thích, say mê chính là động lực thúc đẩy,
nuôi dưỡng sự cố gắng, nỗ lực học tập của học sinh. Chính vì vậy mà vai trò,
nhiệm vụ của mỗi người giáo viên là vô cùng quan trọng. Với vai trò tổ chức,
hướng dẫn điều khiển quá trình học tập của học sinh, người giáo viên phải tìm
ra những biện pháp hay nhất để phát huy được tính sáng tạo của người học,
tạo cho các em một tâm thế thoải mái. Người giáo viên bên cạnh việc trau dồi
nâng cao năng lực chuyên môn vững vàng, cần phải có nghệ thuật đứng lớp
và luôn biết làm mới những phương pháp lên lớp. Mà cốt lõi là phải tạo ra
được một không gian để học sinh có thể tìm hiểu, sẻ chia niềm đam mê, yêu
thích môn Văn – dạy học theo hình thức giáo dục khai phóng. Mà tôi gọi đó
là “Giờ học mở”.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy
thực tiễn của bản thân, với mong muốn trong từng giờ dạy, giáo viên luôn biết
tạo cho học sinh một tư thế vững vàng, một tâm lý thoải mái, một xúc cảm,
hứng thú và một tầm hồn đam mê, tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp xây
dựng “Giờ học mở” trong dạy học Ngữ văn ở trường THPT”.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nhằm mục đích nâng cao chất lượng của giờ học, phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh.
- Đặc biệt là tạo cho học sinh một tâm thế thoải mái, một không gian để
học sinh bày tỏ niềm đam mêm, hứng thú trong học tập của mình, một sự thân
thiện gần gũi giữa thầy và trò.
- Và hơn thế nữa tôi bày tỏ niềm mong muốn rằng sẽ góp phần nào đó
trong việc bồi dưỡng tâm hồn cho học sinh, như Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh
đã từng nói: “Học văn là làm cho tâm hồn mỗi con người phong phú thanh
2
cao và yêu đời hơn, người học văn sẽ có ý thức được và không bao giờ là
người thô lỗ, cục cằn”.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh các khối lớp mà tôi được phân công trực tiếp giảng dạy từ
năm 2013 đến nay. Cụ thể như sau:
Năm học 2013 – 2014: Lớp 11D, 11E, 11H, 11I
Năm học 2016 – 2017: Lớp 10A, 10B, 10D, 10G
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp
nghiên cứu lý luận và phương pháp thực nghiệm (thông qua thực tế giảng dạy
trên lớp), chủ yếu là một số phương pháp sau:
II. PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở lý luận:
Trong những năm gần đây, Ngành giáo dục nước ta đã có nhiều đổi mới
từ nội dung chương trình đến phương pháp dạy học. Những quan điểm và
đường lối chủ đạo của Nhà nước về đổi mới giáo dục đã được thể hiện cụ thể
trong nhiều văn bản. Nghị quyết hội nghị TW8, khoá XI về đổi mới căn bản
toàn diện về giáo dục và đào tạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp
dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và
vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt,
một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến
khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng,
phát triển năng lực…”.
Trong tài liệu bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên về biên soạn đề
kiểm tra, xây dựng thư viện câu hỏi cũng đã viết: “Hoạt động giáo dục chỉ đạt
hiệu quả cao khi tạo lập được môi trường lạnh mạnh, bầu không khí thân
thiện, phát huy ngày càng cao vai trò tích cực, chủ động, sang tạo của học
sinh”.
Khi giáo viên đã tạo được cho học sinh một không gian học tập thật sự
thoải mái, thân thiện thì sẽ tạo cho học sinh một niềm yêu thích, sự hứng
khởi. Và như vậy sẽ giúp các em chống lại được sự mệt mỏi, học sinh sẽ hang
3
hái trả lời, thích phát triển ý kiến trước những vấn đề nêu ra, tích cực xây
dựng bài.
2. Thực trạng vấn đề:
2.1. Khảo sát:
Chúng ta nhận thấy rằng, ở bất kỳ một giai đoạn lịch sử, một cấp học
nào thì môn văn vẫn là là một môn học chiếm một vị trí quan trọng. Nó tham
gia vào trong kỳ thi vượt cấp của mỗi học sinh, rồi là trong các kỳ thi học sinh
giỏi. Song chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng tình trạng học sinh
bây giờ không còn mến mộ, yêu thích môn Văn học, tình yêu văn học của học
sinh đã giảm sút rất nhiều. Tình trạng học sinh chán học văn, không còn hứng
thú say mê với văn chương nữa là rất phổ biến.
Trong những năm học vừa qua tôi cũng đã làm những lá phiếu thăm dò
ý kiến của các em học sinh.
Mẫu phiếu:
Trường THPT Trần Phú Nga Sơn
Tổ: Ngữ văn
PHIẾU THĂM DÒ Ý KIẾN HỌC SINH
Về việc học môn Ngữ văn
Thích
Không thích
Bình thường
Lưu ý: Em hãy đánh dấu “x” vào ô mà em đã lựa chọn.
Vào đầu năm học 2012 – 2013, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ
văn ở các lớp 11 D, 11 E, 11 H, 11 I. Tôi đã làm một cuộc khảo sát học sinh
yêu thích, hứng thú học môn Ngữ văn và kết quả thu được như sau:
4
Đối tượng
Mức độ yêu thích/hứng thú
khảo sát
Lớp
Sĩ số
Thích
Không thích
Bình thường
Số
lượng
%
Số
lượng
%
Số
lượng
%
11D
42
20
48
6
14
8
19
11E
41
15
37
18
44
9
19
11H
42
12
29
17
41
13
30
11I
42
7
17
20
48
15
35
Vào đầu năm học 2016 – 2017, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ
văn ở các lớp 10B, 10D, 10G, 10I. Tôi cũng đã làm một cuộc khảo sát và kết
quả thu được như sau:
Đối tượng
Mức độ yêu thích/hứng thú
Khảo sát
Lớp
Sĩ số
Thích
Số
lượng
Không thích
%
Số
lượng
%
Bình thường
Số
lượng
%
10B
40
15
38
17
43
8
19
10D
41
22
53
12
22
6
25
10G
40
8
19.0
16
38.0
18
43.0
10I
39
12
28.5
9
21.4
21
50.0
Dù là hai kết quả khảo sát ở đối tượng học sinh trong hai năm học, ở
hai khối lớp khác nhau nhưng vẫn có điểm chung là học sinh yêu thích và có
hứng thú với môn học là không cao. Kết quả khảo sát qua bài kiểm tra đánh
giá kiến thức môn học của học sinh cũng cho thấy lượng học sinh có điểm yếu
5
cao. Chỉ có hai lớp 10D và 11D là lớp Văn – Toán - Ngoại Ngữ (lớp khối D)
mới có tỉ lệ học sinh yêu thích môn Văn cao hơn. Có thể nói nhìn vào thực
trạng đó mỗi người giáo viên như tôi cũng không khỏi xót xa và thấy chạnh
lòng thương cho “Nghiệp văn chương”.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh “chán học văn”,
nhưng tôi thiết nghĩ có những nguyên nhân cơ bản sau:
2.2. Về phía giáo viên:
Trong những năm gần đây, ngành luôn đề cao việc đổi mới phương
pháp dạy học, nhưng thật sự việc đổi mới ở các giáo viên dạy Ngữ văn còn
gặp nhiều khó khăn, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy cũng
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Ngoài các tiết dự thi, thao giảng…
còn đa phần các tiết dạy văn là “dạy chay”, người thầy vẫn giữ phương pháp
cũ là thuyết giảng.
2.3. Về phía học sinh:
Do tính đặc thù môn học là một môn học mang tính cảm xúc, tư duy
trừu tượng, chịu chi phối rất nhiều bởi yếu tố văn hoá, tâm lí, cảm xúc, đòi hỏi
người học phải có trí tưởng tượng phong phú. Đây cũng là môn học mà nội
dung không chỉ hiện ra trên dạng câu từ mà còn bao hàm, ẩn chứa nhiều tầng
nghĩa sâu xa. Vì thế việc tiếp nhận môn học này đối với học sinh là rất khó
khăn. Vì vậy, có nhiều em rất thiếu long quyết tâm học tập, thường chán nản
và không thích học môn văn.
Học sinh hiện nay sống trong thời đại khoa học công nghệ tiên tiến, có
khả năng tiếp cận một cách nhanh chóng và không giới hạn với một kho giải
trí và thông tin khổng lồ trên internet.
Thay vì đổ lỗi cho hoàn cảnh, tìm lí do để biện minh cho hiệu quả công
việc chưa mấy tốt đẹp của mình; tôi nghĩ, mỗi chúng ta những người truyền
dạy văn chương cần nhận thấy rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc học
sinh không yêu thích môn Văn.
3. Các giải pháp:
3.1. Tác động bằng tình cảm:
Người ta vẫn thường nói “Tác phẩm văn học là đứa con tinh thần của
nhà văn”. Chính vì vậy mà việc dạy học văn không thể chỉ dung lí trí để
6
“nhận” mà còn phải “cảm” bằng cả trái tim và tâm hồn. Vì vậy, người giáo
viên không chỉ truyền kiến thức cho các em học sinh mà điều quan trọng là
chúng ta phải nhen nhóm lên cho các em một ngọn lửa đam mê. Người giáo
viên phải khơi gợi được lên trong các em một tình yêu văn học thực sự, các
em chủ động, sang tạo, tự tin và hứng khởi. Nói một cách đơn giản là để các
em thấy thích môn văn và đón nhận một giờ học văn đối với một tâm lí thoải
mái, tự tin với một cảm hứng và một tâm hồn văn chương.
Để học sinh luôn tích cực, tự giác, đặc biệt là thích thú với giờ học,
người giáo viên phải truyền dạy tri thức bằng tất cả trái tim và lòng tâm huyết
của mình, phải để học sinh cảm nhận được tâm hồn mình trong mỗi bài giảng.
Như đồng chí Lê Duẩn đã từng nói: “Thầy giáo không chỉ dạy cho học trò
bằng những công thức, bằng những câu, những từ có sẵn mà phải dạy bằng
tất cả tâm hồn mình”.
Để làm được điều đó, người giáo viên trước hết phải biết tạo cho mình
một tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng, một tình cảm thân thiện, gần gũi hoà
đồng. Người giáo viên vừa phải biết nén lòng quên đi những vướng bận lo
toan của cuộc sống đời thường để mỗi ngày đến trường là một niềm vui để rồi
người giáo viên bước lên bục giảng đầy hung phấn.
Một điều cũng rất quan trọng, đó là người giáo viên phải thực sự quan
tâm đến học trò, biết lắng nghe, chia sẻ với những suy nghĩ, tâm tư của các
em. Người giáo viên phải luôn là người bạn để sẵn sang chia sẻ. Từ đó tạo
được niềm tin, xoá bớt được khoảng cách giữa giáo viên và học sinh; tạo ra
không khí học tập thân thiện và gần gũi… theo quy luật lây lan tình cảm, từ
chỗ trân trọng, yêu quý thầy cô đến chỗ các em thích học là một khoảng cách
rất gần. Từ đó học sinh yêu thích say mê với môn học hơn.
Trong năm học 2011 -2012, tôi dạy văn ở các lớp 10 E, 10 I, trong mỗi
lớp có khoảng 5 em học sinh, cứ đến giờ học Văn là các em ngồi học được 510 phút là lại bắt đầu gục đầu xuống bàn, không ghi bài cũng không chú ý
nghe giảng, thậm chí có những em mắt lờ đờ buồn ngủ. Trong số đó lại còn có
em quên không mang sách, quên không mang vở, có em thì có vở ghi nhưng
cả vở cũng mới được có mấy dòng. Vậy nguyên nhân từ đâu? Lỗi ở trò, ở
thầy hay chương trình và sách giáo khoa chưa đủ hấp hẫn? Trong giờ học,
thay vì việc cứ đứng mãi trên bục giảng, thỉnh thoảng tôi đi xuống chỗ các em
7
đó, đứng vào cạnh các em, nhắc nhở từng em một với biện pháp mưa dầm
thấm lâu.
Bên cạnh đó, trong quá trình dạy, tôi luôn biết dành cho các em những
lời khen và khuyến khích các em bằng việc cho điểm khá giỏi vào sổ đầu bài
và đánh giá nhận xét bằng những giờ học tốt. Học sinh chán học văn vì phải
chép bài mỏi tay, chép dài lê thê hang trang giấy mà nhiều khi không hiểu.
Tôi khuyến khích các em chỉ ghi chép những gì mà các em đã hiểu, các em
cảm thấy hứng thú. Tôi không quan trọng việc các em phả ghi được nhiểu,
hướng dẫn các em cách ghi cách nhớ đơn giản mà nhanh thuộc nhất. Như vậy,
cùng một bài giảng nhưng trong lớp sẽ có nhiều em với những cách ghi khác
nhau. Từ đó các em rất thích học và vô cùng hứng thú. Các em tự giác hơn từ
việc ghi bài, soạn bài chuẩn bị bài mới đến việc giơ tay phát biểu ý kiến.
Cứ thế trong suốt giờ dạy học văn, người thầy phải thực sự toàn tâm
toàn trí với văn, với học trò, để cùng các em say sưa đi vào lĩnh hội tri thức
một cách hiệu quả nhất.
3.2. Những bài thơ đồng sáng tạo:
Có nhà giáo từng nói: “Một ông thầy mà không dạy được cho học trò
ham muốn học tập thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi”. Cho nên, người
giáo viên phải biết cách tạo ra một không khí lớp học thoải mái, kích thích
được sự hứng thú học tập trong học sinh. Có rất nhiều cách như giáo viên có
thể tạo không khí lớp học bằng cách dẫn các chuyện vui, các câu thơ, câu văn
hay, gợi sự chú ý bằng tranh ảnh, tổ chức trò chơi ô chữ... hay một mẩu
chuyện về nhà văn sẽ làm cho bầu không khí học tập thay đổi tích cực.
Chẳng hạn như khi dạy “Truyện An Dương và Mị Châu – Trọng Thuỷ”
sau khi cho học sinh thảo luận về chi tiết “Ngọc trai- Giếng nước”, tôi đã mở
rộng bài bằng cách đọc cho các em nghe bài thơ của tác giả Anh Ngọc. Bài
thơ với tên gọi là Mỵ Châu:
Mỵ Châu
Long ngỗng rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình.
Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
8
Tình yêu đến cùng đường cùng cái chết
Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu
Giá như trên đời còn có một Mỵ Châu
Vừa say đắm yêu thương vừa luôn luôn cảnh giác
Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ.
Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ
Ðể chung thuỷ với tình yêu hai ngàn năm có lẻ
Như anh với em dẫu yêu nhau chung thuỷ
Ðến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm.
Nên chúng ta dù rất đỗi đau long
Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết
Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp
Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu.
Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi cụt đầu nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng màu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào.
Anh cũng như em muốn nhắc Mỵ Châu
Ðời còn giặc xin đừng quên cảnh giác
Nhưng nhắc sao được người hai ngàn năm trước
9
Nên em ơi ta đành tự nhắc mình.
Khi hướng dẫn học sinh làm bài nghị luận văn học, cụ thể là phân tích
nhân vật Chí Phèo, tôi có thể đọc cho học sinh nghe bài thơ của Trần Thế
Hoàng Phước- một bài làm văn của học sinh lớp chuyên hóa:
"Nam Cao viết truyện Chí Phèo
Cùng làng Vũ Đại đói nghèo tối tăm
Hôm qua em định đi nằm
Ngờ đâu nhớ lại bài văn chưa làm
Em là dân ở trong làng
Hằng ngày thấy cảnh ngang tang hại dân
Chí Phèo xưa vốn hiền lành
Ở cho Lý Kiến ma lanh nhất làng
Vì ghen nên bị nghi oan
Tám năm tù tội hoàn toàn đổi thay
Chí xưa vốn thiệt người ngay
Từ khi mãn hạn người này khác xưa
Suốt ngày xỉn rượu say sưa
Đập đầu ăn vạ chẳng chừa một ai
Trong tay sẵn có mảnh chai
Cả làng Vũ Đại chẳng ai dám gần
Đến nhà cụ Kiến mấy lần
Tiền kia đổi lại một phần lương tâm
Dân làng chỉ biết lặng câm
Nhìn theo bóng Chí đến thăm từng nhà
Người nào chẳng móc tiền ra
Trả cho Bá Kiến thì nhà ra than
Ngày ngày hắn vẫn hung tàn
Tay sai Bá Kiến làm càn hại dân
Nào đâu say rượu một lần
Chí ta gặp Nở đần đần dở hơi
10
Sau lần ngả ngớn lả lơi
Chí Phèo lại thấy thảnh thơi muôn phần
Nở kia dở dở đần đần
Mà làm cho Chí tâm thần xốn xang
Thị tuy chẳng tốt dung nhan
Nhưng mà tâm ấy hơn ngàn giai nhân
Sau khi ăn ở mấy lần
Chí Phèo tỉnh hẳn, tính nhân ùa về
Người vừa thoát khỏi cơn mê
Tìm ngay Bá Kiến một (…) chết liền
Chí Phèo cũng mải lên tiên
Cố kia một nhát máu liền tuôn ra
Khổ thân cho chị Nở ta
Bụng mang dạ chửa không nhà không thân
Sau khi suy nghĩ bần thần
Nàng bèn quyết định ẩn thân trong lò
Thật là luẩn quẩn quanh co
Cha con nối tiếp trong lò bước ra
Đọc xong tác phẩm vừa qua
Chúng ta cảm thấy xót xa trong lòng
Người dân bị ép đến cùng
Tính tình thay đổi, tính hung trỗi dậy
Chí Phèo tính vốn người ngay
Tù kia dạy dỗ giờ đây như vầy
Cường hào ác bá một bầy
Đẩy dân xuống hố tiền đầy trong tay
Dân ta chịu đựng lắm thay
“Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”
Đến khi phân rõ trắng đen
Thì thôi hồn đã lên tiên mất rồi
Thật ra cũng tại thói đời
Người dân chịu khổ đứng ngồi không yên
11
Thời xưa xã hội đảo điên
Cũng vì hai chữ tiền quyền mà ra
Thói đời mềm nắn rắn tha
Người mà mềm quá thành ra miếng mồi
Đến đây em cũng bí rồi
Văn thơ chấm dứt một thời thăng hoa
Người nào chẳng có lúc sa
Vì văn không biết nên là làm thơ
Mong cô ngoảnh mặt làm ngơ
Đừng cho không điểm kẻo mờ em toi
Đồng thời cô cũng săm soi
Có gì sai sót góp lời cho em".
Trần Thế Hoàng Phước
(Lớp 11 Hóa 2 THPT chuyên Lê Quý Đôn, Vũng Tàu)
Đây là một bài văn được viết dưới hình thức thơ của một học sinh lớp chuyên
hóa. Bài viết đã được cô giáo đánh giá rất cao bởi sự sáng tạo. Tôi cũng
khuyến khích các em học sinh của mình có những vần thơ đồng sáng tạo như
thế này.
Hay khi dạy Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn 10, kỳ 2 giáo
viên có thể liên hệ một số thông tin. Như vào tháng 11 năm 2000 khi thực
hiện chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam trên cương vị Tổng thống Mĩ, ông
Bill Clinton đã để lại nhiều ấn tượng đẹp, gần gũi với nhân dân Việt Nam khi
đề cập chiều hướng phát triển của quan hệ hai nước Việt Nam – Mĩ, ông đã
đọc hai câu thơ Kiều:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng, tại buổi chiêu đãi trọng thể ở Nhà trắng, phó tổng thống Mĩ Joe Biden
đã đọc hai câu thơ trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du để
mô tả quan hệ Việt – Mĩ:
“Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”.
12
3.3. Phương pháp “trò chơi”.
Phương pháp dạy học môn Văn ở trường phổ thông rất đa dạng, phong
phú, giáo viên có thể căn cứ vào nội dung, tính chất của từng bài, căn cứ vào
trình độ nhận thức, tâm sinh lý của học sinh, điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
lớp, trường m,à lựa chọn sử dụng phối hợp phương pháp dạy học một cách
hợp lý.
3.3.1. Một số nguyên tắc áp dụng phương pháp trò chơi:
- Khi áp dụng phương pháp trò chơi vào trong giờ học, giáo viên phải
biết lựa chọn thời gian áp dụng trò chơi cho thích hợp. Có thếử dụng trò chơi
vào đầu giừo để kiểm tra bài cũ và giới thiệu bài mới. Sử dụng trò chơi nhằm
hình thành tri thức mới. Sử dụng trò chơi để hình thành kỹ năng hoặc củng cố
tri thức, hình thành thái độ.
- Lựa chọn nội dung tổ chức trò chơi phải vừa sức học sinh, đảm bảo
đủ thông tin kiến thức, không dễ quá cũng không khó quá. Nội dung cần phù
hợp với thực tế của học sinh, phải có tính khả thi, phù hợp. Giáo viên và học
sinh phải chuẩn bị đầy đủ các phương tiện cần thiết. Tránh việc tổ chức
“suông”, thiếu sự chuẩn bị dẫn đến sự thiếu hấp dẫn, đơn điệu, nhàm chán.
3.3.2. Một số trò chơi vận dụng lồng ghép trong giờ dạy học Ngữ văn:
* Trò chơi ô chữ bí mật:
Đây là cách thức mô phỏng theo các trò chơi phổ biến hiện nay trên
truyền hình như Đường lên đỉnh Olympia, Chiếc nón kỳ diệu…Có thể sử
dụng trò chơi này linh hoạt trong các tiết giảng văn, áp dụng trò chơi vào đầu
giờ để giới thiệu bài mới nhằm gây hứng thú với học sinh hoặc lúc củng cố
tổng kết để các em khắc sâu nội dung bài học. Trò chơi này khá quen thuộc và
đã được áp dụng nhiều nhưng nó lại nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình
của học sinh. Chính vì thế nó mang lại hiệu quả rất cao.
Để vận dụng tốt trò chơi này vào giảng dạy môn Ngữ văn đòi hỏi giáo
viên phải áp dụng công nghệ thông tin và cung cần trang bị cho mình những
kiến thức về tin học và kỹ năng sử dụng máy tính cũng như việc soạn giáo án
thành thạo trên PowerPoint. Chính vì vậy mà với việc áp dụng phương pháp
này thì không phải giáo viên nào cũng có thể làm được
13
Chẳng hạn, khi dạy xong tác giả Nam Cao và tác phẩm Chí
Phèo trong chương trình Ngữ văn 11, giáo viên có thể áp dụng trò chơi ô chữ
để củng cố nhằm khắc sâu kiến thức đã học:
Giáo viên phổ biến luật chơi: Ô chữ gồm 7 ô chữ cái hàng ngang và
một từ khóa hàng dọc. Mỗi nhóm có hai lượt trả lời. Các nhóm có quyền lựa
chọn từ ở bất kỳ ô hàng ngang nào. Nhóm nào không trả lời được sẽ nhường
lại quyền trả lời cho nhóm khác.
Giáo viên gợi ý ô chữ chúng ta cần tìm hôm nay gồm có 8 chữ cái. Đây
là một trong những giá trị cơ bản của tác phẩm Chí Phèo. Để tìm được ô chữ
này chúng ta có 8 câu hỏi gợi ý ở hàng ngang.
1. Câu hỏi từ hàng ngang số 1: Gồm 5 chữ cái.
Nhân vật nào được nhà văn Nam Cao miêu tả “xấu như ma chê quỷ
hờn”
2. Câu hỏi từ hàng ngang số 2: Gồm 4 chữ cái.
Khi say, Chí chửi, đầu tiên là hắn chửi gì?
3. Câu hỏi từ hàng ngang số 3: Gồm 8 chữ cái
Tác phẩm Chí Phèo được nhà văn lấy bối cảnh ở đâu của nước ta trước
cách mạng tháng Tám?
4. Câu hỏi từ hàng ngang số 4: Gồm 4 chữ cái.
Ai là người đã ngăn cản tình cảm giữa Chí Phèo và Thị Nở?
5. Câu hỏi từ hàng ngang số 5: Gồm 10 chữ cái.
Tên thật của nhà văn Nam Cao?
6. Câu hỏi từ hàng ngang số 6: Gồm 7 chữ cái.
Một trong những tác phẩm viết về đề tài người trí thức trước cách mạng
tháng Tám của Nam Cao?
7. Câu hỏi từ hàng ngang số 7: Gồm 6 chữ cái.
Ai là người trực tiếp đẩy Chí Phèo vào tù?
8. Câu hỏi từ hàng ngang số 8: Gồm 6 chữ cái
14
Qua tác phẩm, Nam Cao muốn đề cập đến tình trạng nào của người
nông dân trước cách mạng tháng Tám?
Đây là bảng trò chơi ô chữ được trình chiếu trong PowerPoint:
*. Trò chơi hỏi, đáp nhanh:
Trò chơi này có thể tổ chức dưới dạng gói câu hỏi. Hệ thống câu hỏi
này đều liên quan đến kiến thức của các bài học trước.
Mục đích là giúp học sinh tích cực huy động trí nhớ, tư duy và khả
năng trả lời nhanh về các nội dung đã học.
Trò chơi này yêu cầu giáo viên phải chuẩn bị hệ thống câu hỏi và đáp
án chu đáo.
15
Với trò chơi này không tổ chức chia theo nhóm mà có thể áp dụng với
từng học sinh. Giáo viên đọc từng câu hỏi. Mỗi học sinh sẽ giơ tay trả lời câu
hỏi. Cuối cùng giáo viên tổng kết, học sinh nào trả lời đúng được nhiều câu
hỏi nhất sẽ dành được điểm 10. Trò chơi này giáo viên có thể áp dụng vào đầu
giờ trước khi vào bài mới thay cho việc kiểm tra bài cũ.
Chẳng hạn như kiểm tra kiến thức về bài “Đọc Tiểu Thanh kí”
và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du với gói câu hỏi như sau:
Câu
hỏi
Nội dung
Đáp án
1
Tên chữ của nhà thơ Nguyễn Du?
Tố Như
2
Đây là tên của nhân vật được đề cập đến trong bài Tiểu Thanh
thơ “Đọc Tiểu Thanh kí”?
3
Hãy điền từ còn thiếu vào chỗ trống trong câu thơ đàn bà
sau:
Đau đớn thay phận…
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
4
Tên làng- quê hương của nhà thơ Nguyễn Du?
Tiên Điền
5
Nhân vật trong Truyện Kiều được đánh giá là một Kim Trọng
văn nhân hào hoa phong nhã?
6
Đây là nơi mà Thúy Kiều đã bị Tú Bà giam lỏng?
Lầu
Bích
7
Họ tên nhân vật chính trong Truyện Kiều?
Vương Thúy
Kiều
8
“Nửa năm hương lửa đương nồng
Ngưng
Từ Hải
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương”
Hai câu thơ trên nói về nhân vật nào trong Truyện
Kiều?
9
Tác giả của “Kim Vân Kiều truyện” là ai?
Thanh
Tâm
16
Tài Nhân
10
Đoạn thơ sau Nguyễn Du muốn nhắc đến nhân vật Đạm Tiên
nào trong Truyện Kiều?
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
Nỗi niềm tưởng đến mà đau
Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Để đạt được hiệu quả cao trong một giờ dạy Văn, đặc biệt là đem lại
niềm vui, sự hứng khởi cho mỗi học sinh phát huy sự đam mê của mình đối
với một học thì còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nữa. Song với 4 năm
áp dụng các biện pháp xây dựng giờ học mở trong dạy học Văn, dù chưa thật
đồng đều ở các lớp, các đối tượng học sinh nhưng bước đầu tôi cũng đã đạt
được những kết quả khả quan:
Giáo viên không mất quá nhiều thời gian chuẩn bị, thời gian của tiết
dạy mà vẫn đảm bảo được nội dung kiến thức cơ bản của bài học. Tạo được
không khí lớp học sôi nổi, tạo hứng thú học tập cho học sinh từ đó nâng cao
hiệu quả dạy học, đặc biệt đối với những em có học lực yếu, nhút nhát, không
chịu giơ tay phát biểu ý kiến.
Giúp các em có một tâm thế thoải mái, vui vẻ do đó tích cực xây dựng
bài, tích cực chuẩn bị bài học, chủ động hơn trong việc chiếm lĩnh tri thức.
Chính vì vậy mà các em tiếp thu kiến thức một cách dễ dàng hơn.
Để thấy rõ hiệu quả và tính khả thi của đề tài chúng ta sẽ so sánh 2
bảng số liệu ghi kết quả khảo sát ý kiến và chất lượng học tập của học sinh 4
lớp thực nghiệm trong năm học 2016 – 2017, trước và sau khi áp dụng các
biện pháp xây dựng giờ học mở trong dạy học Ngữ văn:
Bảng 1: Khảo sát đầu năm học khi chưa áp dụng đề tài:
17
Đối tượng
Mức độ
Lớp
Sĩ số
10B
40
15
17
10D
41
22
10G
40
10I
39
Kết quả học tập
Thích Không Bình
thích thương
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
Kém
8
0
3
19
17
1
12
6
0
11
25
5
0
8
16
18
0
5
30
4
1
12
9
21
0
1
22
14
2
Bảng 2: Khảo sát cuối năm học khi đã áp dụng đề tài:
Đối tượng
Mức độ
Kết quả học tập
Lớp
Sĩ số
Thích Không Bình
thích thương
Giỏi
Khá
Tb
Yếu
Kém
10B
40
30
1
9
0
11
23
6
0
10D
41
34
0
7
2
22
16
1
0
10G
40
27
0
13
0
13
25
2
0
10I
39
24
0
15
0
6
28
5
0
Kết quả khảo sát cho thấy với hình thức dạy học này đã phần nào khắc
phục được tình trạng học sinh chán học môn văn, giúp các em có hứng thú
hơn, vui vẻ hơn, mạnh dạn, chủ động trong học tập hơn. Điều quan trọng là
kết quả học tập của các em đã được nâng cao lên rõ rệt. Và niềm vui lớn nhất
của tôi chính là cứ mỗi tiết dạy khi cô giáo bước vào lớp các em lại vỗ tay đầy
hứng khởi chuẩn bị một tâm thể cho tiết học thật sự thoải mái, gần gũi thân
thiết giữa cô và trò. Chính điều này cũng đem lại cho bản thân tôi rất nhiều
động lực và có những lúc thấy cảm xúc của mình được thăng hoa. Tôi tin
tưởng vào thành công của đề tài và chắc chắn kết quả học tập của các em học
sinh năm học sau sẽ còn cao hơn rất nhiều.
18
III.KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
1.1. Những bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình giảng dạy và thử nghiệm một số biện pháp xây dựng giờ
học mở trong dạy học Ngữ văn, tôi đã rút ra được những kinh nghiệm quý
báu:
1. Việc sử dụng một số biện pháp trong dạy học Ngữ văn phải thực sự linh
hoạt, giáo viên không nên áp đặt, gò bó. Một số biện pháp nêu ra chúng ta có
thể áp dụng trong quỹ thời gian ngắn như khởi động tiết học, giới thiệu nội
dung bài mới hoặc để củng cố bài học. Tùy thuộc vào đặc trưng của mỗi bài
dạy cụ thể mà chúng ta áp dụng phương pháp cho phù hợp để thay đổi trạng
thái học tập của học sinh, giúp các em có một tâm trạng thoải mái, tạo không
khí lớp học vui vẻ, thân thiện giữa thầy và trò.
2. Giáo viên phải chuẩn bị cho tiết dạy của mình một cách rất chu đáo từ thiết
kế giáo án, các bước lên lớp, đến tâm trạng, cảm xúc. Dạy văn là phải truyền
giảng bằng tâm hồn cho nên giáo viên phải rất cẩn thận để tránh sự khô khan,
cứng nhắc gây sự mệt mỏi, căng thẳng trong giờ học.
3. Các biện pháp xây dựng giờ học mở này cần phải được áp dụng linh hoạt ở
các khối, lớp, đối tượng học sinh khác nhau. Đồng thời trong quá trình giảng
dạy, người giáo viên phải luôn luôn gần gũi, quan tâm, bằng tình yêu văn
chương của mình mà truyền lửa cho chính các em học sinh, khơi dậy trong
cấc em niềm đam mê, yêu thích văn chương.
1. 2. Khả năng ứng dụng, triển khai của đề tài:
Kết quả thực nghiệm cho phép khẳng định việc sử dụng một số biện
pháp xây dựng giờ học mở trong dạy học Ngữ văn đã giúp các em học sinh
chủ động tham gia vào quá trình học tập, làm cho học sinh hứng thú với môn
học, thấy yêu môn học và thích thú, vui vẻ mỗi khi đến giờ văn, kéo gần hơn
khoảng cách giữa thầy và trò với một không khí thật sự thoải mải. Cùng với
kết quả học tập của các em dần được nâng cao đã chứng minh được tính đúng
đắn của những giải pháp mà đềv tài đã đưa ra.
Việc vận dụng những biện pháp xây dựng giờ học mở trong dạy họp
Ngữ văn đã được tôi áp dụng vào những bài dạy cụ thể đã đem lại hiệu quả
19
cáo trong giờ dạy. Một số đồng nghiệp của tôi đi dự giờ cũng rất ủng hộ và
tâm đắc với phương pháp này. Bài nghiên cứu của tôi cũng đã nhận được
nhiều ý kiến đóng góp quý báu từ các anh chị em trong tổ Ngữ văn.
2. Kiến nghị:
Nhà trường cần trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho dạy
học như đầu tư cho mỗi phòng học một máy chiếu. Có chính sách động viên
cho giáo viên thiết kế các phương tiện dạy học mới để phục vụ tốt cho việc
giảng dạy.
Tôi hy vọng kết quả nghiên cứu này sẽ được nhiều bạn đọc vận dụng
vào trong thực tiễn dạy học và tiếp tục góp ý.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Nga Sơn, ngày 22 tháng 5 năm 2017
Tôi xin cam đam đây là skkn của bản thân,
không sao chép, copy của bất kỳ ai.
Người thực hiện
Trần Thị Thái
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phương pháp dạy học – GS. Phan Trọng Luận –NXB Giáo dục. 2000
1. Áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học – GS Trần Bá Hoành, TS
Nguyễn Trọng Hoàn- Đại học sư phạm hà Nội. 2005.
3. Bộ giáo dục và đào tạo, Hà nội tháng 12 năm 2010, Tài liệu bồi dưỡng cán
bộ quản lý và giáo viên về biên soạn đề kiểm tra, xây dựng thư viện câu hỏi
và bài tập.
4. Lê Minh Châu, Nguyễn Thúy Hồng, Trần Thị Tố oanh, 2010, Giáo dục kĩ
năng sống trong môn Ngữ văn ở trường Trung học phổ thông, NXB Giáo dục
Việt Nam.
5. Tạp chí dạy học ngày nay –Nhiều tác giả- NXB Giáo dục. 2006.
6. Bộ sách giáo kho chương trình Ngữ văn 10, 11 – NXB Giáo dục. 2007.
DANH MỤC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI C TRỞ LÊN
Stt
1
Tên đề tài
Sử dụng Bản đồ tư duy – một biện
pháp hiệu quả trong dạy học Ngữ văn
ở trường THPT.
Xếp loại
Năm
C
2011 -2012
21