Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số kinh nghiệm khi dạy bài thơ đây thôn vĩ dạ của hàn mặc tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.53 KB, 21 trang )

MỤC LỤC:
Phần
PHẦN I.
MỞ ĐẦU
PHẦN II.
NỘI DUNG
SÁNG KIẾN
KINH
NGHIỆM

PHẦN III.
KẾT LUẬN,
KIẾN NGHỊ:

Tên đề mục
1. Lí do chọn đề tài.
2. Mục đích nghiên cứu.
3. Đối tượng nghiên cứu.
4. Phương pháp nghiên cứu.
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
3.Các giải pháp, biện pháp đã sử dụng để giải quyết
vấn đề.
3.1.Chuẩn bị kiến thức:
3.2. Sử dụng công nghệ thông tin:
3.3. Kết hợp các phương pháp và kĩ thuật dạy học:
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục:
1. Kết luận.
2. Kiến nghị.


3.Lời cảm ơn.
Tài liệu tham khảo

Trang
2
3
3
3
4
4
5
5
6
9
19
20
20
21
21

1


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Thơ là một thể loại văn học nảy sinh rất sớm trong đời sống con người. Thơ tác
động đến người đọc vừa bằng nhận thức cuộc sống, vừa bằng khả năng gợi cảm sâu
sắc. Thơ gắn với chiều sâu tâm hồn, với thế giới nội tâm sâu kín của con người nên
không dễ khơi nguồn, nắm bắt(3; tr 166).
Hàn Mặc Tử - một trong ba đỉnh cao của Phong trào Thơ Mới là một hồn thơ kì

dị và bí ẩn. Theo nhà nghiên cứu Chu Văn Sơn: “Thơ Hàn Mặc Tử như một thứ kí
tự lạ lùng mà mỗi cách đọc, cách giải được đưa ra chỉ xem như một giả thuyết
không ít vu vơ”. Cho nên, ngay cả Chế Lan Viên- bạn thơ thân cận của Hàn- người
muốn đến sớm nhất để chinh phục trái núi bướng bỉnh nhất của phong trào Thơ mới
đã quả quyết rằng: “Tôi xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau những cái tầm
thường mực thước kia sẽ biến tan đi, và còn lại ở cái thời kì này chút gì đáng kể đó
là Hàn Mặc Tử”(8; tr 209).
“Đây thôn Vĩ Dạ” còn là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ “lạ” của Hàn
trong phong trào Thơ mới. Sáng tác thơ khi còn nhỏ tuổi, nhưng đến tập Thơ
điên (1938), Hàn Mặc Tử mới thực sự khẳng định vị thế, Cõi – Thơ – Riêng của
mình. Tất nhiên thơ Hàn, cũng như nhiều nhà thơ trong phong trào Thơ mới chịu
ảnh hưởng của thơ tượng trưng Pháp. Sự ảnh hưởng này cùng với hoàn cảnh riêng
làm nên diện mạo bí ẩn của thơ Hàn: trong trẻo, tinh khiết và rùng rợn, ma quái,
thực và mộng, … đan xen, biến hóa lẫn nhau bởi mạch thơ “cóc nhảy”. Và cũng
bởi quá hay nên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đã từng có nhiều bài viết trình bày nhiều
cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau gây nhiều tranh luận. Nếu người ta tốn rất nhiều
giấy mực để viết về Hàn Mặc Tử thì trong đó một phần không nhỏ đã viết cho bài
thơ này. Với điều kiện hiện nay, giáo viên, học sinh có thể tiếp cận nhiều nguồn học
liệu khác nhau và đôi khi các em có những cách hiểu khác nhau. Vậy người thầy
làm thế nào để xử lý và xử lý như thế nào để thỏa đáng cho các em? Trong khi đó,
thời lượng trên lớp dành cho bài học lại có hạn (1 tiết theo PPCT trước đây, hiện
nay các trường có sự điều tiết phù hợp: 2 tiết).
Có nhiều tài liệu viết về Hàn Mặc Tử như: Tinh hoa Thơ mới thẩm bình và suy
ngẫm- Lê Bá Hán (chủ biên), Ba đỉnh cao Thơ mới- Chu Văn Sơn, Thi nhân Việt
Nam- Hoài Thanh, Hoài Chân, Hàn Mặc Tử- thơ và đời- Lữ Huy Nguyên( Sưu tầm,
tuyển chọn) nhưng là sự nghiên cứu chung về tác giả, có một phần nhỏ đề cập đến
bài thơ. Có một số bài viết đề cập đến cách tiếp cận về bài thơ như: Đây thôn Vĩ
Dạ- mặc cảm chia lìa (Hoàng Huệ Anh), Vận dụng phương pháp dạy học theo định
hướng phát huy năng lực của học sinh trong bài dạy Đây thôn Vĩ Dạ (Thu Trang,
trường THPT Tạ Uyên, Yên Mô, Ninh Bình sưu tầm), Một số kinh nghiệm giảng

dạy bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (Sưu tầm trên internet) nhưng chỉ
2


mới nêu một số cách thức khi giảng dạy bài thơ này. Còn sự cụ thể hóa, đưa ra một
con đường đơn giản với giáo viên khi đứng lớp trong thời gian 2 tiết thì chưa có.
Tôi nghĩ đây là một vấn đề đã cũ. Nhưng vẫn đặt ra những lúng túng, bất cập
của người giáo viên khi đứng lớp nên trong quá trình dạy học, tôi đã cố gắng tìm
tòi và áp dụng một số kinh nghiệm để cô trò cùng tìm hiểu, cảm nhận linh hồn của
bài thơ sao cho phù hợp nhất.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Tổng hợp lại những kinh nghiệm cá nhân để tiếp tục áp dụng trong thực tiễn dạy
học.
- Cùng trao đổi, đưa ra ý kiến để tìm hiểu một văn bản nghệ thuật không dễ tiếp
cận.
3. Đối tượng nghiên cứu: Bài đọc văn “Đây thôn Vĩ Dạ” trong chương trình Ngữ
văn 11 tập II cơ bản, nghiên cứu cho học sinh khối 11 các khóa mà tôi được phân
công giảng dạy từ năm 2010, đó là:
- Lớp 11C2, 11C6 năm học 2010- 2011
- Lớp 11B2, 11B7 năm học 2013- 2014
- Lớp 11A1, 11A8 năm học 2014- 2015
- Lớp 11B2, 11B7 năm học 2016- 2017
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu đề tài chủ yếu vận dụng những phương pháp nghiên cứu
của khoa học giáo dục. Bao gồm:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc, phân tích các loại tài liệu…
- Phương pháp tích hợp: Vận dụng kiến thức của các ngành như báo chí, công nghệ
thông tin; những tác phẩm của tác giả Hàn Mặc Tử hoặc tác giả khác để phục vụ
bài học.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, phỏng vấn, trao đổi…

- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Trên cơ sở kết quả thu được từ thực nghiệm
rút ra kết luận về tính khả thi của đề tài.
- Phương pháp thống kê: Tập hợp và xử lý các số liệu thu được qua thực tế, qua
thực nghiệm, qua kết quả các năm học.

3


PHẦN II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Theo nghị quyết Trung Ương II khóa VIII về phương hướng phát triển giáo dục
và đào tạo đến năm 2020 là: Đổi mới căn bản, toàn diện, mạnh mẽ sự nghiệp giáo
dục và đào tạo nước nhà. Trong đó có giải pháp: “Tiếp tục đổi mới phương pháp
dạy học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều, phát huy phương pháp dạy học
tích cực, sáng tạo, hợp tác; giảm thời gian giảng lí thuyết, tăng thời gian tự học, tự
tìm hiểu cho học sinh, giáo viên”. Đối với môn Ngữ văn nói chung và bài đọc văn
“Đây thôn Vĩ Dạ” nói riêng thì điều này thực sự có ý nghĩa vì bản chất văn chương
mang tính đa nghĩa. Hơn nữa, Hàn Mặc Tử lại là hồn thơ bí ẩn, phức tạp nhất
phong trào Thơ mới. Cho nên, việc giáo viên có những sự chuẩn bị nhất định cho
thầy- trò và tìm ra một lối đi cụ thể để khám phá “trái núi bướng bỉnh nhất”của
phong trào Thơ mới( chữ dùng của Chu Văn Sơn) (8; tr 209) cho giờ dạy là việc
làm thực tế và cần thiết trong giảng dạy ở trường THPT.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1.Về phía giáo viên:
Phần thơ lãng mạn trong chương trình Ngữ văn 11 có năm tác phẩm (tính cả đọc
thêm hai bài) là Vội vàng (Xuân Diệu), Tràng giang (Huy Cận), Đây thôn Vĩ Dạ
(Hàn Mặc Tử), Tương tư (Nguyễn Bính), Chiều xuân (Anh Thơ). Đây đều là những
tác phẩm hay, có những tác phẩm được xem là đỉnh cao thơ trữ tình Việt Nam.
Trong đó, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hay, mang tính đa nghĩa. Bài thơ vừa là
sự kết tinh của diện mạo và phong cách thơ Hàn, vừa là tiếng lòng thổn thức trong

quằn quại, đớn đau của thi nhân khi mang nỗi mặc cảm bệnh tật hướng về ngoài kia
nơi tiếng đời từng ngày, từng giờ vẫn lăn náo nức. Tất cả thể hiện một tình yêu đời
tha thiết, khao khát tình người đến cháy bỏng. Tất cả chứa đựng những giá trị nhân
văn cao đẹp! Hay như thế nên người dạy phải đi tìm con đường cho học sinh để
giải mã vì “Thơ hay như con gà ngon, ngon từ phao câu, đầu cánh, lắt lẻo khúc
xương” (Xuân Diệu). Mà cũng vì hay quá nên chỗ nào người dạy cũng tâm đắc,
chỗ nào cũng muốn khám phá, chỗ nào cũng muốn cảm nhận. Vì sợ bỏ quên những
cái hay, bỏ sót những cái đẹp. Thành thử chỉ cho học sinh nhiều đường quá thì lại
dễ bị lạc đường. Giáo viên sa vào những lời giảng bình say sưa hoặc gợi ra cho các
em nhiều cách hiểu, nhiều cách tiếp cận đôi khi không cần thiết, làm mất thời gian
mà học sinh dễ bị rối.
Và cũng bởi quá hay nên bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" đã từng có nhiều bài viết
trình bày nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau gây nhiều tranh luận. Chẳng
hạn: Có người cho rằng đây là bức tranh phong cảnh và con người xứ Huế. Có
người lại xuất phát từ mối tình giữa Hàn Mặc Tử với cô gái thôn Vĩ là Hoàng Thị
Kim Cúc để khai thác bài thơ như một tiếng lòng xót xa, tuyệt vọng trước một tình
yêu đơn phương.
4


Một khó khăn nữa đối với người dạy bài thơ này là quá trình tiếp nhận của các
em. Tuổi của các em thật khó có thể đồng cảm với một người sống trước các em
nhiều thế hệ, lại là một thi sĩ lãng mạn, tài hoa nhưng mắc phải một trong “tứ
chứng nan y” lúc đó. Khó khăn này đặt ra ở người giáo viên một trăn trở là làm sao
để tạo được ở các em một sự đồng sáng tạo văn bản thật sự?
Một điều nữa vừa là việc ứng dụng hiệu quả của công nghệ thông tin. Để cho
học sinh biết Hàn Mặc Tử đã sống như thế nào, đau đớn ra sao giáo viên có thể cho
các em xem nơi ở, nơi chữa bệnh của thi nhân. Để cho học sinh biết Vĩ Dạ đẹp như
thế nào, đáng yêu ra sao thầy có thể cho các em xem một số hình ảnh Vĩ Dạ, thậm
chí cả đoạn phim giới thiệu về thôn Vĩ,… Những phương tiện đó làm tiết học sinh

động hơn rất nhiều. Nhưng nó lại phần nào làm mất đi vẻ đẹp của bài thơ. Bởi toàn
bộ hình ảnh trong bài thơ là được vẽ lên từ hoài vọng và cảm giác. Hơn nữa, giáo
viên dễ biến tiết học thành một tiết thuyết minh về Hàn Mặc Tử và thôn Vĩ Dạ. Cho
nên, sử dụng công nghệ thông tin đòi hỏi sự linh hoạt, tinh tế của giáo viên để đảm
bảo đặc trưng của giờ dạy và tinh thần của bài học.
Cuối cùng, như mọi giờ giảng văn, bao giờ thời gian cũng là vấn đề nan giải,
nhất là gói gọn giờ học trong một tiết(PPCT của Bộ GD) đối với một thi phẩm vừa
hay vừa khó như “Đây thôn Vĩ Dạ”.
2.2 Về phía học sinh:
Do xu hướng chung, nhất là ảnh hưởng của việc lựa chọn nghề trong tương lai
mà môn Văn không được “hưởng ứng đông đảo, nhiệt tình” như trước đây. Do đó,
số lượng học sinh đầu tư với niềm say mê thực sự cho môn Văn là hạn chế. Bởi vậy
mà khi đứng trước một tác phẩm mang phong cách “lạ” như “Đây thôn Vĩ Dạ”, các
em thường có tâm lí ngại, thậm chí phó mặc, thụ động theo giáo viên.
3.Các giải pháp, biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
3.1.Chuẩn bị kiến thức:
Hiện nay, nguồn học liệu đa dạng và phong phú, đời sống văn học cũng rất sôi
nổi, nên không khó để tìm tài liệu tham khảo. Ví dụ trên báo Văn học tuổi trẻ, Kiến
thức ngày nay, Văn nghệ, Giáo dục thời đại,… hoặc báo điện tử, nhà sách,… Thế
nhưng, trong một mớ hỗn độn đó tôi định hướng, giới thiệu tài liệu để các em học
sinh biết chọn lựa để đọc. Đó là quyển Ba đỉnh cao Thơ mới (Chu Văn Sơn), và Thi
nhân Việt Nam (Hoài Thanh - Hoài Chân), Tuyển tập mười năm tạp chí văn học và
tuổi trẻ (Nhiều tác giả), Hàn Mạc Tử- thơ và đời (Lữ Huy Nguyên).
Sau đó, tôi đưa ra một số câu hỏi để các em tìm hiểu từ nguồn tài liệu:
- Nêu những yếu tố về cuộc đời có ảnh hưởng đến sự nghiệp văn chương của Hàn
Mặc Tử?
- Phong cách nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử?
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” có gì đáng lưu ý?
- Tác dụng của các câu hỏi trong bài thơ?
- Đây là bài thơ tả cảnh hay tả tình?

5


- Đây là bài thơ thể hiện tình yêu hay tình quê?
- Đặc sắc nhất về phương diện nghệ thuật mà em cảm nhận được ở bài thơ này?
Đây là khâu chuẩn bị kiến thức cần thiết, bởi lẽ có kiến thức vững vàng thì sẽ
có tâm lý tốt. Đó là một yếu tố đầu tiên cho một giờ học chủ động, hấp dẫn.
3.2. Sử dụng công nghệ thông tin:
Trong bài dạy này, tôi cũng đã tận dụng hiệu quả của công nghệ thông tin như
một phương tiện hỗ trợ trong quá trình giảng dạy. Đó là những phần ảnh, tư liệu,
nêu câu hỏi, bình giảng, khái quát, sơ đồ…
Ảnh tư liệu:

Chân dung

Theo cuốn “Lá Trúc Che Ngang” nhà thơ Hàn Mạc Tử có tên là Nguyễn Trọng Trí, gốc làng Thanh Thủy, Thừa Thiên.
Đầu thập niên 1930 ông là một công chức chập chững vào đời làm việc tại ty Đạt Điền Quy Nhơn. Năm 1932, cụ

6


tham tá Hoàng Phùng, thân sinh cô Kim Cúc cũng được đổi từ Huế vào Ty Điền Địa Quy Nhơn. Cô Kim Cúc, một
thiếu nữ xinh đẹp năm đó vừa tròn 19 tuổi đi theo thân phụ.

Chàng thanh niên Nguyễn Mạnh Trí gặp cô Kim Cúc tại một hội chợ do chính
quyền bảo hộ tổ chức hằng năm tại Quy Nhơn. Bị tiếng sét ái tình, Trí tìm cách tiếp xúc với cô, nhưng cô Kim Cúc,
vốn thuộc gia đình giáo dục khắt khe, cô luôn tìm cách tránh né.
Nhân Trí làm việc cùng sở với Hòang Tùng Ngâm, em con chú con bác với cô Kim Cúc nên đã thổ lộ tâm sự với bạn
và nhờ bạn làm cánh nhạn đưa thơ. Nể bạn Ngâm nhận thơ nhưng không chuyển, nghĩ là không thích hợp với gia
phong, và khuyên Trí nếu yêu cô Kim Cúc thì nên nhờ mai mối đi hỏi chính thức.

Có ít nhất hai lần Hàn Mạc Tử tìm cách đón gặp cô Kim Cúc trên đường phố định ý đưa thư, nhưng cô Kim Cúc né
tránh không tiếp chuyện, cũng không nhận thư. Về mai mối thì văn học không ghi lại gì rõ ràng hơn là câu chuyện mơ
hồ đầu năm 1936 Hàn Mạc Tử nhờ một người cậu đến nhà thăm ông cụ của cô Kim Cúc dọ ý, nhưng thấy không
xong ông giả vờ để quên một bức thư Hàn Mạc Tử viết cho bạn kể lể sự thầm yêu trộm nhớ Kim Cúc của mình
(LTCN – trang 62)
Chuyện dạm hỏi này là nguyên nhân của lời đồn “gia đình Kim Cúc đã từ chối lời cầu hôn của Hàn Mạc Tử với lý do
không môn đăng hộ đối” mà ông Quách Tấn đã viết trong số 73 báo Văn năm 1967 (LTCN – trang 28).
Sự thật là, cô Kim Cúc theo đúng gia phong đất thần kinh của thời đại, nghiêm cấm phụ nữ tiếp xúc với phái nam nên
cô không có một tình ý gì với Hàn Mặc Tử qua những cố gắng tiếp xúc làm quen và chuyện mai mối của người thi sĩ.
Dư luận cho rằng Hàn Mạc Tử thất tình nên năm 1932 đã bỏ Quy Nhơn vào Sài gòn lập sự nghiệp. Đầu năm 1936
Hàn Mạc Tử trở lại Quy Nhơn, và mấy tháng sau thì cô Kim Cúc theo thân sinh trở về Huế. Nổi thất vọng của Hàn
Mạc Tử trở nên chất chứa.
Năm 1937 Hàn Mạc Tử bị bệnh cùi, một chứng bệnh nan y. Ông đau khổ vì mối tình ôm ấp không được đáp lại, lại
đau đớn vì cơn bệnh hành hạ thể xác, nhưng ông dấu bố mẹ vào nằm điều trị tại trại cùi Quy Nhơn và chỉ biết thổ lộ
nổi lòng với người bạn thiết là Hoàng Tùng Ngâm. Bệnh càng nặng mối tình của Hàn Mạc Tử càng nóng bỏng và thơ
của ông càng rung động lòng người đã giúp đưa Hàn Mạc Tử vào bầu trời vinh quang của văn học Việt Nam sau khi
ông qua đời.
Thương bạn, năm 1939 Hoàng Tùng Ngâm viết thư cho chị Kim Cúc yêu cầu cô viết thư thăm hỏi Hàn Mạc Tử. Và cô
Kim Cúc đã gởi một tấm bưu thiếp (carte postale) cô mua tại tiệm ảnh Tăng Vinh in hình một thiếu nữ chèo đò trên
sông Hương với vài lời thăm hỏi, không đề ngày, không ký tên. Cảm động, Hàn Mạc Tử đáp lễ với bài thơ viết tay :
Đầu thơ Hàn Mạc Tử viết mấy lời :
Túc hạ,
Có nhận được bức ảnh Bến Vỹ Dạ lúc hừng đông, hay là một đêm trăng? Và mấy hàng chữ của túc hạ gởi thăm.
Muôn vàn cảm tạ. Túc hạ còn nhớ đến nghĩa năm xưa thì phúc hậu lắm rồi. Mong ơn trên xuống lộc cho túc hạ thật
đầy đủ. Và mong rằng một mùa xuân nào đó được gặp lại túc hạ mới phỉ tình cho.
Thăm túc hạ bình an và vui vẻ.

Phần bình giảng:
*Thơ Hàn đầy trăng:
- Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng.
- Mới lớn lên, trăng đã hẹn hò
Thơm như tình ái của ni cô.
- Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi.
- Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra.
- Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng.
7


Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ vẫn hướng về ánh sáng, đó là ánh sáng của trăng.
Mở đầu bài thơ là nắng thoắt cái đã là trăng. Nắng và trăng đều mang đến ánh sáng,
nhưng nắng là ánh sáng của cõi thực, còn trăng là ánh sáng của cõi mộng, là biến
ảo của hạnh phúc.
*Ta thấy rõ hai thế giới của thơ Hàn. Vì vậy mà đến khổ thơ cuối bài “ở đây”
ngăn cách hai thế giới, Hàn tuyệt giao với mọi người nhưng làm sao tuyệt tình cho
được. Vì thế, nhà thơ luôn thèm khát thế giới ngoài kia: “Ngoài kia xuân đã thắm
hay chưa? / Trời ở trong đây chẳng có mùa/ Không có niềm trăng và ý nhạc/ Có
nàng cung nữ nhớ thương vua” (kết cấu trong này – ngoài kia).
Phần khái quát giá trị nghệ thuật:
- Mỗi khổ thơ là một câu hỏi tu từ để bày tỏ nỗi niềm tâm trạng của nhà thơ.
- Hình ảnh thơ độc đáo, thực- ảo, biểu hiện nội tâm.
- Ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng; cực tả mà trong sáng, súc tích.
SƠ ĐỒ TƯ DUY
Đây thôn Vĩ Dạ

Khổ 1: Bức tranh
thôn Vĩ buổi mai
trong trẻo, tinh

khôi, quý phái,
trang đài

Khổ 2: Bức tranh
thôn Vĩ đêm trăng
chia lìa, huyền ảo.

Khổ 3: Hình bóng
con người và cảnh
Huế chìm trong
mộng ảo

Niềm ao ước, đắm
say được trở về
thôn Vĩ

Buồn bã, trống
trải, mặc cảm chia
lìa với niềm mong
ngóng, khắc khoải

Mơ tưởng, băn
khoăn, hoài nghi
về tình đời, tình
người

Tình yêu cuộc đời đau đớn, thiết tha của một con người ý thức rất
rõ về quỹ thời gian hạn hẹp trong cuộc đời của mình.

8



3.3. Kết hợp các phương pháp và kĩ thuật dạy học:
a. Tạo không khí văn học:
Để tạo tâm lý đồng sáng tạo cho các em, tôi rất quan trọng phần Tiểu dẫn. Cần
nhấn mạnh với các em nỗi đau về cả thể xác lẫn tinh thần của một con người trẻ
tuổi, yêu đời, phơi phới bao khát khao hòa nhập với cuộc đời. Vậy mà, mặc cảm
thân phận đã đẩy Hàn đến chỗ tuyệt giao với đời, tuyệt giao nhưng không thể tuyệt
tình, thế mới có một diện mạo thơ đầy bí ẩn, thế mới có sự kết hợp trong trẻo và
điên loạn, mộng và thực,…
Hơn nữa, tôi cũng nhấn mạnh với các em về hoàn cảnh sáng tác bài thơ. Nhiều
em, dễ lầm lẫn đây là một bài thơ tình yêu nam nữ thuần túy hoặc là một bài thơ
theo kiểu vịnh cảnh trong bức tranh. Từ chỗ đó các em đi đến những cách hiểu
nông cạn, “thật thà” nếu không muốn nói là lệch lạc về bài thơ.
b. Một trong những phương pháp mà tôi sử dụng trong bài dạy này là phương
pháp đọc diễn cảm – đọc sáng tạo. Đây là một trong những phương pháp dạy Văn
truyền thống và đặc thù, một trong những mà nếu người dạy vận dụng thành công
sẽ đem lại chất văn, chất nghệ thuật rất riêng, mê hồn người học.
Khi dạy bài “Đây thôn Vĩ Dạ” tôi rất chú ý việc cho học sinh đọc văn bản, nhận
xét giọng đọc của các em ( cả bài thơ có âm điệu nhẹ nhàng,da diết, khắc khoải;
chú ý ba câu hỏi có sự hờn trách nhẹ nhàng, có sự ngóng trông khắc khoải, có niềm
mơ tưởng, hoài nghi) . Đây là một khâu quan trọng để các em bước đầu cảm được
văn bản. Sau khi các em đã đọc, cho các em nghe một đoạn diễn ngâm bài thơ
bằng giọng Huế sẽ tạo ra một bầu không khí văn chương để các em đi vào khám
phá cái hay, cái đẹp của tác phẩm.
c. Một phương pháp nữa mà tôi áp dụng trong khi dạy bài thơ này là phương
pháp vấn đáp gợi mở. Áp dụng phương pháp này, tôi rất chú ý đến hệ thống câu hỏi
gợi tìm cho học sinh khám phá tác phẩm.
Ví dụ khi phân tích khổ thơ thứ nhất, tôi gợi ý cho học sinh các câu hỏi sau:
- Mở đầu bài thơ là một câu hỏi, em hãy cho biết: Thanh điệu câu mở đầu có gì đặc

biệt? Có thể hiểu như thế nào về câu thơ này?( Ai hỏi? Hỏi ai? Câu hỏi đó có sắc
thái biểu cảm gì?)
- Tại sao tác giả lại dùng từ “không về” mà không phải là “chưa về”?
- Câu hỏi tu từ mở ra cuộc hành trình tâm tưởng. Trong hoài niệm của thi nhân, bức
tranh thiên nhiên thôn Vĩ một buổi ban mai hiện lên với những hình ảnh nào?
Những hình ảnh ấy có gì đặc biệt?
+ Phân tích vẻ đẹp của nắng trong câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới
lên”.
+ Em hãy cắt nghĩa vẻ đẹp của các hình ảnh trong câu thơ thứ ba. (từ ai, từ
“mướt quá”, cách so sánh “xanh như ngọc”)
+ Hình ảnh con người thôn Vĩ hiện lên như thế nào trong tâm tưởng thi
nhân? Hình ảnh đó gợi cho em suy nghĩ gì?)
9


- Qua bức tranh ngoại cảnh, em có hiểu gì về cảm xúc của tác giả thể hiện qua khổ
thơ đầu?
Cùng với bầu không khí văn chương và tâm thế đồng sáng tạo mà người thầy đã
mang đến, những câu hỏi gợi mở sẽ giúp thầy khéo léo đưa các em vào thế giới
nghệ thuật của bài thơ.
d. Đặc biệt đối với bài thơ này, tôi chú ý cho các em thảo luận nhóm và kết hợp
kĩ thuật trình bày một phút.
Ví dụ: Tại sao tác giả lại dùng từ “không về” mà không phải là “chưa về”?
Hoặc: Từ cái ảo của một giấc mơ mà tác giả miêu tả cái ảo của sắc áo. Có thể
hiểu về hình ảnh tiếp theo như thế nào?
Học sinh sau khi thảo luận sẽ trình bày ý kiến của mình, các em khác sẽ đưa ra
những ý kiến khác. Giáo viên sẽ nhận xét và chỉ cho các em cái hay, cái đẹp, cái
riêng của mỗi hình tượng thơ. Khi thảo luận có thể cho các em tranh luận khi đưa
ra những ý kiến có phần trái ngược, và đôi khi chính sự tranh luận của các em lại
cho chúng ta những cách nhìn mới về hình tượng thơ.

e. Thứ nữa, theo tôi đối với bài thơ này phương pháp giảng bình cũng rất quan
trọng. Những lời bình của thầy như chất xúc tác, chất men say để các em sống cùng
tác phẩm. Đây là bài thơ hay nên có rất nhiều điểm để bình, thế nhưng ta không thể
bình tất cả các chi tiết, hình ảnh mà cần lựa chọn. Để những lời bình không là thừa
thãi, tôi chú ý đến hệ thống hình tượng nghệ thuật khi bình. Tôi sử dụng phương
pháp giảng bình ở ba hình tượng: nắng – trăng – ở đây. Theo tôi, ba hình tượng này
vừa mang đặc trưng phong cách thơ Hàn, vừa thể hiện rõ mạch thơ “cóc nhảy” mà
liên kết ngầm của bài thơ. Trong khổ thơ thứ nhất, nắng làm bừng sáng khu vườn
thôn Vĩ, bừng sáng khoảng trời hồi tưởng của nhà thơ... Câu thơ điệp lại hai
tiếng nắng: Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên khiến cho sắc nắng trời như hiển
hiện và rộng mở theo tầm cao rộng của không gian.
Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ vẫn hướng về ánh sáng, đó là ánh sáng của trăng.
Mở đầu bài thơ là nắng thoắt cái đã là trăng. Nắng và trăng đều mang đến ánh sáng,
nhưng nắng là ánh sáng của cõi thực, còn trăng là ánh sáng của cõi mộng, là biến
ảo của hạnh phúc. Tới đây, chúng ta nhận ra lối kết cấu “nhảy cóc”, đứt đoạn mạch
trong Đây thôn vĩ Dạ. Thực ra, đấy chỉ là hiện tượng bề mặt, căn nguyên sâu xa
chính là ở chỗ: thơ Hàn từ ý tưởng cho tới cấu tứ luôn mang vẻ đẹp riêng của nỗi
niềm chìm lắng, luôn ngợp lặn trong nội tâm không bình yên. Ta thấy rõ hai thế
giới của thơ Hàn.
Vì vậy mà đến khổ thơ cuối bài “ở đây” ngăn cách hai thế giới, Hàn tuyệt giao
với mọi người nhưng làm sao tuyệt tình cho được. Vì thế, thi nhân luôn thèm khát
thế giới ngoài kia: “Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa? / Trời ở trong đây chẳng có
mùa/ Không có niềm trăng và ý nhạc/ Có nàng cung nữ nhớ thương vua” (kết cấu
trong này – ngoài kia)( 9; tr5)
10


Trong lúc bình, tôi cũng chú ý nếu có điều kiện sẽ cho học sinh cùng bình với
mình. Tôi thường kể cho các em nghe câu chuyện về nhà điêu khắc vĩ đại người
Pháp Auguste Rodin (1840-1917). Rodin đã sáng tạo nên pho tượng bất hủ Le

Penseur (Người suy tư), khắc họa hình ảnh một con người mà sự suy nghĩ căng
thẳng hiện ra trên từng thớ thịt. Có người hỏi Rodin: “Làm thế nào mà ông có thể
tạc nên pho tượng tuyệt vời đến vậy?”. Rodin trả lời: “Đơn giản thôi, tôi lấy một
khối đá, và thấy cái gì thừa thì đẽo nó đi!”(9; tr5). Từ câu chuyện đó tôi sẽ đặt vấn
đề cho các em là với câu thơ này, hình tượng này em có thể bỏ đi từ ngữ nào. Và
những cách đặt vấn đề như thế buộc học sinh động não giải quyết vấn đề, đưa ra
những lời bình về cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ thơ.
Tôi nghĩ, những lời bình của thầy là chất men say để văn chương đi vào lòng
các em, nhưng để đọng lại lâu thì thầy cũng phải biết đặt vấn đề chứ không phải
bình một cách cứng nhắc, khuôn mẫu và sáo rỗng.
f. Phương pháp tích hợp theo tôi cũng rất cần thiết khi dạy bài thơ này. Ở trên,
trong câu hỏi thảo luận, tôi đã tích hợp những bài thơ khác của Hàn Mặc Tử. Ngoài
ra, khi cảm nhận hình ảnh nắng – trăng - thuyền của Hàn Mặc Tử, tôi cũng tích
hợp để làm rõ cái đã có và cái mới của hình tượng thơ (thơ Lưu Trọng Lư, thơ Hàn
Mặc Tử). Từ đó, tôi có thể chỉ cho học sinh thấy dấu hiệu của Thơ mới trong bài
thơ này.
Tôi còn tích hợp cái tâm thế sống của Hàn Mặc Tử trong câu thơ “Có chở trăng
về kịp tối nay?” và tâm thế sống của Xuân Diệu trong bài thơ “Vội vàng”, chỗ này
liên hệ với hoàn cảnh sáng tác nhà thơ sẽ làm cho các em hiểu sâu hơn bài thơ.
g. Tôi cũng chú ý đến khâu củng cố, để làm cho học sinh thấy rõ mạch thơ “cóc
nhảy” trong bài thơ này, tôi sử dụng kĩ thuật sơ đồ tư duy. Bằng sơ đồ, học sinh sẽ
nhận ra phần nổi đứt nối và phần chìm liên kết của bài thơ. Qua đó, các em thấy rõ
phong cách thơ Hàn: thơ trữ tình - hướng nội mà cái chất độc đáo là vô vàn khát
vọng thánh thiện vươn cao, vươn xa và đồng hiện với một trái tim rớm máu bởi
những mất mát, giằng xé. Thi sĩ thực sự kí thác khát vọng không chỉ trong tình
yêu mà còn mở ra khao khát lớn về nhân tình thế thái, về tình đời, tình người.
Tôi cụ thể hóa những giải pháp trên bằng bài soạn sau:
Tiết 85, 86 : ĐÂY THÔN VĨ DẠ (Hàn Mặc Tử)
A. Mục tiêu cần đạt: Giúp học sinh:
1. Về kiến thức:

- Nắm được những nét cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp thơ ca của Hàn Mặc Tử.
- Cảm nhận được những nét đặc sắc về nội dung và bài thơ: Bức tranh đẹp về
một miền quê đất nước, tiếng lòng của một con người tha thiết yêu đời, yêu người.
- Nhận biết được sự vận động của tứ thơ, hình ảnh thơ dặc sắc, biểu hiện nội
tâm, bút pháp gợi tả, ngôn ngữ tinh tế, giàu liên tưởng.
2. Về kĩ năng:
11


- Rèn luyện kĩ năng đọc- hiểu văn bản thuộc thể loại thơ trữ tình, biết vận dụng
kĩ năng đó vào một số văn bản khác.
- Rèn luyện kĩ năng cảm thụ thơ.
3. Về thái độ, tình cảm:
- Yêu mến và trân trọng tài năng thơ ca của Hàn Mặc Tử- một nhân cách vượt
lên nỗi đau của bệnh tật để không ngừng sáng tạo.
- Có ý thức vươn lên, vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.
B.Chuẩn bị của GV và HS:
- GV: Máy tính, máy chiếu, SGK,Giáo án in, giáo án powerpoint.
- HS: Về nhà chuẩn bị một số vấn đề GV gợi ý tìm hiểu qua các tài liệu, SGK, Vở
soạn.
C.Phương pháp dạy học: Vấn đáp, Gợi mở, thuyết trình, giảng giải, nêu vấn đề.
D.Tiến trình tổ chức dạy học: TIẾT 85
* Hoạt động 1: Ổn định tổ chức lớp (1 phút):
* Hoạt động 2: Dẫn vào bài (5 phút):
- Có một số danh hiệu về các nhà thơ mới: Nhà thơ mới nhất, nhà thơ lạ nhất, nhà
thơ quen nhất, nhà thơ cổ điển nhất. Vậy danh hiệu nào dành cho Hàn Mặc Tử?
(Nhà thơ lạ nhất)
- GV trình chiếu vài hình ảnh về tác giả.
- GV nói lời dẫn: Hàn Mặc Tử là một thi sĩ tài hoa của văn học Việt Nam hiện đại
nói chung và của thơ mới nói riêng. Đây cũng là một trong những nhà thơ bất hạnh

nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Tuy cuộc nhân duyên giữa thi sĩ tài hoa
này với thơ mới chỉ vẻn vẹn 9 năm nhưng cũng đủ để hồn thơ ấy thăng hoa thành
một ngôi sao sáng trên thi đàn đân tộc. Tiết học hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu một
thi phẩm đặc sắc của Hàn là “Đây thôn Vĩ Dạ”.
* Hoạt động 3: Tìm hiểu chung văn bản (39 phút).
Hoạt động của
GV và HS
GV: Nêu những nét cơ
bản nhất về cuộc đời và
sự nghiệp của Hàn Mặc
Tử?
HS: Tái hiện trả lời.
GV: Khái quát lại.

Nội dung kiến thức
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả:
a. Cuộc đời (1912- 1940)
- Tên Nguyễn Trọng Trí, trong gia đình theo đạo Thiên
chúa
- Bản thân:
+ Là một con người tài hoa, năng khiếu làm thơ bộc lộ
sớm
+ Từng học trung học ở trường Pe-lơ- ranh (Huế) hai
năm, làm công chức ở Sở Đạc điền Bình Định.
+ Chịu nhiều bất hạnh (Năm 1936- khi 24 tuổi mắc bệnh
12


phong).

b. Sự nghiệp:
- Là nhà thơ có sức sáng tạo mạnh mẽ nhất trong phong
trào Thơ mới.
- Phong cách thơ: Là nhà thơ lãng mạn với thế giới nghệ
thuật thơ kì dị, có sự đan xen của nhiều hình ảnh phức
tạp, bí ẩn. Từ đó thể hiện tình yêu tha thiết mà đau đớn
đối với cuộc đời
- Tác phẩm chính (SGK).
2. Bài thơ:
a. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác:
- Nằm trong phần “Hương thơm” của tập Thơ Điên
(Đau thương)- phần thơ mà theo Hoài Thanh là chưa
“dính máu”
- 1938, làm khi Hàn đã biết mình bị bệnh, nhận được
tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc (mối tình đầu của Hàn) gửi
cùng lời hỏi thăm sức khỏe.

GV: Em biết gì về hoàn
cảnh ra đời bài thơ?
HS: Trả lời
GV chốt lại:Dù việc tìm
hiểu bài thơ này không
thể không nhắc đến mối
tình giữa Hàn Mặc Tử và
Hoàng Thị Kim Cúc
nhưng chỉ nên xem đây
là một cứ liệu để tìm
hiểu bài thơ vì tư tưởng
bài thơ vượt ra ngoài ý
nghĩa của một chuyện

tình.
GV: Em biết gì về nhan b. Nhan đề: ban đầu có tên là “Ở đây thôn Vĩ Dạ”.
đề đầu tiên của bài thơ? Nhưng “ở” và “đây” đều chỉ địa điểm nên tỉnh lược giới
từ “ở”
GV: Xác định bố cục bài c. Bố cục: 3 khổ thơ
thơ?
- Khổ 1: Cảnh khu vườn thôn Vĩ vào buổi sáng sớm.
HS: Suy nghĩ trả lời.
- Khổ 2: Cảnh sông nước vào đêm trăng.
GV: Theo em, nên đọc - Khổ 3: Con người và xứ Huế mờ ảo.
bài thơ với âm điệu như d. Âm điệu: Nhẹ nhàng, da diết, khắc khoải.
thế nào?( Có vội vàng,
sôi nổi hay buồn bã?)
HS: Đọc văn bản với âm II. Đọc- hiểu văn bản:
điệu đã tìm hiểu.
1. Khổ 1: Cảnh khu vườn thôn Vĩ vào buổi sáng sớm.
GV: Thanh điệu câu mở - Câu mở đầu: Toàn thanh bằng tạo âm điệu nhẹ nhàng,
đầu có gì đặc biệt? Có êm ái như giọng người xứ Huế.
thể hiểu như thế nào về + Hình thức: Câu hỏi tu từ (có hai cách hiểu: Người con
câu thơ này?
gái thôn Vĩ hỏi nhà thơ, hoặc: Nhà thơ tự hỏi lòng mình)
HS: Suy nghĩ trả lời
+ Sắc thái biểu cảm: Hỏi han, mời mọc, trách cứ.

13


GV: Ý nghĩa của câu → Câu hỏi như là cái cớ, như một sự dẫn nhập tự nhiên
thơ?
để nhà thơ dẫn người đọc trở về thôn Vĩ bằng cảm xúc

hoài niệm.
GV: Tại sao tác giả lại ⇒ Niềm ao ước được trở về thôn Vĩ- nơi có cảnh cũ,
dùng từ “không về” mà người xưa nhưng ý thức rất rõ sẽ không có cơ hội.
không phải là “chưa
về”?
HS: Thảo luận nhóm
nhanh rồi trả lời.
GV: Câu hỏi tu từ mở ra - Câu 2, 3: Cảnh thôn Vĩ:
cuộc hành trình tâm + Nắng hàng cau nắng mới lên: Những hàng cau thẳng
tưởng. Trong hoài niệm tắp, cao vút, lấp lánh trong ánh mặt trời buổi sớm (Điệp
của thi nhân, bức tranh từ “nắng” gợi cảm giác ánh nắng cứ quấn riết lấy thân
thiên nhiên thôn Vĩ một cau, bừng sáng cả khoảng trời hồi tưởng của nhà thơ)
buổi ban mai hiện lên + Vườn ai mướt quá xanh như ngọc: tính từ “mướt”,
với những hình ảnh nào? “xanh” kết hợp hình ảnh so sánh “như ngọc”gợi vẻ đẹp
Những hình ảnh ấy có gì mượt mà, mỡ màng, đầy sức sống mà tao nhã, quý phái,
đặc biệt?( Gợi ý: Hình trang đài của khu vườn thôn Vĩ.
ảnh hàng cau, nắng được
miêu tả như thế nào? Tại
sao lại có 2 từ “nắng”
trong một câu thơ? Em
biết câu thơ nào của Lưu
Trọng Lư tả nắng buổi Vì: hai từ “mướt”, “xanh” cùng chỉ một gam màu để cụ
sớm?...Từ
“mướt”, thể hóa đặc điểm: vẻ đẹp mượt mà, mỡ màng, ánh
“xanh” cùng là tính từ, sương đêm trong nắng sớm của cây cối trong khu vườn
tại sao tác giả lại cùng thôn Vĩ.
lúc sử dụng?
GV bình: Từ “quá” chứa
cảm nhận về vẻ đẹp ở
mức độ tột bậc khiến tác

giả không kìm nổi lòng
mình, phải reo lên, phải → Vẻ đẹp trong trẻo, tinh khôi, đầy sức sống.
thốt lên ngạc nhiên.
GV: Hình ảnh người - Câu 4: Người thôn Vĩ:
thôn Vĩ hiện lên như thế + Mặt chữ điền: có nhiều cách hiểu: mặt người con gái
nào?
xứ Huế; mặt của một người con trai, có thể là chính tác
HS: Tái hiện trả lời.
giả, khuôn cửa sổ hình vuông hoặc khuôn mặt của người
GV: “Mặt chữ điền” là xứ Huế nói chung…
khuôn mặt như thế nào? → Dù hiểu theo cách nào thì cũng thống nhất ở cách
14


Tại sao lại là “lá trúc che hiểu đó là khuôn mặt phúc hậu, ngay thẳng; là hình ảnh
ngang”?
của con người làm cho cảnh vật, hoa lá trong vườn cây
càng thêm sinh động.
+ Lá trúc che ngang: gợi sự dịu dàng, kín đáo.
→ Nhà thơ muốn diễn tả vẻ đẹp hài hòa giữa cảnh và

người.
GV: Từ bức tranh ngoại
cảnh, em hiểu gì về cảm
xúc của thi nhân?
TIẾT 86
GV chuyển: Hàn Mặc
Tử hướng về một hình
ảnh không thể tách rời
thôn Vĩ Dạ, đó là dòng

sông Hương êm đềm,
thơ mộng nhưng ẩn chứa
bao cảm xúc, suy tư của
nhà thơ.
GV: Hình ảnh thiên
nhiên hiện lên có gì đặc
biệt? (Thông thường gió
mây gắn bó với nhau
như thế nào?)
HS: Suy nghĩ trả lời với
sự gợi dẫn của GV

GV: Em nhận xét gì về
cảnh vật hiện lên ở đây?
GV: Bức tranh thôn Vĩ
mang nét đặc trưng của
xứ Huế đẹp là thế, tại
sao khi tầm nhìn được
mở rộng sang không

⇒ Nỗi ước ao và niềm đắm say mãnh liệt được trở về

với thôn Vĩ với những kỉ niệm đẹp đã qua.
2. Khổ 2: Cảnh sông nước thôn Vĩ trong đêm trăng.(15
phút)

- Gió, mây: Vận động không theo quy luật thông thường
+ Lặp từ “gió”(2 lần), “mây”(2 lần) trong một câu thơ
khiến khoảng cách 2 sự vật vốn dĩ không thể chia lìa
mỗi lúc càng như rộng hơn.

+ Nhịp 4/3 cắt đôi câu thơ làm nổi bật sự chia lìa, đẩy
gió, mây ra đôi đường ngăn cách.
- Dòng nước: Được nhân hóa “buồn thiu’ trở nên ngưng
đọng, lặng lẽ, chất chứa nỗi niềm sâu kín.
- Hoa bắp: là loài hoa màu xám, tẻ nhạt “khẽ lay”- thiếu
sức sống.
- Sông trăng: Từ dòng sông thực mà chuyển thành dòng
ánh sáng mang vẻ huyền ảo.
→ Cảnh toát lên cảm giác chia lìa, trống vắng, không
còn thực nữa (gió theo lối gió, mây đường mây), thậm
chí là huyền ảo, mông lung (thuyền ai đậu bến sông
trăng).
Vì cảnh mang theo tâm trạng của một con người luôn
mang nỗi mặc cảm về một sự chia lìa sẽ diễn ra khi đối
diện với căn bệnh phong quái ác.
15


gian sông nước, lại mang
sự đổi thay, chia lìa?
GV: Từ nỗi đau về sự
chia lìa mà nhân vật trữ
tình đã mong ước điều
gì?
HS: Tái hiện trả lời
GV từng bước gợi cho
các em cảm nhận hình
ảnh này.
GV: Cung cấp thêm một
số câu thơ khác để HS

thấy được trăng là một
hình ảnh nghệ thuật quen
thuộc trong thơ Hàn
(trình chiếu)
GV kết hợp bình giảng:
Đến khổ thơ thứ hai, nhà
thơ vẫn hướng về ánh
sáng, đó là ánh sáng của
trăng. Mở đầu bài thơ là
nắng thoắt cái đã là
trăng. Nắng và trăng đều
mang đến ánh sáng,
nhưng nắng là ánh sáng
của cõi thực, còn trăng là
ánh sáng của cõi mộng,
là biến ảo của hạnh phúc
GV: Từ hình ảnh này, ta
cảm nhận đựơc gì về
nhân vật trữ tình?
GV:Gợi dẫn để HS liên
hệ tâm thế sống của Hàn
Mặc Tử ở đây với tâm
thế sống của Xuân Diệu
trong bài “Vội vàng”
GV chuyển: Nhận biết
thế giới thực đang trở
nên nhòe mờ, hư ảo như
tuột khỏi tầm tay, nhà

- Thuyền chở trăng về kịp tối nay:

+Thuyền: Phương tiện duy nhất có thể giúp nhà thơ
vượt lên nỗi cô đơn, chia lìa.
+ Trăng: Biểu tượng của thế giới hạnh phúc, người bạn
tâm giao, chia sẻ mọi nỗi niềm với nhà thơ.
+ Kịp: Khẳng định cơ hội duy nhất diễn ra ngắn ngủi,
chóng vánh.
+ Tối nay: Thời gian hiện tại, ít ỏi, rất cụ thể với nhân
vật trữ tình.

→ Một con người đang mong ngóng, chờ đợi mà khắc

khoải, cuống quýt vì ý thức rất rõ về sự ngắn ngủi của
thời gian: Nếu không “kịp” thì không còn cơ hội có
thêm một tối nào khác vì biết đâu tối mai, vầng trăng sẽ
vụt tắt và một cuộc chia lìa vĩnh viễn sẽ diễn ra.

16


thơ hướng hẳn vào cõi
mộng để gửi gắm niềm
mơ tưởng.
GV: Thi nhân dành mối
quan tâm đặc biệt cho
đối tượng nào trong giấc
mơ? Đó là ai? Có gì dặc
biệt về nghệ thuật trong
câu thơ này?
HS: Tái hiện, trình bày.
GV: Kết luận.


GV: Từ cái ảo của một
giấc mơ mà tác giả miêu
tả cái ảo của sắc áo. Có
thể hiểu về hình ảnh tiếp
theo như thế nào?
HS: Suy nghĩ trả lời,
được thảo luận nhóm.
GV: Kết luận:

GV: Xứ Huế hiện lên với
đặc điểm nổi bật là gì?
HS tái hiện
GV bình:
Ta thấy rõ hai thế giới
của thơ Hàn. Vì vậy mà
đến khổ thơ cuối bài “ở
đây” ngăn cách hai thế
giới, Hàn tuyệt giao với
mọi người nhưng làm
sao tuyệt tình cho được.

3. Khổ 3: Con người và khung cảnh xứ Huế.(15 phút)
- Khách đường xa: Có nhiều cách hiểu:
+ Hàn là vị khách xa xôi trong mơ của thôn Vĩ.
+ Là con người xứ Huế trong giấc mơ của Hàn.
Dù hiểu theo cách nào thì chúng ta vẫn nhận thấy vấn đề
gợi ra ở đây là có khoảng cách ngày càng xa dần giữa
chủ thể (mơ → hướng tới) và khách thể ( xa → mất hút)
nhờ cách ngắt nhịp đặc biệ(4/3) và lặp từ “khách đường

xa”. Giống như câu thơ:
Anh đi đó, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
- Em: cụ thể hóa hình ảnh cô gái với sắc áo đặc biệt
“trắng quá”.
+ Có người hiểu: Đây là màu trắng qua sự quan sát của
một người ở lâu bóng tối (nên lóa mắt chăng?)
+ Có người hiểu: Đây là biểu tượng của cái Đẹp đã vượt
qua cảm nhận của thị giác thông thường (cái Đẹp quá
tầm tay)
→ Cách hiểu thứ 2 có lí hơn vì: Nó nằm trong hệ thống
hình ảnh từ thực sang ảo rồi đến siêu thực (giấc mơ, sắc
áo), đó là biểu tượng cho vẻ đẹp trinh nguyên, thanh
khiết hay được nhắc đến trong thơ Hàn. Nhưng điều
quan trọng hơn nữa là chuyện sắc áo cũng chỉ là cái cớ
để thi nhân nói chuyện sắc lòng.
- Ở đây sương khói: Xứ Huế nhiều sương khói khiến
khung cảnh chìm trong mờ ảo.Vậy sương khói làm mờ
bóng người hay tình người khó hiểu, xa vời khiến con
người khó nhận ra nhau?

17


Vì thế, nhà thơ luôn
thèm khát thế giới ngoài
kia: “Ngoài kia xuân đã
thắm hay chưa? /
Trời ở trong đây chẳng
có mùa/ Không có niềm

trăng và ý nhạc/ Có
nàng cung nữ nhớ
thương vua” (kết cấu
trong này – ngoài kia).
GV: Từ đó mà nhà thơ
bày tỏ điều gì?
- Hoài nghi: Ai biết tình ai có đậm đà?
+ Nhà thơ làm sao mà biết được tình cảm của người xứ
Huế có đậm đà hay không, hay cũng chỉ như làn sương
khói mù mịt rồi tan đi?
+ Người xứ Huế làm sao mà biết được tình cảm nhớ
thương tha thiết, đậm đà của nhà thơ?
→ Bên cạnh sự mơ tưởng là niềm hoài nghi của nhà thơ
về tình đời, tình người.
GV: Bài thơ được tạo III. Tổng kết:(7 phút)
nên bởi 3 khổ thơ. Mỗi 1. Nội dung:
khổ thơ miêu tả một
khung cảnh dường như
không có sự gắn bó với
nhau. Vậy bài thơ có
phải sự chắp nối rời rạc,
vụng về?Dòng chảy nào
xuyên suốt để kết nối
các khổ thơ?
HS: Suy nghĩ, trả lời.
GV trình chiếu bảng sơ
đồ tư duy và kết luận.
GV: Khái quát những 2. Nghệ thuật:
đặc sắc về nghệ thuật
HS: Tái hiện trả lời

GV: Trình chiếu vắn tắt
lại.
IV. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh:
(8 phút)
18


Câu hỏi: Đây là một bài thơ về tình yêu hay tình quê?
Trả lời:
Bài thơ vừa thể hiện tình yêu, vừa thể hiện tình quê.
Nhưng qua đó thể hiện tình yêu cuộc đời của một con
người ý thức rất rõ về quỹ thời gian hạn hẹp trong cuộc
đời của mình.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục:
Với việc sử dụng những giải pháp đã nêu ở trên, tôi nhận thấy:
- Với giáo viên: Cảm thấy nhẹ nhàng hơn trong quá trình giảng dạy đối với một
bài học tương đối khó trong chương trình; có “bạn” trong giờ dạy chứ không phải
“độc thoại” trên bục giảng. Đặc biệt là ít bị áp lực “cháy giáo án”.
- Với học sinh: Các em cảm thấy hứng thú với bài học, hiểu bài ở những phương
diện cơ bản nhất về nội dung và nghệ thuật, có sự trao đổi, tranh luận với giáo viên
để tìm ra những điểm đặc sắc trong bài thơ. Các em có thể vận dụng kiến thức để
làm một số đề ôn luyện sau khi học xong.
Đặc biệt, những học sinh có năng lực khá, giỏi về môn Văn còn có sự say mê
tìm hiểu, hỏi thêm giáo viên về những thông tin bổ sung về tác giả, về bài thơ; đạt
hiệu quả rõ rệt khi làm bài tập giáo viên giao về nhà sau bài học.
Dưới đây là khảo sát ở một số lớp về mức độ hứng thú và hiểu bài ở các lớp học
trước và sau khi tôi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này:
- Trước khi thực hiện:
Lớp
Đối tượng


Sĩ số

11C2
11C6
11B2
11B7

42
45
40
42

Lớp cơ bản
Lớp khối C
Lớp cơ bản
Lớp khối D

- Sau khi thực hiện:
Lớp
Đối tượng

Sĩ số

11A1
11A8
11C2
11C7

40

44
42
45

Lớp cơ bản
Lớp khối C
Lớp cơ bản
Lớp khối D

Không
hứng thú,
hiểu ít
13(30%)
12(26%)
13(32%)
15(34%)
Không hứng
thú, hiểu ít
6(15%)
6(14%)
5(12%)
6(13%)

Hứng thú, Hứng thú,
hiểu cơ bản hiểu sâu
22(52%)
22(54%)
20(50%)
18(42%)


7(18%)
9(20%)
7(17%)
9(21%)

Hứng thú,
hiểu cơ bản
22(55%)
25(57%)
26(62%)
26(58%)

Hứng thú,
hiểu sâu
12(30%)
13(29%)
11(26%)
13(29%)
19


PHẦN III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
Qua quá trình thực nghiệm, tôi rút ra một số kinh nghiệm quý báu trong việc tìm
hiểu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như sau:
- Các biện pháp trên có thể áp dụng linh hoạt cho những thi phẩm khác của Hàn
Mặc Tử, cho những tác phẩm Thơ mới khác trong chương trình.
- Muốn đạt được hiệu quả cho giờ đọc- hiểu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, bản thân
thầy cô cũng rất cần đọc lại, nhớ lại kiến thức về tác giả, tác phẩm; những vấn đề
liên quan như thơ tượng trưng, siêu thực, câu chuyện về Hàn Mặc Tử- Hoàng Thị

Kim Cúc, …để bài giảng sinh động, sâu sắc.
- Tuy bài thơ có phần khó hiểu so với những tác phẩm thơ trữ tình khác nhưng thầy
cô cũng không quá nặng nề, tìm ra những cách tiếp cận đơn giản để khơi gợi cảm
xúc học sinh.
- Sau cùng, tôi nghĩ ngoài những kinh nghiệm trên thì một trong những yếu tố làm
nên thành công cho giờ dạy là hãy chia sẻ và mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp.
Khi đó, ta sẽ nhận ra được nhiều cái mới và ngày càng hoàn thiện bài giảng của
mình hơn.
2. Kiến nghị:
- Các phòng học được trang bị đầy đủ hơn về máy chiếu để hỗ trợ giáo viên trong
quá trình dạy
- Có phòng đọc thư viện cho học sinh ở các trường phổ thông để các em có điều
kiện thuận lợi tham khảo tài liệu.
- Có những cuộc thi ngâm thơ, bình thơ ngắn ở lứa tuổi học trò để khuyến khích
tinh thần học văn của các em.
- Khuyến khích hình thức dã ngoại như đến Huế, thăm thôn Vĩ để các em có cơ hội
được tìm hiểu, bồi dưỡng tình yêu, niềm say mê văn học.
- Thầy cô giáo dạy Văn hãy trân trọng, yêu mến công việc cao quý của mình trước
những biến động của thị trường, để giữ gìn, phát huy niềm say mê văn học. Từ đó,
truyền lửa trong những giờ giảng Văn. Có như vậy, ta mới có những tiết học tâm
đắc. Và học sinh yêu văn, say văn, ham tìm tòi từ chính thầy cô của mình. Chẳng
hạn, tôi yêu văn và gắn bó với công việc này cũng bắt đầu từ niềm yêu mến và kính
trọng vô bờ những thầy cô giáo dạy Văn đáng kính từ cấp 2, cấp 3 đến đại học như
cô Trần Thị Loan, cô Nguyễn Thị Phương, thầy Nguyễn Anh Tuấn, thầy Nguyễn
Văn Vụ, cô Nguyễn Thúy Hòa, cô Hoàng Thị Mai, thầy Phùng Văn Tửu…

20


LỜI CẢM ƠN:

Đề tài này đã và đang trong thời gian nghiên cứu, còn nhiều hạn chế và bất cập.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý của đồng nghiệp, hội đồng khoa học và những
thông tin phản hồi từ học sinh để đề tài này hoàn thiện hơn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn, bạn bè
đồng nghiệp và học sinh ở nhều khóa học trong những năm qua đã nhiệt tình hưởng
ứng và giúp đỡ tôi thực hiện đề tài này.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Nguyễn Thị Hương
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sách giáo khoa Ngữ văn 11 tập 2( Cơ bản và nâng cao), 2007- NXB Giáo dục.
2. Sách giáo viên Ngữ văn 11 tập 2( Cơ bản và nâng cao), 2007- NXB Giáo dục.
3. Lí luận văn học- Hà Minh Đức (chủ biên), 2000 - NXB Giáo dục.
4. Thi nhân Việt Nam- Hoài Thanh, Hoài Chân), 2000- NXB Giáo dục.
5. Hàn Mặc Tử- thơ và đời- Lữ Huy Nguyên( Sưu tầm),2003- NXB Văn học.
6. Tuyển tập mười năm tạp chí văn học và tuổi trẻ, 2004- NXB GD.
7. Tinh hoa Thơ mới- Lê Bá Hán (chủ biên), 2003 - NXB Giáo dục.
8. Ba đỉnh cao Thơ mới- Chu Văn Sơn, 2006- NXB Giáo dục.
9.Một số kinh nghiệm giảng dạy bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử (Sưu
tầm trên internet).

21



×