Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một vài suy nghĩ về việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi môn ngữ văn trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.01 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nghề dạy học là một nghề cao quý. Người giáo viên khi đã chọn nghề giáo
là đã thể hiện lòng yêu nghề. Người dạy học là kỹ sư xây đắp tâm hồn và mục tiêu
quan trọng là đào tạo ra những học sinh giỏi, những mầm mống tương lai của đất
nước. Nhưng một trong những niềm sung sướng vinh dự, hạnh phúc nhất trong
cuộc đời người giáo viên là đào tạo và bồi dưỡng được những học sinh giỏi. Để có
được học sinh giỏi thì ngoài năng lực, tố chất của học sinh còn cần có công lao bồi
dưỡng của người thầy là điều không thể phủ nhận được.
Là một giáo viên văn đứng lớp giảng dạy nhiều năm và đã từng tham gia bồi
dưỡng học sinh giỏi qua một số năm học, tôi đã cảm nhận được điều đó. Mỗi môn
học trong nhà trường việc học và dạy đều có đặc thù riêng. Môn văn cũng không
ngoại lệ. Phương pháp dạy và học văn đã được nói và bàn luận rất nhiều từ trước
đến nay. Học như thế nào cho tốt? Dạy như thế nào cho thật sự có hiệu quả? Đó là
điều băn khoăn trăn trở của mỗi giáo viên dạy môn văn khi đứng lớp. Một tiết dạy
bình thường trên lớp cũng cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng mới có thể dạy tốt và mang
lại hiệu quả. Nhưng một tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi còn có yêu cầu cao hơn
rất nhiều. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng là
vinh dự cho người giáo viên khi tham gia bồi dưỡng.
Bằng tất cả mọi nỗ lực của mình trong suy nghĩ, tìm tòi, trao đổi, thảo luận
với các đồng nghiệp trong trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục
cùng với việc cọ xát thực sự trong thực tiễn trải nghiệm công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi văn ở khối 12 qua một số năm học, tôi mạnh dạn chia sẻ một số ý kiến,
suy nghĩ của mình. Bởi công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là khá quan trọng và rất
nặng trong thực tiễn giảng dạy. Mỗi giáo viên có một phương pháp, cách thức
1


riêng của mình. Bản thân tôi cũng đã lắng nghe, suy ngẫm và trao đổi với một số
thầy cô về công tác này. Nhưng đây là cái nhìn có những điểm giống và chưa giống
với ý kiến của một số đồng nghiệp khác. Và thực tế đây chính là vấn đề cũng quan


trọng nhưng chưa nhiều những sáng kiến kinh nghiệm đề cập tới. Vì vậy tôi mạnh
dạn trình bày ý kiến của mình với mong ước và hy vọng là chia sẻ cùng nhau để
góp phần trao đổi kinh nghiệm, học tập lẫn nhau. Bằng những trải nghiệm của bản
thân qua thực tiễn giảng dạy, tôi mạnh dạn đề nghị sáng kiến kinh nghiệm: Một vài
suy nghĩ về việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trong phạm vi đề tài này tôi không có tham vọng đưa ra một phương pháp
tối ưu để phát hiện và đào tạo được những học sinh giỏi văn, mà chỉ đưa ra một vài
kinh nghiệm của bản thân đã làm trong việc tìm và bồi dưỡng học sinh say mê, yêu
thích môn văn để học tốt và có thể tham gia các kì thi học sinh giỏi.
3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài quan tâm tới việc góp phần nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn Ngữ văn
trong trường THPT.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Xuất phát từ lí luận, áp dụng vào thực tiễn, từ thực tiễn rút ra bài học kinh
nghiệm, dựa vào mục tiêu giảng dạy đổi mới và thực tiễn dạy bộ môn Ngữ văn ở
Trường THPT Hậu Lộc 2, tôi đã vạch ra kế hoạch thực hiện đề tài này.
Để hoàn thành đề tài, tôi đã sử dụng phương pháp thử nghiệm, phân loại,
thống kê kết hợp với việc sưu tầm, khảo sát của bản thân trong quá trình giảng day
từ năm 2000 đến nay

2


NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận.
Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là một nhiệm vụ rất quan trọng, lớn lao,
khó khăn nhưng rất đỗi vinh dự. Học sinh giỏi thường là học sinh có tố chất đặc
biệt khác các học sinh khác về kiến thức, khả năng cảm thụ, khả năng tư duy và
nhất là khả năng viết. Như vậy tiết dạy bồi dưỡng học sinh giỏi đòi hỏi giáo viên

phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp ,thậm chí
phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt hiệu quả và
thuyết phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tin tưởng. Đó là yêu cầu
của ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường và cũng là mục tiêu của người bồi
dưỡng.Giáo viên tham gia bồi dưỡng phải có sự học tập và trao dồi rất nhiều cùng
với lòng nhiệt huyết, quyết tâm cao mới có thể đáp ứng được yêu cầu của công
việc. Bởi vì đặc thù của học sinh giỏi là có những điểm rất khác so với một học
sinh bình thường từ kiến thức, tư duy cho đến việc cảm nhận tác phẩm, kĩ năng
viết v.v...Nghĩa là yêu cầu rất cao và khó khi thực hiện nhiệm vụ này để làm sao
đạt kết quả tốt .
Có đồng nghiệp nói với tôi rằng, giỏi văn chỉ là "thiên bẩm". Là người trực
tiếp giảng dạy môn văn đã nhiều năm ở phổ thông, tôi không nghĩ như vậy. Với tôi,
người thầy dạy văn trong trường học không phải là chất xúc tác trong quá trình
biến đổi chất! Năng khiếu và tri thức văn chương nói riêng, tri thức văn hoá nói
chung được bồi đắp theo năm tháng, gắn liền với sự nhạy bén của tố chất cá nhân
đã làm nên hồn văn ở học sinh.
Với thời gian công tác giảng dạy và qua một số năm bồi dưỡng học sinh giỏi
lớp 12 tôi nhận thấy có một vài suy nghĩ về kinh nghiệm là làm sao trong vài tháng ít
ỏi mà có thể có được những thành công nhất định. Vậy nên với đề tài này tôi mạnh
3


dạn đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn góp phần trao đổi kinh nghiệm,
chia sẻ học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ. Đó cũng là nội dung, mục đích hướng tới
của sáng kiến kinh nghiệm .
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Thuận lợi
- Các yếu tố chủ quan có ảnh hưởng tích cực tới đề tài:
+ Là giáo viên đứng lớp qua nhiều những năm kinh nghiệm và nghiên cứu
giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu suy ngẫm về

chuyên môn, về tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là giờ dạy bồi dưỡng học
sinh giỏi.
+ Bản thân chịu khó tìm tòi, đọc tham khảo nhiều tài liệu, các tác phẩm văn
học, các sách nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các sách báo khác. Tiếp cận với
các đề thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi quốc gia, các đề học sinh giỏi ở các tỉnh
khác.v.v... có ghi chép, tích lũy, cập nhật thường xuyên.
+ Bản thân tích cực chịu khó trao đổi với đồng nghiệp trong và ngoài trường để
học hỏi và rút ra được những kinh nghiệm cần thiết áp dụng vào quá trình bồi dưỡng.
- Yếu tố khách quan ảnh hưởng tích cực đến vấn đề liên quan đến đề tài:
+ Ban giám hiệu, lãnh đạo nhà trường có sự quan tâm, động viên sâu sắc
đúng mức đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.2. Khó khăn
Trong nhà trường THPT, nhất là ở những trường không chuyên, việc phát
hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi như thế nào để đạt kết quả tốt, quả là một vấn đề
4


không đơn giản. Trường Hậu Lộc 2 chúng tôi, việc bồi dưõng học sinh giỏi đã có
sự quan tâm và đầu tư nhất định. Hằng năm, qua các kỳ thi học sinh giỏi tỉnh
chúng tôi đã gặt hái được những thành công đáng kể. Song đáng tiếc là số học sinh
đạt giải môn văn lại chưa nhiều. Điều này có nguyên nhân từ cả hai phía.
Trước hết là từ phía người thầy. Do phải bám sát việc thực hiện theo phân
phối chương trình, người thầykhông có điều kiện đầu tư về chiều sâu trong giờ
giảng; thời gian tập trung bồi dưỡng cho học sinh giỏi cũng không nhiều (thường
thì những em được chọn đi thi học sinh giỏi chỉ được tập trung bồi dưỡng 8 - 10
buổi); Trong số thời gian hạn hẹp đó, giáo viên bộ môn được phân công mỗi người
dạy từ 2- 3 buổi; mỗi người dạy theo cách riêng của mình.
Về phía học sinh, ngoài vấn đề năng khiếu, do phải học nhiều môn nên việc
đầu tư thời gian tự bồi dưỡng môn văn không được nhiều, quyết tâm đoạt giải của
các em lại chưa cao. Thiết nghĩ, việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi nếu

được đầu tư một cách thích đáng và và tiến hành bài bản, kết quả sẽ khả quan hơn.
Và kéo theo đó là hứng thú học văn sẽ phần nào được cải thiện. Việc phát hiện bồi
dưỡng năng khiếu văn chương, vì vậy, là việc cần phải ý thức thường xuyên, trước
hết là đối với những giáo viên trực tiếp giảng dạy. Năng khiếu văn, càng được phát
hiện và bồi dưỡng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Nhưng phát hiện và bồi
dưỡng như thế nào cho có hiệu quả là cả một vấn đề cần được trao đổi kỹ lưỡng...
- Trường ở địa bàn xa xôi, tài liệu sách báo tham khảo ở thư viện còn hạn
chế. Chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên tham khảo, nghiên cứu một cách
thoải mái, dễ dàng.
- Tinh thần học tập và sự quan tâm của học sinh chưa cao về môn văn. Học
sinh sôi nổi tham gia vào đội tuyển học sinh giỏi văn ít so với các đội tuyển khác.
Nhiều học sinh giỏi một lúc nhiều bộ môn có ý thức coi nhẹ môn văn, có học sinh
5


không được chọn vào đội tuyển các môn tự nhiên, môn Anh văn mới chịu vào đội
tuyển văn.
2.3. Số liệu thống kê
Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì kết quả bồi dưỡng học sinh
giỏi qua một số năm học như sau:
Từ 2005 - 2006 đội tuyển là 5 em nhưng không đạt một giải nào.
Từ 2008 - 2009 đội tuyển 10 em thì có 2 em đạt giải khuyến khích.
Nhưng sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào thực tiễn bồi dưỡng học
sinh giỏi từ 2010 đến nay thì kết quả thay đổi rõ rệt. Học sinh chủ động và lạc quan
khi tham gia vào đội tuyển, học tập sôi nổi có hứng thú và tin tưởng vào kết quả
khi làm bài. Chủ động tích cực trong việc học tập, nghiên cứu trong sự giúp đỡ
hướng dẫn của giáo viên bồi dưỡng. Hàng năm có từ 5 - 10 em tham gia vào đội
tuyển đều đạt kết quả rất khả quan. Số lượng học sinh giỏi tỉnh tăng lên so với
trước đây. Liên tiếp trong nhiều năm đều có 3 - 4 em đạt giải và đặc biệt có các giải
ba ở một ngôi trường chưa có bề dày và chất lượng đầu vào lớp 10 còn thấp. Đó là

một điều đáng phấn khởi và khích lệ.
3. Giải pháp trong việc phát hiện, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn
Biết rằng kiến thức, phương pháp để tiếp nhận và tìm hiểu văn học vô cùng
phong phú, khó có thể nói hết được. Mỗi giáo viên bồi dưỡng và người tìm hiểu
văn học đều có góc nhìn và cảm nhận riêng. Song trong khuôn khổ đề tài này
người viết chỉ đưa ra một số nội dung vấn đề mình tự nhận thấy và rút ra được qua
thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi.

6


3.1. Phát hiện học sinh giỏi văn
3.1.1 Thế nào là học sinh giỏi văn?
Học sinh giỏi văn trước hết phải là những học sinh có niềm say mê, yêu
thích văn chương. Sự say mê ấy phải được biểu hiện thường xuyên, liên tục và
bằng ý thức tự giác trong học tập, như soạn bài cẩn thận chu đáo, luôn chủ động
tiếp thu kiến thức trong giờ học, đặc biệt phải thể hiện rõ ý thức trách nhiệm trong
các bài làm văn theo quy định của chương trình và những bài luyện tập, thực hành
rèn luyện kỹ năng mà giáo viên hướng dẫn. Sự say mê sẽ giúp các em chịu khó tìm
tài liệu để mở mang kiến thức. Và quan trọng hơn là nó giúp học sinh phát huy
được trí tưởng tượng, sự liên tưởng để sống sâu sắc hơn với những cái mình đã
đọc, đã học và tìm hiểu qua tài liệu.
Học sinh giỏi văn là những học sinh có những tư chất bẩm sinh, như tiếp thu
nhanh, có tri nhớ bền vững, có khả năng phát hiện vấn đề và có khả năng sáng tạo
(có ý tưởng mới trong bài làm).
Học sinh giỏi văn phải có vốn tri thức phong phú và hệ thống, thuộc nhiều
thơ văn trong và ngoài chương trình qua sự tìm đọc, tích luỹ; phải có sự hiểu biết
càng nhiều càng tốt về con người và xã hội.
Học sinh giỏi văn là những học sinh có vốn từ tiếng Việt khá dồi dào, biết sử
dụng chính xác chúng trong những trường hợp khác nhau. Thường những em học

sinh giỏi văn đều có khả năng diễn đạt mượt mà, giàu cảm xúc, giàu hình ảnh, diễn
đạt hàm súc và có bản sắc riêng. Năng khiếu ở học sinh giỏi văn thường đi kèm với
các biểu hiện bên ngoài như ánh mắt sáng, cách nói lưu loát, gãy gọn bởi ngôn ngữ
diễn đạt là cái vỏ của tư duy. Một học sinh hay nói lay, nói lặp, nói dài dòng mà
lượng thông tin ít, khả năng lựa chọn ngôn ngữ trong diễn đạt hạn chế ... quyết

7


không thể là một học sinh có tư duy trong sáng và có năng khiếu học văn. Học sinh
giỏi văn thường là những học sinh nắm chắc các kỹ năng làm bài nghị luận.
3.1.2. Phát hiện học sinh giỏi văn
Từ quan niệm về học sinh giỏi nói trên, việc phát hiện và bồi dưỡng học sinh
giỏi cần được tiến hành từ đầu lớp 10. Cơ sở của việc tuyển chọn của chúng tôi là:
Thứ nhất, tìm hiểu kết quả của học sinh ở cấp THCS qua điểm tổng kết,
điểm thi tốt nghiệp, điểm thi học sinh giỏi và nếu có thể, tham khảo thêm ý kiến
giáo viên đã trực tiếp giảng dạy học sinh ở cấp học đó để nắm bắt những mặt
mạnh, mặt yếu của học sinh.
Thứ hai, chúng tôi xem bài viết đầu tiên của học sinh (đặc biệt là học sinh
lớp 10) như một dấu ấn để bắt đầu cuộc hành trình phát hiện năng khiếu của học
sinh. Công việc của người thầy trong bài đầu tiên này là kiểm tra chất giọng, chất
văn, cách nghĩ của học trò. Những học sinh đạt được cả chất văn và ý văn trong
một bài viết không phải nhiều, không phải đều. Cái tật lộ ra ở từng học trò phải
được nhận biết, nét tài hoa của từng học sinh cần phải được ghi nhận và trân trọng.
Khi chấm bài, thầy cô không chỉ chú trọng những bài chu đáo, khuôn mẫu, đầy
đủ...mà còn quan tâm đến những bài có thể có chỗ chưa sâu, nhưng có chỗ độc
đáo, sâu sắc... phải sửa kĩ, phê kĩ, thật sự nghiêm khắc khi đánh giá và có nhật kí
chấm bài. Dĩ nhiên, một bài viết không thể đánh giá được quá trình nhưng đó là sự
khởi đầu để định hướng phát hiện, bổ sung ở những bài viết tiếp theo vì việc tuyển
chọn học sinh giỏi không chỉ dừng lại ở một số bài viết mà phải theo dõi cả quá

trình học tập.
3.2. Bồi dưỡng học sinh giỏi văn
3.2.1. Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi
8


Theo phân phối chương trình môn văn, số tiết dạy chính khoá trong tuần của
giáo viên ở trường THPT không chuyên, chỉ bằng 1/2 số tiết dạy của giáo viên
trường chuyên. Thời lượng để dạy một tác phẩm cũng ít hơn rất nhiều. Vì vậy, giáo
viên không có điều kiện đi sâu, giảng kỹ tác phẩm; học sinh ít có cơ hội để được ôn
luyện bài bản như học sinh ở các trường chuyên. Đây là một thực tế hết sức bất lợi
cho cả thầy và trò trường không chuyên trong những kì thi học sinh giỏi tỉnh vì cả
học sinh trường chuyên và không chuyên đều cùng thi chung một đề (dĩ nhiên,
những học sinh trường chuyên là những học sinh đã được tuyển chọn kỹ lưỡng lúc
vào trường lại được học tập, bồi dưỡng có hệ thống sẽ có lợi thế hơn nhiều so với
các em ở trường không chuyên). Những khó khăn đó chính là bài toán nan giải đối
với những giáo viên giảng dạy ở trường không chuyên như chúng tôi. Tuy nhiên,
dù khó khăn bao nhiêu chúng tôi cũng phải tìm được một cách giải, một lối thoát
cho mình.
Sau khi đã phát hiện và thành lập được đội ngũ học sinh giỏi công việc tiếp
theo là xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch bồi dưỡng học sinh giỏi (Bao
gồm cung cấp kiến thức, hướng dẫn tự học và rèn luyện kỹ năng). Các khâu trên
càng thực hiện chu đáo bao nhiêu, kết quả càng tốt bấy nhiêu.
3.2.2. Giáo viên cung cấp cho học sinh những tên sách, danh mục sách,
lọai sách và yêu cầu học sinh tìm đọc ở thư viện và các nguồn khác.
Sau khi đã tuyển chọn, lập đội tuyển học sinh giỏi, thời gian bồi dưỡng còn
hơn 2 tháng là đến ngày thi. Nhưng nếu xác định trước những học sinh sẽ vào đội
tuyển lớp 12 từ cuối năm 11, từ khi nghỉ hè thì giáo viên sẽ hướng dẫn cho học
sinh các lọai sách, tên sách để học sinh tìm đọc hoặc cho học sinh muợn đọc một
số sách cần thiết mà giáo viên có hoặc là mượn và trao đổi cùng các đồng nghiệp.

Đối với một học sinh giỏi thì yêu cầu kiến thức phải thực sự phong phú và sâu rộng
thì các em mới chủ động, mạnh dạn và phóng túng trong làm bài. Kiến thức mỏng
9


và nghèo nàn thì không thể tránh khỏi những lúng túng trong bài viết. Các sách này
có thể là các tác phẩm văn học của các tác giả lớn mà các em đã được học chính
khóa nhưng cần phải đọc nhiều, biết rộng hơn rất nhiều so với nội dung học ở sách
giáo khoa.
Nói tóm lại không đọc hay đọc ít là một hạn chế rất lớn không tránh khỏi đối
với một học sinh giỏi. Đọc nhiều, đọc rộng sẽ phát huy được nhiều mặt tích cực
nhất là ở những học sinh có ít nhiều năng khiếu văn chương .
3.2.3. Giáo viên bồi có kế họach, phương pháp yêu cầu học sinh tự học,
tự vận động, có biện pháp kiểm tra, nắm bắt vấn đề tự học và nghiên cứu của
học sinh.
Tự ôn và nắm vững lại kiến thức đã học, đã đọc ở các lớp dưới, đặc biệt là
học sinh giỏi 12 phải nắm vững kiến thức về văn học hiện đại, trung đại ở khối 11
và kể cả khối 10. Những kiến thức lớp dưới quan trọng như thơ mới, các tác giả
như là Nam Cao, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng. Kiến thức cơ bản là cái gốc cần
thiết tối thiểu cho học sinh giỏi trước khi muốn học và nghiên cứu những kiến thức
có bề rộng và chiều sâu. Vì thời lượng bồi dưỡng rất hạn chế, giáo viên bồi dưỡng
không thể làm việc được tất cả, nên phần ôn tập lại những kiến thức căn bản đã học
những năm trước thì yêu cầu học sinh phải tự thực hiện. Điều này không khó đối
với một học sinh giỏi. Khi giáo viên yêu cầu học sinh tự ôn tập, làm việc ở nhà thì
giáo viên phải có sự kiểm tra một cách chặt chẽ, thường xuyên xem học sinh đã có
ý thức học tập tốt chưa? Đã thực hiện và nắm các yêu cầu về kiến thức mà mình
dặn dò chưa? Nếu có học sinh chưa thực hiện đầy đủ, còn có những lỗ hổng kiến
thức thì giáo viên phải đôn đốc, nhắc nhở và có biện pháp cần thiết để học sinh làm
việc và hoạt động tích cực hơn.


10


3.2.4. Yêu cầu học sinh ghi chép, tích lũy
Giáo viên cung cấp cho học sinh và yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép vào
một cuốn sổ riêng những lời nhận định, đánh giá sắc nét, độc đáo của các nhà văn,
nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học và những câu thơ, đọan thơ hay
của nhiều tác giả văn học qua các giai đọan văn học gắn với các chuyên đề mà giáo
viên bồi dưỡng.
Trong quá trình giảng dạy giáo viên yêu cầu học sinh sưu tầm ghi chép từ
trong sách vở, tài liệu những lời nhận định hay, những đánh giá độc đáo, đặc sắc
của những tác giả tên tuổi về tác phẩm văn học, về vấn đề mang tính lý luận văn
học, hay những câu thơ, đọan thơ, đọan văn hay của nhiều tác giả được góp nhặt,
sưu tầm gắn với các chuyên đề mà giáo viên bồi dưỡng. Nội dung này giáo viên có
thể yêu cầu học sinh ghi vào một cuổn tập riêng để các em đọc lại nhiều lần vàghi
nhớ. Những tư liệu này thật quý giá đối với học sinh. Đôi khi các em có những ý
tưởng, suy nghĩ nhưng chưa biết cách diễn đạt nó một cách sắc nét, khúc chiết để
tạo ấn tượng cho người đọc. Vì vậy trích dẫn những tư liệu văn học như những câu
thơ hay phù hợp với nội dung vấn đề, những lời nhận định đánh giá hợp lý, đúng
chỗ này sẽ góp phần làm cho bài viết thêm khởi sắc và giàu sức thuyết phục.
Ví dụ như khi dạy chuyên đề về lý luận văn học, cụ thể là về vai trò của văn
học đối với cuộc sống, mối quan hệ giữa văn học và cuộc sống, vai trò của người
nghệ sĩ trong sáng tác văn chương, giáo viên bồi dưỡng yêu cầu học sinh sưu tầm
và chọn lọc những lời nhận định liên quan đến vấn đề này và tìm được những lời
nhận định có ý nghĩa và giá trị nhất. Giáo viên có thể cung cấp cho học sinh một số
lời nhận định sau:
- “ Cuộc đời là điểm xuất phát và cũng là đích đến của văn học”
( Tố Hữu)
11



- “ Cuộc sống là mảnh đất màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi”
( PusKin)
- “ Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”
( Biêlinxki)
Và các tuyên ngôn nghệ thuật có ý nghĩa sâu sắc trong các tác phẩm của
Nam Cao trước cách mạng tháng tám và của các tác giả khác. Ví dụ như:
- “Nghệ thuật không thể là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa
dối. Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thóat ra từ những kiếp sống
lầm than vang dội lên mạnh mẽ”
( Trăng sáng - Nam Cao)
- “Các ông muốn tiểu thuyết cứ thật là tiểu thuyết, tôi và các nhà văn cùng
chí hướng với tôi muốn tiểu thuyết phải là sự thật ở đời”
( Vũ Trọng Phụng)
- “Văn học và đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con
người. Mỗi tác phẩm văn học chỉ là một lát cắt, một tờ biên bản của chặng đời
sống con người ta trên con đường dài dằng dặc đi tìm cõi hòan thiện”
( Nguyễn Minh Châu)
Và rất nhiều những lời nhận định hay và giá trị khác về văn học, giáo viên
giúp học sinh sưu tầm, ghi chép. Tuy nhiên không phải những lời nhận định hay ý
thơ nào học sinh cũng đều hiểu. Nếu có những nhận định ý kiến nào mà học sinh
chưa hiểu hoặc hiểu chưa đầy đủ thì giáo viên phân tích, giảng giải cho học sinh rõ
những nội dung ý nghĩa của vấn đề.
12


3.2.5. Giáo viên lựa chọn một số chuyên đề quan trọng gắn với chương
trình thi để giúp học sinh đi vào nắm bắt kiến thức của các chuyên đề đó có
chiều sâu và rộng.
Có giáo viên cho rằng bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 12 thì rất khó đoán được

nội dung của đề ra vì chương trình rất rộng. Biết đề thi sẽ ra ở phần nào mà bồi
dưỡng cho học sinh, chẳng hạn :
“ Sự gặp gỡ tuyệt đẹp của tâm hồn và khí phách Việt Nam giữa Văn tế nghĩa
sĩ Cần Giuộc ( Nguyễn Đình Chiểu) và bài thơ Tây Tiến (Quang Dũng)”.
Đề ra như vậy thì rất nhiều giáo viên và học sinh thật bất ngờ, bởi nhiều năm
liền trước đây ít khi nào thi học sinh giỏi tỉnh cũng như thi học sinh giỏi toàn quốc
bằng nội dung của văn học trung đại. Bởi vậy, xác định nội dung ôn tập cho học
sinh cũng là điều rất khó khăn của người tham gia bồi dưỡng. Điều lo ngại nhất là
sợ nội dung ôn tập bồi dưỡng cho học sinh lại không đúng với đề ra. Tuy vậy, mỗi
giáo viên bồi dưỡng đều phải có định hướng về kiến thức gắn với những chuyên đề
ôn tập cụ thể để giúp học sinh ôn tập có hiệu quả. Điều đó phụ thuộc vào suy nghĩ
của từng giáo viên. Có giáo viên chọn và xóay sâu vào chuyên đề này mà khai thác
chưa kỹ ở chuyên đề khác, hoặc cho rằng những chuyên đề kia là không quan trọng
nên không nhắc nhở học sinh chú ý.
Tuy nhiên theo tôi, dù bồi dưỡng như thế nào giáo viên cũng phải chọn ra một
số chuyên đề mà mình cho là quan trọng nhất có thể quy tụ những nội dung kiến thức
lớn và bao quát để học sinh nắm bắt. Kinh nghiệm bồi dưỡng trong những năm qua
theo tôi thấy là như vậy và đã áp dụng vào trong thực tế bồi dưỡng.
3.3. Các bước rèn luyện kỹ năng làm văn
3.3.1. Cách lựa chọn hướng ra đề
13


Theo dõi hướng ra đề thi học sinh giỏi các cấp trong những năm qua, chúng
tôi nhận thấy, đề thường có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kiến thức về lý luận văn
học và cảm thụ văn chương. Phạm vi thường xoay quanh những vấn đề cốt lõi của
chương trình như: chức năng và đặc trưng của văn học nghệ thuật, phẩm chất của
người nghệ sỹ, phong cách của nhà văn... hoặc phân tích một tác phẩm văn học đặc
sắc, trong đó không ít tác phẩm còn tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau (Chẳng hạn:
Hai đứa trẻ, Đây thôn Vĩ Dạ...), hoặc phân tích một số tác phẩm để nêu bật một vấn

đề nào đó liên quan đến phong cách của một tác gia, hay một đặc điểm quan trọng
của tiến trình lịch sử văn học dân tộc... Nhìn chung, tinh thần nhất quán của đề thi
học sinh giỏi là theo sát chương trình. Từ nhận thức đó, trong quá trình ra đề rèn
luyện kỹ năng cho học sinh, tôi thường tập trung vào một số dạng đề cơ bản sau:
Đề kiểm tra kiến thức về lý luận văn học và cảm thụ tác phẩm
Dạng đề này yêu cầu học sinh phải bao quát được những vấn đề cơ bản của
lí luận văn học và soi sáng nó vào những tác phẩm văn học cụ thể. Ví dụ:
Nhà văn Nguyễn Đình Thi viết: "tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi
cách nhìn mới, tình cảm mới, về những việc, những điều mà ai cũng biết cả rồi"
(Trích: Nhà văn nói về tác phẩm - NXBVH, 1998, Tr 260). Anh (chị) hãy bình luận
câu nói trên và phân tích sức hấp dẫn của một tác phẩm văn học mà anh (chị) cho
là lớn.
Với dạng đề này có thể kiểm tra được kiến thức của học sinh về những vấn đề lí
luận văn học cơ bản: đặc trưng văn học, đặc trưng thể loại, phong cách nghệ thuật,
bản chất của lao động nghệ thuật, giá trị và chức năng của văn học, vai trò của văn
học đối với đời sống v.v… đồng thời củng cố kiến thức cơ bản về tác phẩm văn
học, gắn lí luận văn học với việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của tác phẩm. Qua lí luận
văn học, học sinh có căn cứ khoa học để hiểu sâu hơn tác phẩm và ngược lại, qua
14


tác phẩm, học sinh hiểu và biết khái quát nâng cao thành những vấn đề lí luận văn
học cơ bản.
Đề rèn luyện kỹ năng so sánh văn học:
Đây là một trong những dạng đề khó, nhưng học sinh dễ có cơ hội để phát
huy năng khiếu và sở trường riêng của một học sinh giỏi. Nó đòi hỏi học sinh vừa
nắm được những vấn đề cụ thể, chi tiết, vừa biết khái quát tổng hợp và lý giải vấn
đề. Có thể so sánh tác phẩm cùng đề tài, cảm hứng trong một giai đoạn văn học,
của một tác giả hoặc khác giai đoạn, khác tác giả... Ví dụ:
+ Cảm nhận của anh, chị về bi kịch của hai hình tượng nhân vật Vũ Như Tô

trong trích đoạn Vĩnh biệt cửu trùng đài của Nguyễn Huy Tưởng và hình tượng Lor
ca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor ca của Thanh Thảo.
+ Có ý kiến cho rằng, "Mời trầu" và "Tự tình", hai bài thơ, hai giọng điệu khác
nhau nhưng cùng một "chất" Xuân Hương. Hãy phân tích và làm sáng tỏ ý kiến trên.
+ Vẻ đẹp hình tượng người lính qua hai bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu
và "Tây Tiến" của Quang Dũng.
+ Những tương đồng và khác biệt trong cách cảm nhận và thể hiện số phận người
nông dân nghèo qua hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) và Vợ nhặt (Kim Lân).
+ Sự gặp gỡ và sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du trong “Độc Tiểu Thanh kí”
và Thanh Thảo ở “Đàn ghi ta của Lor-ca”.
3.3.2. Rèn luyện kỹ năng phân tích đề
Xét đến cùng, việc dạy học sinh làm bài, rèn luyện kỹ năng nghị luận văn
học là một trong những khâu quan trọng, ảnh hưởng quyết định đến kết quả thi học

15


sinh giỏi. Đây là khâu yếu nhất của học sinh (kỹ năng phân tích đề, lập dàn ý, dựng
đoạn, liên kết đoạn, đưa dẫn chứng, phân tích dẫn chứng...).
Trước hết, trong thời gian bồi dưỡng, giáo viên cần cho học sinh làm quen
với nhiều dạng đề thi học sinh giỏi, đặc biệt là những dạng đề có cách diễn đạt có
thể gây ngộ nhận hoặc có thể hiểu yêu cầu đề không thấu đáo. Chẳng hạn ở đề bài
"Nét mới lạ về hình tượng người lính qua bài Tây Tiến của Quang Dũng"
Học sinh khi phân tích đề đã nhận diện bản chất của đề rất khác nhau. Một
số em cho rằng yêu cầu của đề là chỉ ra nét độc đáo (khác lạ) của hình tượng người
lính trong bài "Tây tiến" trong toàn bộ thơ ca Việt Nam viết về người lính. Chỉ có
một số ít là hiểu đúng và hiểu trúng yêu cầu đề là phải chỉ ra những nét độc đáo
nhưng phải "mới" (chứ không phải là "khác lạ") trong cách cảm nhận và lối thể
hiện hình tượng người lính của của Quang Dũng. Muốn đạt được yêu cầu đó, bài
làm phải bám sát bài thơ Tây Tiến và những bài thơ viết về người lính trong thơ ca

Việt Nam trước đó và cùng thời (chứ không lấy dẫn chứng về những bài thơ cùng
viết về người lính ở cả những giai đoạn sau) .
3.3.3. Rèn kỹ năng lập dàn ý
Bước đầu tiên trong rèn kỹ năng lập dàn ý tôi thường yêu cầu học sinh phải
lập dàn ý sơ lược theo yêu cầu:
+ Đề xuất được hệ thống luận điểm sẽ triển khai trong bài viết;
+ Xác định mối quan hệ giữa các luận điểm, tầm quan trọng của mỗi luận
điểm trong việc thể hiện các yêu cầu của bài;
+ Sắp xếp các luận điểm theo trình tự chặt chẽ, khoa học.

16


Để giúp học sinh thực hiện được yêu cầu trên, tôi thường hướng dẫn các em
đặt hệ thống câu hỏi và tự trả lời:
+ Câu hỏi tìm luận điểm: Yêu cầu trọng tâm của đề là gì ? Vấn đề cần giải
quyết có thể triển khai ở những khía cạnh, phương diện nào?
+ Câu hỏi xác định quan hệ và vai trò của luận điểm: Những khía cạnh,
phương diện ấy quan hệ với nhau như thế nào ? Phương diện nào thể hiện tập trung
và rõ nét các yêu cầu trọng tâm của đề ?
+ Câu hỏi sắp xếp luận điểm: Các khía cạnh, nội dung cần nghị luận được
trình bày như thế nào là tối ưu nhất ?
Những nội dung này học sinh được suy nghĩ trong vòng 25-30 phút, sau đó
học sinh sẽ trình bày ngắn gọn bằng hình thức nói (yêu cầu phải nói rõ căn cứ để
nhận thức đề, đề xuất luận điểm và sắp xếp ý). Cuối cùng giáo viên mới chữa hoàn
chỉnh.
Qua thực tế thấy rất rõ, các em trong đội tuyển học sinh giỏi có khả năng
nhận diện đề và lập dàn ý khá nhanh và tự tin, có ý thức rõ rệt cần phải thiết lập hệ
thống luận điểm trước khi bắt tay vào viết bài.
3.3.4. Rèn luyện kỹ năng viết văn

Đây cũng là kỹ năng quan trọng bởi nhận thức đề đúng, đề xuất luận điểm
hợp lý, có kiến thức phong phú chưa đủ. Muốn có một bài viết hay, học sinh phải
biết trình bày những hiểu biết, những rung động, suy nghĩ của mình một cách mạch
lạc, sáng sủa và có sức thuyết phục. Hơn nữa, việc đánh giá lại căn cứ vào chính
bài viết của học sinh.
Rèn kỹ năng viết văn cho học sinh, tôi thường tiến hành theo các hình thức:
17


+ Viết thành văn một đoạn ý: - Đoạn văn giải thích; - Đoạn văn chứng minh một
luận điểm trong bài (thường là luận điểm chính); - Đoạn văn bình luận nâng cao.
+ Viết thành bài văn hoàn chỉnh ở nhà trên cơ sở dàn ý đã được giáo viên
chữa (khoảng 2 bài /1 tuần).
+ Viết thành bài văn hoàn chỉnh trên lớp trong thời gian quy định (180 phút).
Yêu cầu trước hết đối với học sinh là phải diễn dạt lưu loát rõ ý; chữ viết sạch sẽ,
dễ đọc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, viết câu. Từ đó nâng dần yêu cầu học sinh
phải viết được những đoạn văn hay, có cách dùng từ chính xác, sáng tạo, mới lạ, có
giọng văn riêng, thể hiện được dấu ấn, phong cách của người viết.
Kỹ năng viết thành văn phải được tiến hành thường xuyên bằng hình thức ra
đề cho các em làm thêm ở nhà, giáo viên tranh thủ chấm và chữa kỹ cho các em.
3.3.5. Chấm và chữa bài
Ra đề làm bài văn trên lớp, kể cả bài viết ở nhà để học sinh viết theo thời
gian ấn định. Giáo viên chấm, phát hiện những ưu và nhược điểm của mỗi học
sinh. Chữa lỗi bài làm của học sinh cẩn thận, đầy đủ. Giúp học sinh thấy và phát
huy những mặt tốt và khắc phục được những điểm còn hạn chế.
Theo tôi điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi kết quả cuối cùng trong
kỳ bồi dưỡng chỉ gói gọn trong một bài thi 180 phút. Tất cả là thể hiện ở đó và kết
quả cũng ở đó. Vì vậy việc cho học sinh làm bài như vậy có ý nghĩa quan trọng rất
lớn. Tuy nhiên thời gian lên lớp giữa thầy và trò không nhiều, nên giáo viên không
thể cho học sinh làm được nhiều bài trên lớp khi bồi dưỡng vì rất mất thời gian. Để

khắc phục điều này giáo viên có thể tranh thủ sau vài buổi học có thể cho các em
một đề văn và yêu cầu các em về nhà viết và đề nghị các em tự giác độc lập làm

18


bài và tự giới hạn bài viết của mình trong một thời gian cho phép nhất định. Điều
đó sẽ rèn luyện cho các em rất nhiều về tư duy viết, tốc độ viết.
3.4. Kết quả
Về thực tiễn áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này trong nhà trường đã mang
lại một kết quả khả quan rõ rệt. Phía giáo viên tham gia bồi dưỡng có được sự chủ
động mạnh dạn, ít gặp những lúng túng và vướng mắc như trước đây khi chưa áp
dụng chuyên đề. Chuyên đề đã tiết kiệm và rút ngắn được nhiều thời gian trong
một thời lượng cho phép bồi dưỡng là quá ngắn mà vẫn đảm bảo được những kiến
thức và kỹ năng cần thiết cho các em tham gia kỳ thi học sinh giỏi. Riêng phần các
em học sinh thì có hứng thú, tích cực học tập trong những giờ lên lớp với thầy và
cũng như việc chủ động, tìm tòi học tập, làm việc theo hướng dẫn của giáo viên
với niềm lạc quan say mê. Và kết quả chứng minh cuối cùng đều tương đối tốt qua
nhiều năm học liên tiếp.
Sau khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm thì học sinh tích cực, chủ động học
tập, sôi nổi hăng hái gia nhập vào đội tuyển có nhiều hứng thú trong học tập, tin
tưởng lạc quan vào kết quả khi làm bài. Kết quả cụ thể như sau:
Năm học 2008 - 2009: 2 giải khuyến khích.
Từ 2010 đến 2013: mỗi năm cũng có từ 4 giải trở lên và cũng đạt những giải ba.
Năm học 2013 - 2014: có 3 giải trong đó có 1 giải ba và 2 giải khuyến khích.
Năm học 2015- 2016: có 3 giải trong đó 1 giải ba và 2 giải khuyến khích.
Kết quả thi vòng hai của học sinh mặc dù chưa được chọn vào đội tuyển quốc
gia nhưng đã đạt điểm khá cao. Em Lê Anh Quân lớp 12C4 thi đạt 25,5 điểm.

19



KÕt luËn vµ kiÕn nghÞ
1. KÕt luËn

Dạy học là một nghệ thuật. Người giáo viên khi đã chọn nghề dạy học là
phải có tâm yêu nghề, đặc biệt là mục tiêu hướng tới và là niềm hạnh phúc nhất
trong cuộc đời của người thầy là đào tạo bồi dưỡng được thật nhiều học trò giỏi.
Đó là tâm nguyện của tôi cũng như bao nhiêu đồng nghiệp khác. Tuy nhiên, để có
được kết quả thành công tốt đẹp thì mỗi người giáo viên luôn tìm tòi, sáng tạo, trăn
trở và nổ lực không ngừng với nhiều cách thức và phương pháp tối ưu nhất theo
mình để giảng dạy, bồi dưỡng cho các em.
Thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi giúp tôi nhận ra rằng, "thiên
bẩm" hết sức quan trọng. Song trên thực tế, không có một tài năng thiên bẩm nào
tự nó có thể đi đến thành công. Bởi thế, vai trò người thầy là hết sưc quan trọng.
Những hệ thống tri thức, con đường tiếp nhận văn chương, và cả những hứng thú,
không ai có thể làm thay được người thầy. Tâm hồn, tri thức, và những gợi mở của
người thầy sẽ được cụ thể hoá qua từng trang viết của học trò. Vì vậy, muốn có học
sinh giỏi, trước hết người thầy phải luôn có ý thức tích luỹ tri thức và kinh nghiệm
giảng dạy một cách nghiêm túc. Trong đó, sự nhảy cảm trong phát hiện năng khiếu
học sinh, phương pháp bồi dưỡng luôn là yếu tố hàng đầu để có được thành công.
Phương pháp giảng dạy thì phong phú, kiến thức văn chương thì mênh mông
rộng lớn vô cùng, nhất là kiến thức gắn với yêu cầu đề thi của học sinh giỏi. Vì
vậy trong giới hạn của đề tài này, người viết chỉ khiêm tốn đưa ra một vài suy nghĩ
về kinh nghiệm bồi dưỡng học sinh giỏi có hiệu quả. Đó là những điều mà người
viết suy tư, cọ xát và trải nghiệm qua thực tế giảng dạy, đặc biệt là những suy nghĩ
trăn trở rất nhiều trong thực tiễn công tác bồi dưỡng học sinh giỏi qua các năm học.
Hy vọng rằng những nội dung trong chuyên đề này sẽ là những thông tin để được
các đồng nghiệp trao đổi, thảo luận để mong rút tỉa được những kinh nghiệm thực
20



sự quý báu trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi - một công tác rất đỗi nặng nề
nhưng rất vinh dự của người giáo viên.
Trên đây là một số kinh nghiệm phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi của
bản thân tôi được đúc rút từ thực tế giảng dạy và bồi dưỡng học sinh giỏi suốt
trong nhiều năm qua. Có thể những điều này không còn mới mẻ với những đồng
nghiệp có bề dày kinh nghiệm, nhưng với tôi, đó là những điều tôi tâm đắc và bước
đầu đã có được những thành công. Rất mong nhận được sự đóng góp chân thành
của các đồng nghiệp để tôi có thể tiếp tục làm tốt công việc này trong những năm
học tiếp theo.
2. kiÕn nghÞ
2.1. §èi víi c¸c gi¸o viªn d¹y v¨n
Thực sự nhiệt tâm với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
2.2. §èi víi c¸c nhµ biªn so¹n s¸ch
Nªn tiÕp tôc biên soạn những tài liệu, chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi
để giáo viên và học sinh tham khảo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
21


- 18 chuyên đề văn PTTH ( Nguyễn Thị Hòa, nhà xuất bản TPHồ Chí Minh
1999)
- Các đề thi tuyển sinh đại học cao đẳng môn Ngữ văn - Bộ giáo dục.
- Những bài làm làm văn chọn học sinh giỏi quốc gia (Vũ Tiến Quỳnh)
- Tuyển tập đề thi Ôlimpich 30 - 4 môn Ngữ văn.
- Muốn viết được bài văn hay (Nguyễn Đăng Mạnh chủ biên)
- Một số thi đề thi học sinh giỏi tỉnh Thanh Hóa, một số đề thi học sinh giỏi
quốc gia, các đề thi học sinh giỏi ở các tỉnh khác được tuyển chọn.

- Một số tư liệu khác.

22



×