Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Rèn luyện kỹ năng tự học môn ngữ văn cho học sinh THPT qua hoạt động học, làm bài tập ở nhà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.55 KB, 21 trang )

RÈN LUYỆN KĨ NĂNG TỰ HỌC MÔN NGỮ VĂN CHO HỌC SINH
THPT QUA HOẠT ĐỘNG HỌC, LÀM BÀI TẬP Ở NHÀ

I. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Năm 1998, các nhà Giáo dục hàng đầu của tổ chức UNESCO, họp bàn về
việc học của thế kỉ XXI phải dựa trên bốn mục đích: “Học để biết, học để làm,
học để chung sống và học để tự khẳng định mình”. Việc học của con người phải
thường xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi. Nghĩa là con người phải học suốt đời.
Muốn vậy phải biết cách học.
Tự học là một trong những phương pháp học tập của con người. Lịch sử
cho thấy nhiều nhà khoa học, nhà văn, nhà giáo... thành công chủ yếu trên con
đường tự học. Chưa bao giờ thực trạng học tập của học sinh được xã hội quan
tâm nhiều như hiện nay và cũng chưa bao giờ sức ép học tập đối với học sinh lại
nặng nề căng thẳng như bây giờ. Trước những vấn đề đó, Đảng và Nhà nước,
ngành Giáo dục đã ban hành nhiều điều luật nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
trong các nhà trường, các cấp học, đưa ra nhiều giải pháp nhằm cải thiện tích
cực cho vấn đề giáo dục. Những chiến lược ấy đã có những chuyển biến đáng
kể trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền giáo dục nước nhà và đã mang lại
nhiều thành tựu to lớn.
Tuy nhiên chất lượng học tập của học sinh đại trà hiện nay vẫn còn nhiều
bất cập, là một bài toán mà các giáo viên cần đặc biệt quan tâm. Nhằm đáp ứng
được những đòi hỏi đó và góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập cho
học sinh hiện nay, tôi xin được viết đề tài: Rèn luyện kĩ năng tự học môn ngữ
văn cho học sinh trung học phổ thông qua hoạt động học, làm bài ở nhà. Đề tài
này tôi tự rút ra từ thực tiễn dạy học môn ngữ văn THPT trong nhiều năm qua.
Đề tài đã được áp dụng ở trường THPT Thiệu Hóa, mang lại hiệu quả đáng kể
cho học sinh trong việc nâng cao chất lượng học tập và đạt được kết quả cao

1



trong việc chiếm lĩnh tri thức và các kì thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp, tuyển
sinh vào đại học, cao đẳng hàng năm.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm mục đích rèn luyện cho học sinh trung học phổ
thông có kỹ năng trong việc tự học môn ngữ văn ở nhà. Phát huy tính chủ động,
tích, sáng tạo của học sinh trong việc chiếm lĩnh kiến thức.
Giúp các đối tượng học sinh, nhất là học sinh đại trà có phương pháp học
nhằm đạt kết quả cao trong kỳ thi THPT, xét tuyển đại học, cao đẳng.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng học sinh THPT, tập trung chủ yếu học sinh lớp 12 sắp thi
THPT, đại học, cao đẳng trong việc rèn luyện kĩ năng tự học môn văn ở nhà trên
cơ sở dựa vào bài tập.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát, thống kê thực tế trước và sau khi tác động vào việc tự học và
làm bài ở nhà của học sinh.
Thuyết minh, phân tích, so sánh ... việc tự học ở nhà của học sinh
Hình thành các giải pháp rèn kĩ năng tự học môn ngữ văn cho học sinh
trung học phổ thông qua hoạt động học, làm bài ở nhà.
1.5. Những điểm mới của SKKN
Xác định được mục đích của việc tự học, tự rèn luyện cho học sinh để
mỗi em nâng cao nâng cao ý thức tự giác, sáng tạo trong học tập.
Cung cấp phương pháp học tập cho học sinh đối với việc học bài cũ nhằm
củng cố khắc sâu kiến thức đã học, soạn bài mới để giờ học ở lớp sôi nổi hơn,
làm bài tập để rèn luyện kĩ năng vận dụng, kĩ năng hành văn, kĩ năng trình bày
văn bản. Đặc biệt, học sinh có điều kiện phát huy khả năng sáng tạo về cả nội
dung và hình thức văn bản.
Rèn luyện được cho học sinh thói quen chiếm lĩnh kiến thức, bày tỏ nhận
thức, quan điểm trước một vấn đề; thói quen đọc sách, làm thêm các bài tập ở
các sách khác; thói quen học hỏi, tranh luận về một vấn đề liên quan đến kiến

thức bộ môn, những vấn đề bức thiết của đời sống xã hội và thế giới.

2


II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lí luận
Nghị quyết Trung ương V (T.Ư ), khóa VIII nêu rõ: “Tập trung nâng cao
chất lượng dạy và học, tạo ra năng lực tự học, tự sáng tạo của học sinh, đảm
bảo mọi điều kiện và thời gian tự học cho học sinh, phát triển mạnh mẽ vai trò
tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân”.
Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua năm 2005 quy định rõ: “Phương pháp giáo dục phát huy tính tích
cực, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng
lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
GS Trần Đình Sử trong bài viết Con đường đổi mới phương pháp dạy học
văn( Văn nghệ số 10, 7-3- 2009) cũng khẳng định: “Khởi điểm của môn ngữ
văn là dạy học sinh đọc hiểu trực tiếp văn bản văn học của nhà văn... Nếu học
sinh không trực tiếp đọc các văn bản thì coi như mọi yêu cầu, mục tiêu cao đẹp
của môn văn đều chỉ là nói suông, khó đi tới, đừng nói gì tới tình yêu văn học”.
Trong mô hình dạy học, lấy học sinh làm trung tâm, GS Trần Đình Sử nhấn
mạnh: “Trong giờ học, học sinh phải tự mình đọc, tự mình phán đoán, tự mình
nêu câu hỏi”. Đây là quan điểm khoa học sư phạm đúng dắn đối với việc tiếp
cận môn ngữ văn trong nhà trường.
Chuyên đề: Dạy học tự học cho sinh viên trong các nhà trường Trung học
Chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại học viết: “Tự học là hoạt động độc lập, chiếm
lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ sử dụng các năng
lực trí tuệ ( quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp...) cùng các phẩm chất động
cơ, tình cảm để chiếm lĩnh kiến thức, một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay kinh
nghiệm lịch sử, xã hội của nhân loại biến nó thành sở hữu của chính bản thân

người học”.
G.S Trần Phương (Đại học Huế) cho rằng: “Học bao giờ và lúc nào cũng
chủ yếu là tự học, tức là biến kiến thức khoa học tích lũy từ nhiều thế hệ của
nhân loại thành kiến thức của mình. Tự cải tạo tư duy của mình và rèn luyện
cho mình kĩ năng thực hành các tri thức ấy”.

3


Từ những quan điểm của các công trình nghiên cứu sư phạm trên đây,
các tác giả đã đề cao việc tự học, đưa ra những nguyên tắc, phương pháp tự học
để khẳng định tầm quan trọng của vấn đề. Đó là những cơ sở lí luận mà tôi lựa
chọn làm cơ sở cho đề tài của mình.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Để tiến hành thực hiện đề tài này, tôi tiến hành khảo sát thực tế học, làm
bài tập ở nhà của học sinh một số lớp ở trường THPT Thiệu Hóa qua hình thức
trắc nghiệm và qua các bài tập, bài kiểm tra. Sau đây là các số liệu khảo sát một
số lớp khối 10, 11, 12 năm học 2015 -2016.
Bảng 1: Học bài cũ
Lớp

Không học bài

Học chiếu lệ

Thuộc bài

Hiểu bài

10C


0/44
( 0.0%)
10/38
(26.31%)
0/40
(0.0%)
2/41
(4.87%)
8/46
(17,4%)
21/39
(53,8%)

9/44
( 20.45%)
20/38
(52.63%)
15/40
(37.5%)
18/41
( 43.9%)
25/46
(54,3%)
14/39
(35,9%)

25/44
(56.8%)
8/38

(21.05%)
20/40
(50%)
20/41
( 48.7%)
13/46
(28,2 %)
4/39
(10,2%)

10/44
(22.7%)
0.0

10D
11C
11D
12D
12E

5/40
(12.5%)
1/41
(2.4%)
0.0
0.0

Bảng 2: Soạn bài
Lớp


Không soạn
bài

Soạn chiếu lệ

Soạn chu đáo

Soạn nâng cao

10C

2/44
(4.5%)
9/38
(23.68 %)
0/40
( 0.0%)
1/41
(2.43%)

10/44
(22.7%)
20/38
(52.63%)
15/40
(37.5%)
18/41
(43.9%)

25/44

(56.8%)
9/38
(23.68%)
22/40
(55.0%)
21/41
(51.2%)

7/44
(15.9 %)
0.0

10D
11C
11D

4

3/40
(7.5%)
1/41
(2.43%)


12D

2/46
16/46
(4,34%)
(34,8%)

12E
10/39
21/39
( 25,64%)
( 53.84%)
Bảng 3: Làm bài tập

20/46
(43,4%)
7/39
(17,94%)

8/46
(17,4%)
1/39
(2,56%)

Lớp

Làm hết

Làm hết và làm

Không làm bài

Làm chiếu lệ
(một số câu,

thêm ở sách
20/44


khác
9/44

10C

0/44

qua loa)
15/44

10D

( 0.0%)
12/38

(34.1%)
20/39

(45,5%)
6/39

(20.5%)
0.0

11C

(31.6%)
4/40


(51.3%)
11/40

(15.4%)
15/40

0

11D

( 10%)
6/41

(27.5%)
15/41

(37.5%)
20/41

0

12D

(14.6%)
5 /46

(36.5%)
10 /46

(48.7%)

28 /46

3/46

12E

(10,1%)
15/39

21,8%)
21/39

(60,1%)
3 /39

(7.0 %)
0

(38,46%)

(53.84%)

(7,7%)

( 0.0%)

Qua kết quả khảo sát, tôi thấy thực trạng học bài cũ, soạn bài, làm bài tập
đối với bộ môn ngữ văn ở các lớp học sinh của trường THPT Thiệu Hóa còn
thấp. Đặc biệt, không làm và làm chiếu lệ chiếm tỉ lệ cao. Thực trạng đó sẽ làm
cho học sinh có thói quen xấu như: căn bệnh ỉ lại, thiếu suy nghĩ, thiếu chí tiến

thủ, thiếu tự giác, thiếu tích cực trong việc chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức, phương pháp để làm bài tập. Với yêu cầu giáo dục đổi
mới, thực trạng đó chưa đáp ứng được chất lượng học tập của học sinh, mục
đích giáo dục của ngành. Để khắc phục thực trạng trên, việc đặt vấn đề rèn
luyện kĩ năng tự học và làm bài tập ở nhà trước khi đến lớp và sau bài học, tiết
học là một vấn đề có tính cấp bách đối với học sinh THPT hiện nay.
2.3. Phương pháp rèn luyện kĩ năng tự học môn ngữ văn
2.3.1. Hình thành thái độ học tập

5


Để trả lời mục đích của việc học tập, qua khảo sát ban đầu khi học sinh
chưa được định hướng toàn diện, chúng tôi thu nhận được những thông tin như
như bảng sau:
Số học sinh được khảo sát: 82 em (lớp 10C, 10D năm học 2016- 2017)
Học để có bằng Học để tiếp tục
Học để hiểu
Học để có kiến
cấp dễ xin việc
học đại học, để
biết, để cống
thức vận dụng
làm
có cuộc sống tốt
hiến cho đất
vào cuộc sống
đẹp hơn
nước
50/82

32/82
0/82
0/82
60.97%
39.02%
0.0%
0.0%
Theo thống kê đa số tuổi học sinh lấy việc học chủ yếu là để có bằng cấp,
để có việc làm và tự nuôi sống bản thân trong môi trường xã hội mới. Do vậy,
học để cống hiến, học để có kiến thức với đại đa số học sinh không phải là mục
đích chính. Từ thực tế trả lời của những học sinh được hỏi, giáo viên cần hình
thành cho các em động cơ, thái độ học tập theo đề xướng của tổ chức UNESCO:
“Học để biết, học để làm, học để chung sống và học để khẳng định mình”. Có
như vậy, học sinh mới có thái độ đúng đắn trong học tập và chủ động tích cực,
tính tự giác cao trong việc lĩnh hội kiến thức.
Sau những trao đổi với học sinh về mục đích học như trên, các em đã
thấy được một cách toàn diện của mục đích học. Những tư vấn bổ ích của giáo
viên đã giúp học sinh có những chuyển biến khá rõ về nhận thức. Cụ thể:
Số học sinh được khảo sát: 82 em (lớp 10C, 10D năm học 2016- 2017)
Học đề có bằng
Học để tiếp tục
Học để hiểu biết,
Học để có
cấp dễ xin việc học lên đại học, đề
đem hiểu biết
kiến thức vận
làm
có cuộc sống tốt
cống hiến cho đất
dụng trong

đẹp hơn
nước
cuộc sống
20/82
25/82
5/82
32/82
24.39%
30.48%
6.1%
39.02%
Rõ ràng cuộc sống và việc làm tương lai của học sinh không nhất thiết
phải vào đại học mới có sự nghiệp. Thực tế cho thấy, nhiều thanh niên lập
nghiệp, làm giàu ngay trên quê hương mình. Đặc biệt, trong thời đại hội nhập,
quốc tế hóa, toàn cầu hóa để có công ăn việc làm con người nhất thiết phải có

6


kiến thức, phải chủ động tích cực tiếp nhận và xử lí kiến thức. Lối học thụ động
thực sự đã lỗi thời không còn phù hợp với thời đại mới nữa.
2.3.2 Lựa chọn thời gian học tập
Để có thời gian học tập ở nhà thích hợp và có hiệu quả, học sinh phải biết
lập thời gian biểu. Thời gian nào làm những công việc ngoài học tập, thời gian
giải trí, thời gian nào trong ngày dành cho ôn kiến thức cũ, làm bài tập, học bài
mới cho tất cả các môn học, trong đó có môn ngữ văn.
Theo kinh nghiệm cá nhân, các em cần thực hiện thời gian biểu như sau
(không tính những buổi chiều đến trường):
Thứ


Chiều
( từ 14h đến 16.30h)

2- 6 - Làm bài tập môn đã
học
- Chuẩn bị bài học
mới
7 - Làm bài tập môn đã
học
- Chuẩn bị bài học
mới
CN Có thể nghỉ ngơi

Tối
( từ 19.30h – 22h)

Sáng
( Khoảng 30-40 phút,
thời gian cụ thể tùy
vào mùa)

- Ôn lại kiến thức bài

Ôn lại bài cũ lần cuối
- Chuẩn bị bài mới
trước khi đến lớp
Có thể nghỉ ngơi

Có thể nghỉ ngơi


- Ôn lại bài cũ
- Chuẩn bị bài mới

Ôn lại bài cũ lần cuối
trước khi đến lớp

Việc phân bố thời gian học ở nhà với việc ôn bài, học mới, làm bài luyện
tập các môn học là rất quan trọng. Khi đã có một thời gian biểu, học sinh sẽ chủ
động hơn trong việc tự học, tự luyện tập ở nhà và hiệu quả, chất lượng học tập
sẽ ngày càng được cải thiện, nâng cao. Muốn làm được điều này, như đã nói,
học sinh phải có mục đích và phương pháp học tập đúng đắn.
2.3.3. Phương pháp học bài và làm bài tập môn ngữ văn
2.3.3.1. Soạn bài mới trước khi đến lớp- soạn bài
Đọc toàn bộ bài mới: Hoạt động đọc diễn ra qua ba cấp độ cơ bản. Thứ
nhất, học sinh phải đọc khái quát, nghĩa là đọc lướt, đọc nhanh, đưa mắt bao
quát toàn bộ trang sách. Thứ hai, đọc chậm, biết dừng lại ở những đoạn, câu có

7


vấn đề (có thể dùng bút chì gạch chân). Thứ ba, đọc kĩ hơn, suy nghĩ những
câu, đoạn, ý đã gạch chân, cố gắng lí giải bằng việc tự đặt câu hỏi, bước đầu tìm
hiểu bài học mới.
Nắm nội dung của bài mới ở dạng tổng quát nhất: Mỗi một bài học, dù
phân môn nào, văn bản nào (nhật dụng hay văn bản văn học), học sinh cũng
phải bước đầu nắm nội dung tổng quát nhất. Chẳng hạn, đối với bài học đọc
hiểu văn bản An Dương Vương và Mỵ Châu- Trọng Thủy (Ngữ văn 10). Trước
hết học sinh phải xác định được đây là văn bản thuộc thể loại truyền thuyết dân
gian Việt Nam kể về sự tích Cổ loa (Đông Anh- Hà Nội ngày nay) trong mối
quan hệ cha con, vợ chồng với đất nước.

Những khó khăn khi học bài mới: Đối với văn bản tự sự, khó khăn học
sinh thường gặp là chưa biết phân chia các phần để tìm hiểu, vốn kiến thức
ngoài văn bản chưa được huy động giúp cho việc đọc hiểu văn bản có kết quả
cao hơn, chưa xác định được những sự việc chính, những chi tiết tiêu biểu chứa
đựng tư tưởng tác phẩm. Với thơ ca, yêu cầu đọc hiểu cao hơn vì có hệ thống
hình ảnh ước lệ, tượng trưng, sử dụng điển tích, điển cố (thơ ca trung đại), sử
dụng nhiều biện pháp tu từ, thể thơ, thơ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, thơ dịch
Ấn- Âu- Mĩ..., đối với học sinh THPT là một trong những khó khăn đáng kể.
Để khắc phục những khó khăn kể trên, khi đọc văn bản, chuẩn bị bài mới
trên tinh thần tự học, tự khám phá có gợi ý của sách giáo khoa phần tiểu dẫn,
hướng dẫn của thầy cô giáo. Học sinh cần biết bài mới đang đọc hiểu thuộc giai
đoạn văn học nào là để thấy được đặc điểm, khuynh hướng sáng tác, quan niệm
thẩm mĩ, phong cách, lập trường tư tưởng của nhà văn.
2.3.3.2. Học bài cũ:
Đối với bộ sách giáo khoa hiện hành, trong mỗi bài học đều có phần Kết
quả cần đạt được đặt ở trước làm mục tiêu. Việc học bài cũ của học sinh vì thế
mà thuận lợi. Học sinh phải làm phép đối chiếu với phần Kết quả cần đạt được
và phần Ghi nhớ để xác định:
Những kiến thức cần thuộc: bài thơ, đoạn thơ, câu thơ, lời nhân vật, một ý
kiến về văn học... Học sinh phải thấy được những kiến thức cần thuộc là những

8


kiến thức quan trọng, là dẫn chứng chính xác cho công việc làm bài thi, kiểm tra
trên lớp. Bên cạch những kiến thức cần thuộc còn có loại kiến thức cần nhớ
những ý chính có tính hệ thống. Chẳng hạn bài Khái quát văn học Việt Nam từ
thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX ( Ngữ văn 10), học sinh cần nhớ và phải đảm bảo tính
hệ thống: Hai thành phần văn học (văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm). Bốn
giai đoạn phát triển của văn học( thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, từ XV đến hết thế

kỉ XII, giai đoạn từ XVIII đến nửa đầu XIX). Những đặc điểm lớn về nội dung
(yêu nước, nhân đạo, thế sự). Những đặc điểm lớn về nghệ thuật (tính quy phạm
và sự phá vỡ tính quy phạm, khuynh hướng trang nhã và xu hướng bình dị) Tiếp thu và dân tộc hóa tinh hoa văn học nước ngoài. Như vậy yêu cầu của nhớ
khác với thuộc.
Những kiến thức cần hiểu: Đối với việc học bài cũ không nhất thiết thuộc
lòng mà thông qua hoạt động nhớ một cách hệ thống chọn lọc những kiến thức
cần hiểu. Chẳng hạn các đoạn sử thi trích học trong Ngữ văn 10, học sinh chỉ
cần hiểu đâu là sử thi anh hùng chiến trận, sử thi anh hùng văn hóa đối với
Chiến thắng Mtao Mxây ( trích Đăm Săn- sử thi Tây Nguyên), Uy-li-xơ trở về
(trích Ô-đi-xê – sử thi Hi Lạp, Ra-ma buộc tội( trích Ra-ma-ya-na- sử thi Ấn
Độ)
Những kiến thức cần vận dụng: Những kiến thức thuộc, nhớ đến hiểu đều
là kiến thức được vận dụng trong việc thực hành, luyện tập hàng ngày. Có hai
kiến thức vận dụng cơ bản. Vận dụng thấp là khả năng từ kiến thức nhận biết,
thông hiểu, học sinh biết vận dụng trực tiếp vào việc giải bài tập. Chẳng hạn, từ
kiến thức đọc hiểu bài thơ Mời trầu của Hồ Xuân Hương, học sinh làm bài văn
tự luận cho đề bài sau: Phân tích bài thơ Mời trầu của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Với đề bài này, học sinh vận dụng kiến thức đã học để xem xét, đánh giá nội
dung tư tưởng và những đặc sắc nghệ thuật bài thơ. Còn vận dụng cao là khả
năng tích hợp kiến thức, kĩ năng đã học để làm một bài văn nghị luận về một
tác phẩm văn học, hoặc hai tác phẩm văn học, một ý kiến nào đó. Với loại bài
tập này, học sinh phải biết huy động những kiến thức liên quan, linh hoạt trong
việc sử dụng thao tác lập luận và phương thức biểu đạt để hoàn thành bài tập.

9


Chẳng hạn, cho đề bài: Số phận người phụ nữ tài sắc trong văn học trung đại
Việt Nam. Về kiến thức, học sinh huy động các sáng tác của Nguyễn Du, của
Hồ Xuân Hương, của Nguyễn Gia Thiều... Về kĩ năng, học sinh biết so sánh,

tổng hợp, nâng cao vấn đề, đặc biệt sử dụng nhuần nhuyễn các thao tác lập luận.
2.3.3.3. Làm bài tập
Đối với bài tập dạng thông hiểu:
Hiểu đặc điểm, giá trị nội dung của các đơn vị kiến thức đã học. Phát hiện
được các hình ảnh, chi tiết nghệ thuật, đặc sắc về ngôn ngữ của mỗi tác phẩm.
Biết so sánh để nhận ra nét đặc sắc của mỗi chủ đề, bài học trong chương trình .
Để làm được theo yêu cầu trên, học sinh cần đọc kĩ văn bản, tìm hiểu nghĩa từ
ngữ, hình ảnh, câu, đoạn, văn bản. Chẳng hạn, bài tập: Viết một đoạn văn nói
lên cảm nghĩ của anh/ chị về khổ thơ mà mình cho là hay nhất trong bài Từ ấy
(SGK Ngữ văn 11, tr44, tập 2). Bài thơ có ba khổ, mỗi khổ thơ có cái hay riêng
nhưng hay nhất là khổ thơ hội tụ đầy đủ nội dung trữ tình và cách thức thể hiện.
Vậy khổ thơ nào đạt được những yêu cầu đó. Phải chăng là khổ thơ thứ nhất: Từ
ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lí chói qua tim/ Hồn tôi là một vườn
hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Khổ thơ ắp đầy hình ảnh, sử dụng
nhiều biện pháp tu từ đã làm nổi bật niềm vui sướng của nhân vật trữ tình “tôi”một thanh niên trẻ tuổi- khi được giác ngộ lí tưởng, được đứng vào hàng ngũ
của Đảng để nguyện suốt đời chiến đấu cho độc lập dân tộc, hạnh phúc nhân
dân.
Đối với loại bài tập vận dụng thấp:
Học sinh vượt qua cấp độ hiểu đơn thuần và có thể sử dụng các khái niệm
của chủ đề trong các tình huống tương tự nhưng không hoàn toàn giống như tình
huống đã gặp trên lớp.Ví dụ: Có khả năng vận dụng hiểu biết về nghĩa của câu
vào việc lĩnh hội và văn bản. Chẳng hạn như đề bài: Các nhà thơ Đường rất
trân trọng tình bạn. Anh/ chị hãy suy ngẫm về vị trí và ý nghĩa của tình bạn
trong cuộc sống hôm nay (Ngữ văn 10, tập1, trang 144). Ở đây, học sinh phải
hiểu nội dung ý nghĩa bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi
Quảng Lăng của nhà thơ Lí Bạch: Tình bạn sâu sắc, chân thành của hai nhà thơ

10



lớn đời Đường - Trung Quốc. Sự hiểu biết ấy là cơ sở giải quyết vấn đề theo yêu
cầu của bài tập.
Đối với loại bài tập vận dụng cao:
Học sinh có khả năng sử dụng các khái niệm cơ bản để giải quyết một
vấn đề mới hoặc không quen thuộc chưa từng được học hoặc trải nghiệm trước
đây, nhưng có thể giải quyết bằng các kỹ năng và kiến thức đã được dạy ở mức
độ tương đương. Các vấn đề này tương tự như các tình huống thực tế học sinh
sẽ gặp ngoài môi trường lớp học. Ví dụ: Vận dụng phương pháp đọc - hiểu một
tác phẩm thơ trữ tình hiện đại theo đặc trưng thể loại. Chẳng hạn, có đề bài sau:
Trình bày cảm nghĩ của anh/ chị về hào khí thời Trần được thể hiện trong bài
thơ Tỏ lòng (Thuật hoài - Phạm Ngũ Lão). Trước hết học sinh phải có kiến thức
về hào khí chống giặc Nguyên - Mông thời nhà Trần (Hào khí Đông A). Soi
kiến thức đó vào bài thơ để thấy hào khí thời Trần.
Làm lại bài kiểm tra trên lớp:
Dựa vào yêu cầu của việc tự học, tự rèn luyện các kĩ năng, biết khắc phục
tồn tại của bài viết đã kiểm tra trên lớp, qua nhận xét đánh giá của giáo viên,
học sinh cần tiến hành làm lại bài tập đó ở nhà. Để thực hiện việc làm lại bài
viết ở lớp, có hai cách học sinh phải phải lưu ý:
Cách thứ nhất: Học sinh về nhà làm lại bài viết ngay sau khi thực hiện ở
lớp. Đầu tiên đọc kĩ đề ra để xác định lại những yêu cầu về nội dung nghị luận,
phạm vi tư liệu sử dụng, các thao tác lập luận cần dụng. Tiếp theo, xác định luận
điểm, luận cứ cho bài viết và tiến hành sắp xếp thành dàn ý sao cho mạch lạc, lô
gic, thống nhất. Cuối cùng đọc lại toàn bộ dàn bài đề điều chỉnh nếu cần và
thực hiện viết bài văn. Cách thức hai: Sau khi giáo viên trả bài, chữa bài trên lớp
học sinh về nhà viết lại bài làm văn trên lớp dựa trên định hướng chữa bài của
thầy cô giáo và bài viết được trả nhằm khắc phục kịp thời kiến thức và kĩ năng.
Bài tập mở rộng, nâng cao, giải đề học sinh giỏi, Đại học, Cao đẳng
Bên cạnh những bài tập có trong sách giáo khoa, kiến thức kiểm tra đánh

11



giá đúng với chuẩn kiến thức kĩ năng nhưng ở mức phổ thông thì những bài tập
mở rộng, nâng cao, những đề thi học sinh giỏi, đề thi đại học - cao đẳng đòi hỏi
học sinh một năng lực cao hơn.
Đối với những bài tập mở rộng: Đây là loại bài tập học sinh thực hiện
trên cơ sở bài tập phổ thông nhưng đảm bảo các cấp độ (nhận biết- thông hiểu
vận dụng thấp và cao). Chẳng hạn đề bài: đề bài: Phân tích nhân vật viên quản
ngục trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân hay phân tích nhân vật Đan
Thiềm trong vở kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng giáo viên nâng lên
thành bài tập mở rộng nâng cao: So sánh niềm đam mê cái đẹp, biết quý trọng
người tài của nhân vật Đan Thiềm ( kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng)
và nhân vật viên quản ngục (Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân). Với bài tập
dạng này học sinh lấy việc hiểu hai nhân vật trong hai tác phẩm, để thấy được
sự giống nhau, khác nhau về niềm đam mê cái đẹp và biết quý trọng người tài.
Từ đó có những nhận xét đánh giá thỏa đáng về nhân vật cũng như quan niệm
của hai nhà văn về cái đẹp, về nghệ thuật và con người có tư chất tài hoa nghệ sĩ
giàu tính sáng tạo.
Đối với đề thi học sinh giỏi: Yêu cầu của đề thi học sinh giỏi khá phong
phú nhưng cơ bản là kiểm tra những kiến thức văn học ở mức độ sâu và toàn
diện. Học sinh phải có kiến thức về lí luận văn học, kiến thức đời sống và kiến
thức liên môn... theo hướng tích hợp. Chẳng hạn có những đề bài khám phá giá
trị chi tiết như: Hình ảnh ngọn đèn dầu trên chõng hàng nước của chị Tý trong
truyện Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam, Về chi tiết hai hào dầu trong Vợ
nhặt của nhà văn Kim Lân,... Với đề thi này, học sinh cần xác định vị trí của chi
tiết, hình ảnh trong toàn bộ tác phẩm, đặc biệt tính tư tưởng của chi tiết để đánh
giá, bình phẩm giá trị nghệ thuật của chi tiế đó. Cũng có những đề bài yêu cầu
sử dụng một tác phẩm văn học để làm rõ một ý kiến, một nhận định về văn học,
một quan điểm trong sáng tác.
Chẳng hạn đề bài: Mỗi bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo,

có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những liên tưởng phong phú.
Cảm nhận của anh chị về một bài thơ như thế. Học sinh trước hết giải thích ý

12


kiến: Bài thơ hay là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo (mới mẻ về nội dung và
đặc sắc về nghệ thuật); có khả năng làm sống dậy trong lòng người đọc những
liên tưởng phong phú, tức là gợi nhắc đến những tác phẩm văn học nghệ thuật
khác, đánh thức những rung động trong lòng bạn đọc và sau đó là chọn tác
phẩm tiêu biểu để làn rõ ý kiến. Đó là những kiến thức lí luận, những quan
điểm, đánh giá và đặc biệt là phải thực sự am tường các tác phẩm văn học, kể cả
ngoài chương trình sách giáo khoa.
Đối với đề thi đại học, cao đẳng: Bài tập phục vụ cho thi tuyển ở cấp này,
kiến thức người học nhất thiết phải rộng nhưng độ sâu, sự sắc sảo không yêu
cầu cao như đề thi học sinh giỏi. Tuy vậy để làm một đề thi đạt điểm khá trở lên
đối với học sinh không hề đơn giản. PGS.TS. Lê Quang Hưng trong một bài
phỏng vấn về Một bài văn hay cần “hội đủ” nhiều yếu tố... (Văn học và Tuổi
trẻ, số tháng 2(157) /2008: “Điều quan trọng đầu tiên với các em là lòng yêu, sự
say mê với văn chương, với môn văn(...) phải đọc tác phẩm trước theo từng thể
loại. Chẳng hạn, khi đọc một tác phẩm văn xuôi tự sự cần phải nắm được tình
huống, các sự kiện nổi bật, các bước ngoặt trên dòng cốt truyện, cần phải hiểu
được quá trình phát triển mối quan hệ giữa các nhân vật, các chi tiết nghệ thuật
đặc sắc (...). Các em cần đọc kĩ các câu hỏi hướng dẫn đọc hiểu ở từng bài, hệ
thống câu hỏi ôn tập cuối kì, cuối năm... Tất nhiên từ kiến thức đến xử lí, vận
dụng để viết được một bài văn hay còn là một chặng đường. Các em luyện viết,
luyện làm bài cho quen nghĩ, “quen tay”. Thường ít viết thì viết chậm viết khó”.
Có thể nói, đó là cách học, cách rèn luyện kĩ năng đọc hiểu, kĩ năng vận dụng,
kĩ năng xử lí kiến thức, kĩ năng hành văn hết sức cần thiết cho học sinh.
Giáo viên cần nhắc nhở học sinh ôn tập theo hình thức “cuốn chiếu” các

kiến thức cơ bản đúng chuẩn kiến thức kĩ năng và yêu cầu học sinh củng cố
kiến thức theo bảng sau:
TT

Tác phẩm

Tác
giả

Thời
gian
ra đời

Thể
loại

1
2
....

13

Nội dung

Nghệ thuật


Với cách hệ thống kiến thức như trên, học sinh không mất nhiều thời
gian, tiện lợi cho việc tra cứu ôn luyện ở nhà, nhất là những bài tập làm ở nhà.
Đến hết năm học, khóa học, học sinh có đầy đủ các tác phẩm được học (tự sự,

trữ tình, kịch, chính luận...). Đó là phương pháp tích lũy kiến thức tốt nhất.
Ngoài ra học sinh cần phải ghi chép những ý kiến, quan điểm, nhận định của
các nhà nghiên cứu, đội ngũ sáng tác và cố gắng ghi nhớ để sử dụng cho việc
ôn tập phục vụ cho kiểm tra, thi cử.
2.3.4. Một số kĩ năng cần rèn luyện
Kĩ năng tự đọc hiểu văn bản
Với tự sự, học sinh cần tìm hiểu tới đề tài, chủ đề, cốt truyện, tình huống
truyện, nhân vật truyện như nhân vật chính- phụ, chính diện - phản diện, nhân
vật tính cách, nhân vật chức năng( truyện dân gian), nhân vật số phận, nhân vật
tư tưởng,...; sự việc, chi tiết truyện, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ kể chuyện.
Qua những phương tiện trên, học sinh từng bước hiểu ý nghĩa văn bản bằng hệ
thống câu hỏi thích hợp. Chẳng hạn, khi đọc hiểu Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân
học sinh có thể tự hỏi để tự trả lời: Người đàn bà rách rưới, gầy sọp, điêu toa,
thô tục... được nhà văn xây dựng chứa đựng ẩn ý gì ? Việc nhà văn để cho Tràng
lấy vợ trong nạn đói lịch sử như thế là muốn nói điều gì?... Những câu hỏi như
thế, giúp học sinh nắm được ý nghĩa văn bản, hiểu được tư tưởng, tình cảm thái
độ nhà văn đối với xã hội và con người ngày ấy và ý nghĩa của nó đối với xã hội
hôm nay.
Với trữ tình, học sinh phải có kiến thức về các thể thơ như làm theo luật
Đường thi, thể thơ dân tộc, thơ hiện đại. Đối thơ, học sinh cần tìm hiểu về kết
cấu, niêm, đối, khám phá hình ảnh, nhịp điệu, hiệp vần thơ ngôn ngữ ước lệ, cô
đọng hàm xúc để tìm ra hàm ý sâu xa của văn bản.
Kĩ năng phân tích một vấn đề, một tình huống
Phân tích là thao tác xem xét đối tượng bằng việc chia tách chúng thành
những bộ phận, khía cạnh để xem xét, từ đó thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa
chúng. Chẳng hạn khi phân tích vẻ đẹp nhân vật trữ tình trong bài thơ Chiều tối
(Nhật kí trong tù) của Hồ Chí Minh, học sinh đọc kĩ bài thơ (so sánh đối chiếu

14



dịch thơ, phiên âm qua bản dịch nghĩa) để có cái nhìn chính xác toàn diện. Bước
thứ hai, học sinh cần ghi hoặc gạch chân những hình ảnh, những câu thơ khắc
họa người lính. Bước thứ ba, tìm ý, đề xuất luận điểm cho vấn đề nghị luận và
cuối cùng trước khi luyện viết là sắp xếp các ý lớn nhỏ thành dàn ý. Từ những ý
lớn ấy, học sinh tìm các luận cứ cho mỗi luận điểm và cuối cùng biết nâng cao
vấn đề.
Kĩ năng tổng hợp, đánh giá một vấn đề
Khi kết thúc việc sử dụng kết hợp các thao tác lập luận để xem xét một
vấn đề, học sinh cần phải tổng hợp và đánh giá vấn đề. Việc tổng hợp, đánh giá
thực chất là tóm lược và bày tỏ ý kiến, thái độ cá nhân của người đọc về vấn đề
đã được phân tích. Khi tiến hành tổng hợp, đánh giá vấn đề, học sinh phải xuất
phát từ sự phân tích. Nếu phân tích là chia tách thì tổng hợp là trả lại sự nguyên
vẹn hiện trạng ban đầu của vấn đề, của đối tượng đã được giới thuyết ở phần mở
bài.
Kĩ năng chọn và trình bày dẫn chứng
Trước hết, học sinh cần nắm được dẫn chứng là gì? Dẫn chứng là những
sự vật, sự việc, số liệu, ý kiến... rút ra từ thực tế hay sách vở để thuyết minh cho
ý kiến, nhận định, đánh giá trong nghị luận. Muốn cho luận điểm vững chắc đòi
hỏi luận cứ phải chặt chẽ, dẫn chứng phải đa dạng, chính xác, tiêu biểu.
Chọn dẫn chứng: Dẫn chứng được chọn sao cho tiêu biểu, phù hợp với
luận điểm. Có như vậy tính thuyết phục của từng luận điểm mới cao. Để có
những dẫn chứng như thế, học sinh cần đọc những bài phân tích, bình văn của
các tác giả có uy tín. Chẳng hạn, để minh họa cho nhận xét về những rung động,
xôn xao rất tinh tế trong cảnh và tình thơ Xuân Diệu, nhà phê bình văn học Hoài
Thanh, chọn mấy câu thơ sau: Những luồng run rẩy rung rinh lá( Đây mùa thu
tới), Mây biếc về đâu bay gấp gấp, Con cò trên ruộng cánh phân vân ( Thơ
duyên)... Theo tác giả đó là cảm giác chỉ Xuân Diệu mới có được.
Dẫn chứng phải đủ: Đây là yêu cầu về lượng của dẫn chứng. Một trong
những yêu cầu của lập luận là mỗi ý kiến nhận định, đánh giá đưa ra đều phải có

đủ luận cứ. Do vậy dẫn chứng đưa ra cần phải bao quát hết các khía cạnh của ý

15


kiến. Khi chọn dẫn chứng, học sinh luôn phải biết kết hợp giữa chọn đủ dẫn
chứng nhưng cũng phải tập trung vào một số dẫn chứng quan trọng trên cơ sở
vấn đề nghị luận hay luận điểm cần chứng minh.
Trình bày dẫn chứng: Tùy theo vấn đề nghị luận học sinh có thể sắp xếp
theo trình thự thời gian, trình tự không gian hay khía cạnh vấn đề. Đối với học
sinh khá giỏi, luyện kĩ năng sắp xếp dẫn chứng từ dễ đến khó và tăng dần sức
khái quát, sức thuyết phục là một yêu cầu đặt thường xuyên liên tục. Để có kĩ
năng này, ngoài “đặt bút” viết văn, học sinh cần đọc nhiều tài liệu tham khảo,
nhất là những bài nghiên cứu của những học giả có uy tín, những đoạn trích
học trong sách giáo khoa. Khi nêu dẫn chứng cần để dẫn chứng trong dấu ngoặc
kép.
Dẫn chứng nêu ra phải được phân tích, bình phẩm mới làm toát lên vấn
đề cần nói. Còn chỉ nêu mà không phân tích, bình phẩm thì bài văn chỉ là bảng
liệt kê đơn thuần không có tác dụng minh họa cho các luận điểm trong bài văn
nghị luận. Phân tích dẫn chứng là công việc đòi hỏi vận dụng các phương pháp
như: diễn dịch, quy nạp, tổng- phân- hợp, nêu phản đề, so sánh, phân tích nhân
quả,...
Kĩ năng hành văn
Bài viết phong phú, chính xác, đầy đủ về kiến thức là yêu cầu cần thiết
đối với văn nghị luận nhưng sẽ không thuyết phục nếu thiếu kĩ năng hành văn.
Vậy hành văn là gì? Hành văn là diễn đạt các ý lớn nhỏ trong dàn bài thành lời
văn. Lời văn chuẩn xác, truyền cảm.
Chuẩn xác được thể hiện ở dùng từ, đặt câu đúng trong sáng. Muốn vậy,
học sinh cần có thói quen đọc sách báo, tra từ điển để hiểu đúng nghĩa của từ
muốn dùng, nhất là các khái niệm trừu tượng, các thuật ngữ chuyên môn. Về

câu, viết phải đủ thành phần, đặc biệt là khi mở rộng thành phần câu, học sinh
cần lưu ý sắp xếp trật tự từ đúng quy tắc và không bỏ sót thành phần chính. Mỗi
khi viết xong một câu, học sinh nên đọc lại, nếu chưa được, tìm nguyên nhân
và sửa chữa. Để đảm bảo tính chuẩn xác, bên cạnh việc dùng từ, đặt câu trong
sáng, lời văn nghị luận còn phải chặt chẽ.

16


Truyền cảm là sử dụng hình ảnh đúng chỗ, đúng mức là tạo điều kiện
thuận lợi cho người đọc đến với chân lí, với sự thật một cách dễ dàng hơn, gây
ấn tượng sâu sắc hơn. Để bài văn có cảm xúc, học sinh phải tin vào chân lí, vào
sự thật mà mình nhận thức được, và nhiệt tình cổ vũ cho chân lí ấy. Một khi có
niềm tin, có nhiệt tình thì lời văn sẽ là lời tâm huyết tự đáy lòng, sẽ giàu cảm
xúc, nhờ đó mà dễ dàng thuyết phục người đọc.
Kĩ năng viết sáng tạo
Nếu những kĩ năng nói ở trên là những kĩ năng đảm bảo nguyên tắc, yêu
cầu khoa học đối với bài văn nghị luận thì trong thực tế làm văn đòi hỏi người
viết phải sáng tạo. Tuy nhiên viết sáng tạo không có nghĩa là nghĩ gì viết nấy.
Viết sáng tạo vẫn phải đảm bảo các yêu cầu về tính chuẩn xác, tính truyền cảm.
Muốn rèn luyện tốt kĩ năng này, học sinh tăng cường đọc sách báo, nhất là các
bài nghị luận có trong chương trình. Ở những bài viết này, học sinh sẽ thấy cách
tổ chức sắp xếp ý, cách dùng từ đặt câu, cách dựng đoạn, kết cấu văn bản ở các
tác giả có những nét riêng, hấp dẫn riêng để học tập cách viết.
Những năm gần đây, việc kiểm tra đánh giá, bài thi học sinh đã có những
đổi mới. Đổi mới cách ra đề là một yêu cầu phát huy khả năng suy nghĩ, hiểu
biết và viết bài mang màu sắc cá nhân ở học sinh. Các đề thi Đại học- Cao đẳng,
thi học sinh giỏi của tỉnh đã có hướng đổi mới, nhằm phát huy khả năng sáng
tạo của học sinh. Viết sáng tạo, cũng như đọc sáng tạo nhằm hình thành cho học
sinh năng lực chung là năng lực sáng tạo.Viết sáng tạo là phải có cái mới, yếu tố

mới như mới về ý tưởng, mới về biểu đạt. Tuy nhiên để có sáng tạo là khó, cần
tập dần từ thấp đến cao. Muốn học sinh viết sáng tạo cần chú ý cách ra đề văn,
cần có những định hướng về cánh viết nhưng không làm mất đi yêu cầu sáng
tạo. GS Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Kinh nghiệm hành văn quan niệm: Văn
phải có giọng riêng và phải có hồn thể hiện tư tưởng riêng, thể hiện thái độ
khinh trọng yêu ghét riêng.
2.3.5. Rút kinh nghiệm
Những ưu điểm cần phát huy

17


Để thay đổi cách học cũ đã trở thành “sâu rễ bền gốc” trong học sinh và
lối dạy học một chiều thầy nói, thầy làm, trò nghe, trò chép không còn cách nào
khác là phải thay đổi cách dạy, cách học. Qua thể nghiệm, tôi thấy cần phát huy
những ưu điểm sau:
Học sinh đã có chiều hướng chuyển mình trong việc tự học. Cụ thể qua
kiểm tra bài cũ đa số học sinh đã trả lời được những ý khó khi giáo viên hỏi bổ
sung. Việc chuẩn bị bài theo câu hỏi hướng dẫn học bài, những yêu cầu của đọc
hiểu văn bản có nhiều khởi sắc giúp cho hoạt động học tập ở lớp sôi nổi hơn.
Các bài tập giáo viên ra về nhà hầu hết được các em làm theo hướng dẫn:
lập dàn ý chi tiết, viết thành lời văn một số đoạn, trong đó có viết phần mở bài,
kết bà i(thông qua việc kiểm tra vở bài tập).
Ngoài ra có nhiều học sinh đã tích cực tự làm bài tập khác như giải các đề
thi tốt nghiệp, cao đẳng đại học, học sinh giỏi các năm trước nhờ giáo viên đánh
giá để rút kinh nghiệm.
Khả năng hành văn trong các bài làm có nhiều tiến bộ, nhất là các bài
kiểm tra định kì, thi chọn học sinh giỏi cấp trường, thi chọn học sinh dự thi giỏi
cấp tỉnh, thi thử đại học. Nhiều bài đã phát huy kĩ năng viết sáng tạo.
Những vướng mắc cần khắc phục

Tính đồng bộ chưa cao, một số học sinh còn tỏ ra ỷ lại, thụ động do thiếu
tài liệu, do năng lực có hạn, do mục đích học bộ môn chưa được xác định.
Việc coi trọng môn học công cụ này ở một bộ phận học sinh còn thấp do
chưa hiểu được tầm quan trọng của nó trong cuộc sống.
Thời gian dành cho tự học, rèn luyện chiếm tổng quỹ thời gian nhiều nên
học sinh thường ngần ngại.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
2.4.1. Phạm vi ứng dụng
Đề tài được ứng dụng ở 6 lớp học sinh của ba trường THPT Thiệu Hóa.
Khi áp dụng sáng kiến rèn luyện kĩ năng tự học của học sinh kết quả lần sau
tăng lên so với lần trước, đặc biệt các lớp khối. Từ kết quả này, có thể ứng dụng
trong diện rộng toàn trường với cả ba khối.

18


2.4.2. Hiệu quả của đề tài
Từ thống kê lần thứ nhất, tôi chọn các lớp định hướng C, D để thể
nghiệm. Vì học sinh ở các lớp này có 3 trình độ cơ bản: yếu, trung bình và khá
nên cũng dễ dàng hơn cho việc thực hiện. Thực tế cho thấy khi học sinh chưa
có động cơ và phương pháp thì nguyện vọng học khối C, D ban đầu của học
sinh không nhiều nhưng sau khi sử dụng phương pháp này, kết quả cho thấy
tính tích cực chủ động học tập ở nhà của học sinh tương đối khả quan, mặc dù
có em không chọn học những khối này.
Bảng số liệu thu được:
Bảng 1: Học bài cũ
Rèn luyện theo phương pháp này
Không rèn luyện theo phương pháp
Lớp định hướng C, D
này

Lớp thường
Lớp
Kết quả
Lớp
Kết quả
Không
học
bài
10C 0/44
0.0%
11C 0/40
0.0%
12D 0/46
0.0%

Học
chiếu
lệ
5/44
11.4%
8/40
20.0%
6/46
13.0%

Thuộc
bài
20/44
45.4%
22/40

55.0%
30/46
65.2%

Hiểu
bài
19/44 10D
43.2%
10/40 11D
25.0%
10/46 12E
21.8%

Không
học
bài
10/38
26.3%
2/41
4.87%
21/39
53.8%

Học
chiếu
lệ
20/38
52.6%
18/41
43.9%

14/39
35.9%

Thuộc
bài

Hiểu
bài

8/38
21.1%
20/41
48.7%
4/39
10.2%

0.0/38
0.0%
1/41
2.4%
0.0
0.0%

Bảng 2: Soạn bài
Rèn luyện theo phương pháp này
Lớp
Kết quả
Không
soạn
bài

10C 0/44
0.0%
11C 0/40
0.0%
12D 0/46
0.0%

Soạn
chiếu
lệ
5/44
11.4%
8/40
20%
6/46
13%

Soạn
mở
rộng,
nâng
cao
25/44 14/44
56.8% 31.8%
24/40 8/40
60% 20%
25/46 15/46
54.4% 32.6%

Không rèn luyện theo phương pháp này

Lớp
Kết quả

Soạn
chu
đáo

Không
soạn
bài
10D
11D
12E

19

Soạn
chiếu
lệ

9/38
20/38
23.68% 52.6 %
1/41
18/41
2.43% 43.9%
10/39 21/39
25,64% 53.84%

Soạn

chu
đáo
9/38
23.63%
21/41
51.%
7/39
17,9%

Soạn
mở
rộng,
nâng
cao
0
0.0%
1/41
2.43%
1/39
2,6%


Bảng 3: Làm bài tập
Rèn luyện theo phương pháp này
Không rèn luyện theo phương pháp này
(Lớp định hướng C, D)
(Lớp thường)
Kết quả
Lớp
Kết quả

Lớp
Không Làm
Làm
Làm
Không
Làm
Làm Làm hết
làm
chiếu
hết
hết và
làm bài chiếu
hết
và làm
bài
lệ, qua
làm
lệ, qua
thêm ở
loa
thêm ở
loa
sách
sách
khác
khác
10C 0/44
10/44
22/44 12/44 10D
12/38 20/39 6/39

0.0
0.0%
22.7% 50% 27.3%
31.6% 51.3% 15.4
0.0%
%
11C 0/40
6/40
25/40 9/40
11D
6/41
15/41 20/41
0
0.0%
15%
62.5 22.5%
14.6% 36.5% 48.7
0.0%
%
%
12D 0/46
7/46
25/46 14/46 12E
15/39 21/39 3/39
0
0.0%
15.2% 54.4 30.4%
38,5% 53.8% 7,7%
0.0%
%


III. KẾT LUẬN
3.1. Kết luận
Đề tài được trình bày đảm bảo tính khoa học của một sáng kiến kinh
nghiệm. Bố cục rõ ràng, hệ thống các luận điểm, luận cứ mạch lạc, lô gic. Đề tài
dựa trên tính lí thuyết và được vận dụng vào thực tiễn một cách đúng đắn, có
sức thuyết phục. Các số liệu lấy từ thực tế trước và sau khi sử dụng các phương
pháp rèn luyện kĩ năng tự học bộ môn Ngữ văn cho học sinh qua hoạt động học
và làm bài tập ở nhà.
Với kết quả thu được từ thể nghiệm, tôi thấy khả năng ứng dụng của đề
tài là khả quan. Các phương pháp rèn luyện kĩ năng cho học sinh về việc tự học
ở nhà phù hợp với các đối tượng học sinh từ yếu đến giỏi trên cơ sở hướng dẫn
của giáo viên ngữ văn.
3.2. Kiến nghị
Với các cấp quản lí, sở giáo dục cần tăng cường tổ chức các chuyên đề
bồi dưỡng giáo viên trên cơ sở nắm được thực tế học tập của học sinh ở bộ môn.

20


Quản lí cấp trường cần khích lệ động viên thầy cô giáo, mở các đợt trao đổi
phương pháp dạy học trong giáo viên.
Với giáo viên, đây là một công việc không đơn giản. Do vậy để có kết
quả, mỗi giáo viên phải thực sự chuyên tâm, vượt lên những khó khăn của đời
sống để góp phần đào tạo những công dân tích cực, chủ động, sáng tạo cho
tương lai đất nước.
Với học sinh, mỗi học sinh phải xác định được mục đích của việc học tập,
nhất là ý thức tự rèn luyện kĩ năng tự học ở nhà trên tinh thần hướng dẫn của
thầy cô giáo. Học sinh cần tăng cường học hỏi, trao đổi, kể cả với bạn bè. Cần
chủ động, tích cực trong việc tự học, tự rèn luyện.


Thanh Hóa, ngày 25 tháng 5 năm 2017
Người viết sáng kiến

LÊ TRỌNG VINH

21



×