Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vận dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực vào việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản thuật hoài của phạm ngũ lão

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.43 KB, 13 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Lí luận dạy học hiện đại đã khẳng định: Sự thành công của việc giảng dạy
phụ thuộc rất nhiều vào PP-KTDH được GV lựa chọn. Cùng một nội dung
nhưng tùy thuộc vào PP sử dụng thì sẽ có những kết quả khác nhau. Làm việc
theo nh.óm là một trong những PP được áp dụng trong đổi mới PP-KTDH hiện
nay nhằm phát huy được tính tích cực của người học, dạy học hướng về người
học. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì yêu cầu làm việc
theo nhóm là cần thiết hơn bao giờ hết vì trong thực tế cuộc sống không có ai là
hoàn hảo, do đó làm việc theo nhóm có thể tập trung được những mặt mạnh của
từng người và bổ sung, hoàn thiện cho nhau những điểm yếu, hơn nữa nó còn
tạo ra được niềm vui và sự hứng thú trong học tập. Vì vậy chúng ta cần phải
thấy được những ưu điểm của hình thức dạy học theo nhóm để phát huy được
những điểm mạnh của nó.
Trên thực tế, nhiều tiết học đã được GV chuẩn bị rất công phu nhưng khi
tiến hành hoạt động theo nhóm thì chỉ có các thành viên tích cực làm việc, các
thành viên thụ động thường hay ỷ lại, trông chờ, “nghỉ ngơi” như người ngoài
cuộc hay như một quan sát viên. Do đó dẫn đến mất nhiều thời gian và hiệu quả
học tập không cao. Xuất phát từ thực tế đó, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và thể
nghiệm hai PP-KTDH mà tôi cho là phù hợp trong quá trình hoạt động nhóm,
đó là kĩ thuật (KT) mảnh ghép và KT khăn phủ bàn. Hai PP này đòi hỏi tất cả
các thành viên phải làm việc cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình trước khi
hoạt động nhóm. Từ đó, các cuộc thảo luận sẽ có sự tham gia của tất cả các
thành viên và các thành viên sẽ có cơ hội chia sẻ ý kiến, kinh nghiệm của mình,
tự đánh giá và điều chỉnh nhận thức của mình một cách tích cực. Nhờ vậy, hiệu
quả học tập được đảm bảo và không mất thời gian cũng như giữ được trật tự lớp
học.
Qua thực tế giảng dạy của bản thân và qua việc dự giờ một số đồng
nghiệp, tôi nhận thấy áp dụng KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn khi giảng dạy
bài Thuật hoài (Tỏ lòng) của nhà thơ – tướng quân Phạm Ngũ Lão sẽ đạt được
hiệu quả cao trong dạy và học. Đây là bài thơ viết bằng chữ Hán theo thể tuyệt


cú được giảng dạy trong chương trình Ngữ văn 10 Cơ bản. Với dung lượng
ngắn, ý tứ hàm súc, thời lượng giảng dạy 01 tiết học, bài thơ sẽ rất thích hợp để
GV triển khai hai KT: Mảnh ghép và Khăn phủ bàn, giúp HS tiếp cận mục tiêu
bài học.
Xin lưu ý rằng, bài viết này tập trung làm nổi bật hiệu quả dạy và học khi
áp dụng hai KT: Mảnh ghép và Khăn phủ bàn không có nghĩa là trong suốt giờ
dạy, GV chỉ áp dụng hai kĩ thuật đó. Trong quá trình dạy – học, sẽ không thể
thiếu được các PP – KT như: Đặt câu hỏi, học tập hợp tác, lắng nghe và phản hồi
tích cực… nhưng trong phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm, người viết chỉ dừng
1


lại ở việc áp dụng hai kĩ thuật nêu trên để hướng dẫn HS đọc - hiểu văn bản
Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão.
Từ bài học này, tôi có thể vận dụng KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn
cho các văn bản cùng thể loại trong chương trình THPT.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài này nhằm thể hiện việc áp dụng lý thuyết về PP KTDH tích cực vào một bài cụ thể. Qua đó thấy được hiệu quả của việc áp dụng
KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn vào việc đọc – hiểu văn bản văn học khi
hoạt động nhóm. Hai kĩ thuật này không chỉ tránh được tình trạng GV thuyết
trình nhiều, cung cấp kiến thức một cách áp đặt mà còn khắc phục được hạn chế
của việc học theo nhóm, rèn luyện cho HS phương pháp tự học, tích cực chủ
động chiếm lĩnh tri thức trong giờ học. Nói cách khác là “…làm sao để chủ thể
HS dưới sự hướng dẫn của GV có thể cảm nhận, khám phá, chiếm lĩnh tác
phẩm. Do đó, tạo được một sự tự phát triển toàn diện về trí lực, tâm hồn, nhân
cách và năng lực” (Phan Trọng Luận – Đổi mới phương pháp dạy học tác phẩm
văn chương trong nhà trường - Tài liệu Bồi dường thường xuyên giáo viên
THPT, năm 1995)
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Là học sinh lớp 10 học chương trình Ngữ văn Cơ bản của

trường THPT Đông Sơn I, Thanh Hóa.
Phạm vi nghiên cứu: Một số văn bản thơ luật Đường thuộc chương trình
Cơ bản mà trung tâm thể nghiệm là bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ
Lão.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp điều tra và khảo sát
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp phân tích, đánh giá

2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
PP-KTDH tích cực là những phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của HS. Để thực hiện được mục tiêu bài học, người
dạy phải tìm được những biện pháp, cách thức hoạt động của thầy và trò trong
những tình huống, hoạt động cụ thể nhằm giải quyết một nhiệm vụ, nội dung cụ
thể. Nghĩa là phải tìm được KT dạy học. Trong các PP-KTDH tích cực, bên cạnh
KT học tập hợp tác, sơ đồ tư duy, KT đặt câu hỏi… thì hai KT phát huy được
hiệu quả cao trong hoạt động nhóm là KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn.
KT Khăn phủ bàn là KT tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết
hợp giữa hoạt động cá nhân và nhóm. Tác dụng của KT này là kích thích, thúc
đẩy sự tham gia tích cực của HS, tăng cường tính độc lập của cá nhân và phát
triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS. Đây là một PP – KTDH đơn
giản, dễ thực hiện, có thể tổ chức trong tất cả các bài học, môn học, cấp học. Chỉ
cần một tờ giấy A0, nhóm sẽ vẽ một hình vuông hoặc chữ nhật, hình tròn… ở
trung tâm tờ giấy rồi chia phần trống còn lại thành bốn hoặc năm phần theo số
thành viên của nhóm. Mỗi thành viên của nhóm làm việc độc lập xây dựng chiến

lược, câu trả lời/ giải pháp riêng và viết vào góc giấy của mình. Khi hết thời gian
làm việc cá nhân, các thành viên trong nhóm chia sẻ, thảo luận, thống nhất câu
trả lời. Ý kiến thống nhất của nhóm được viết vào phần chính giữa. KT này đòi
hỏi tất cả các thành viên phải làm việc cá nhân, suy nghĩ, viết ra ý kiến của mình
trước khi thảo luận nhóm. Như vậy có sự kết hợp giữa cá nhân và nhóm.
KT mảnh ghép là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa
cá nhân, nhóm và liên kết giữa các nhóm. Kĩ thuật này đòi hỏi HS phải tích cực,
nỗ lực tham gia và bị cuốn hút vào các hoạt động để hoàn thành vai trò, trách
nhiệm của mỗi cá nhân. KT mảnh ghép được thực hiện như sau: Lớp học sẽ
được chia thành các nhóm (khoảng từ 3 đến 6 HS). Mỗi nhóm sẽ được giao một
nhiệm vụ tìm hiểu/ nghiên cứu sâu một phần nội dung học tập khác nhau nhưng
có sự liên quan chặt chẽ với nhau. Các nhóm này được gọi là nhóm ‘‘chuyên
sâu’’. Các nhóm sẽ nhận nhiệm vụ nghiên cứu thảo luận để có hiểu biết tốt nhất
về nhiệm vụ được giao và trở thành ‘‘chuyên gia’’của lĩnh vực đã tìm hiểu và có
khả năng trình bày lại câu trả lời của nhóm ở vòng phần sau. Sau khi nhóm
chuyên sâu đã hoàn thành nhiệm vụ, một nhóm mới sẽ hình thành là nhóm mảnh
ghép. Nhóm này bao gồm một vài người từ các nhóm chuyên sâu. Các câu hỏi
và câu trả lời của vòng 1 được các thành viên trong nhóm mới chia sẻ đầy đủ với
nhau. Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả các nội dung ở
vòng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết. Nhiệm vụ
mới này mang tính khái quát. Tổng hợp toàn bộ nội dung đã được tìm hiểu từ
các nhóm chuyên sâu. Bằng cách này, HS có thể nhận thấy những nội dung vừa
thực hiện không chỉ để giải trí hoặc trò chơi đơn thuần mà thực sự là nội dung
học tập quan trọng.
3


Như vậy, KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn đều có điểm chung là hình
thành ở HS tính chủ động, năng động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao
trong hoạt động đối với chính mình và các bạn trong lớp. Nếu tổ chức tốt, mỗi

tiết học sẽ là một cuộc chơi mà tất cả mọi thành viên của nhóm đều là người
trong cuộc, đều phải hoạt động một cách tích cực.
Các bài thơ Luật Đường khác được học trong chương trình về cơ bản cũng
có thể sử dụng PP-KTDH tích cực như đã trình bày ở trên.
Bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm với bốn nội dung trong bốn cặp câu
thơ thất ngôn bát cú luật Đường là: Nhàn thể hiện ở sự ung dung trong phong
thái, thảnh thơi, vô sự trong lòng, vui với thú điền viên; nhàn là nhận dại về
mình, nhường khôn cho người, xa lánh chốn danh lợi, tìm về “nơi vắng vẻ”,
sống hòa nhập với thiên nhiên để “di dưỡng tinh thần”; nhàn là lối sống thuận
theo lẽ tự nhiên, hưởng những thức có sẵn theo mùa ở nơi thôn dã mà không
phải mưu cầu, tranh đoạt; nhàn có cơ sở từ quan niệm nhìn cuộc đời là giấc
mộng, phú quí tựa chiêm bao.
Với ý nghĩa “khá rạch ròi” như vậy, ta thấy tính độc lập tương đối của
từng nội dung khá cao. Cho nên, hướng tìm hiểu bài thơ này theo bố cục bốn
phần thường gặp trong kiểu thơ thất ngôn bát cú luật Đường hết sức thuận lợi.
Sau khi hướng dẫn HS tìm hiểu từng nội dung, thao tác cuối cùng chỉ là cho HS
khái quát quan niệm về chữ nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nghĩa là, GV có thể
hướng dẫn học sinh học theo phương pháp hợp tác (tức phân nhóm). Mỗi nội
dung giao cho một số nhóm. Trong từng nhóm lại sử dụng các kĩ thuật dạy học
tích cực như kĩ thuật đặt câu hỏi, KT mảnh ghép, KT khăn phủ bàn …
Bài Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du, về cơ bản cũng có thể áp dụng
các PP-KTDH như vừa trình bày ở trên. Các bài đọc thêm, tùy vào sự phân
lượng thời gian cho từng bài mà hướng dẫn học sinh đọc – hiểu. Những nội
dung trọng tâm có thể áp dụng một số kĩ thuật dạy học tích cực như Kĩ thuật
khăn phủ bàn, Sơ đồ tư duy…
2.2. Thực trạng của bài học
Không giống với những môn học khác trong nhà trường, môn Ngữ văn là
môn học có tính đặc thù. Để cảm nhận được trọn vẹn một tác phẩm văn học, đòi
hỏi HS phải có tư duy trừu tượng, khả năng liên tưởng, tưởng tượng và quan
trọng hơn hết là sự rung động của tâm hồn. Vì thế, việc áp dụng các PP-KTDH

cho môn Ngữ văn không hề đơn giản. GV cần phải có sự lựa chọn, cân nhắc kĩ
lưỡng PP cho từng bài dạy, từng đối tượng để có thể khơi gợi tối đa sự chủ động
tiếp thu kiến thức và hứng thú học tập của HS.
Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là một bài thơ tiêu biểu của văn học trung
đại Việt Nam. Như chúng ta đã biết, đặc điểm nổi bật của văn học trung đại là sự
quy định chặt chẽ theo khuôn mẫu. Tính quy phạm thể hiện ở quan niệm: coi
trọng mục đích giáo huấn thi dĩ ngôn chí (thơ để nói chí), văn dĩ tải đạo (văn để
4


chở đạo); Ở tư duy nghệ thuật: nghĩ theo kiểu mẫu có sẵn đã thành công thức; ở
thể loại văn học với những quy định chặt chẽ về kết cấu; ở cách sử dụng thi liệu:
dẫn nhiều điển tích, điển cố, dùng nhiều văn liệu quen thuộc. Do tính quy phạm,
văn học trung đại thiên về ước lệ, tượng trưng… Với những đặc trưng trên, HS
khi tiếp cận với những tác phẩm văn học trung đại sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì
khoảng cách thời đại, quan niệm, nhận thức… có sự khác biệt rõ rệt. Hơn nữa, ở
độ tuổi HS trung học phổ thông, các em chưa đủ trải nghiệm để có thể hiểu sâu
sắc hàm ý của người xưa.
Nhưng trong thực tế, không phải GV nào cũng nhận thức được thực trạng
này. Đặc biệt với những GV chưa có nhiều kinh nghiệm, việc áp dụng một cách
máy móc PP-KTDH khiến thất bại trở thành nhãn tiền.
2.3. Giải pháp và tổ chức thực hiện
2.3.1. Giải pháp
Qua trải nghiệm trong thực tế dạy và học, tôi nhận ra rằng, với bài Thuật
hoài của Phạm Ngũ Lão chủ yếu sử dụng KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn
thì sẽ thành công hơn cả.
2.3.2. Thiết kế tiến trình dạy học
Bài viết trình bày việc vận dụng KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn cho
một bài dạy cụ thể nên trong thiết kế này, xin không trình bày các hoạt động
như ổn định tổ chức, kiểm tra bài cũ ...

Tiết 35:

TỎ LÒNG
(Thuật hoài)
- Phạm Ngũ Lão -

I - MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
- Cảm nhận được “Hào khí Đông A” thể hiện qua vẻ đẹp của con người và
thời đại.
- Nhận thức được bút pháp thơ trung đại thể hiện trong bài thơ.
II – TRỌNG TÂM KIẾN THỨC - KĨ NĂNG
1. Kiến thức
- Vẻ đẹp của con người thời Trần với tầm vóc, tư thế, lý tưởng cao cả; vẻ
đẹp của thời đại với khí thế hào hùng, tinh thần quyết chiến quyết thắng.
- Hình ảnh kỳ vĩ; ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm.
2. Kĩ năng
Đọc – hiểu một bài thơ luật Đường theo đặc trưng thể loại
3. Thái độ
- Bồi dưỡng niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
5


- Có ý thức về bản thân, rèn luyện ý chí, ước mơ và nỗ lực hết mình để
thực hiện ước mơ đó để hoàn thiện bản thân.
III – TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
Hoạt động của GV - HS

Yêu cầu cần đạt

Hoạt động 1: Tìm hiểu chung (5 phút)

I.Tìm hiểu chung
GV yêu cầu 01 đến 02 HS trình bày
những nội dung cơ bản ở phần Tiểu1. 1. Tác giả
dẫn trong SGK. GV cho HS thảo - Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người
làng Phù Ủng, huyện Đường hào, tỉnh
luận, bổ sung
Hưng Yên, từng là môn khách của Trần
Hưng Đạo.
- Có công lớn trong cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên Mông.
- Là người văn võ song toàn.
2. 2. Văn bản
- GV yêu cầu HS đọc và đối chiếu3. - Thuật hoài là một trong hai bài thơ còn
phần phiên âm chữ Hán và phần dịch lại của Phạm Ngũ Lão.
thơ, sau đó phát hiện những chỗ dịcha. a. Đối chiếu bản phiên âm và bản dịch thơ
đạt và chưa đạt. Giải thích vì sao
- “Hoành sóc” dịch là “múa giáo” đã phần
chưa đạt?
nào làm giảm đi sự biểu trưng, tước đi sự
đường bệ, vững chãi của hình tượng.
Trong con người này, cái động đã được
chế ngự, đã được thâu gộp trong cái tĩnh
chứa đầy sức mạnh.
- Từ các bài thơ luật Đường đã được
học, GV cho HS tìm hiểu hướng tiếp
cận bài thơ. HS thảo luận tự do theo
từng bàn, sau đó đề xuất ý kiến. GV
tổng hợp ý kiến và có thể phải định
hướng.
(Bài thơ được viết theo thể thất ngôn

tứ tuyệt Đường luật. Bố cục quen
thuộc gồm bốn phần: khai – thừa –
chuyển – hợp. Với bài Thuật hoài,
tìm hiểu nội dung theo từng cặp câu
sẽ thuận lợi hơn trong việc áp dụng
PP-KTDH tích cực)

- “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” (ba quân
mạnh như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt
trôi trâu) được dịch là “Ba quân khí mạnh
nuốt trôi trâu”. Câu thơ bản phiên âm có 2
vế, cả hai vế đều nói về sức mạnh của
quân ta, tức thể hiện được “Hào khí Đông
A” trong văn học viết thời nhà Trần.
=> Dịch như trên làm mất phép so sánh:
ba quân mạnh như hổ báo.
b. Bố cục
- Hai câu đầu: Hình ảnh con người và quân
đội thời Trần.
- Hai câu cuối: Vẻ đẹp nhân cách của nhà
thơ.
6


Hoạt động 2: Đọc hiểu văn bản ( 25 phút)
GV tổ chức giờ học theo kĩ thuật
mảnh ghép. GV chia lớp thành 4
nhóm chuyên sâu, mỗi nhóm một
nhiệm vụ tìm hiểu:
- Nhóm 1(phần a): Bối cảnh lịch

sử ?
- Nhóm 2 (phần b): Hình ảnh người
tráng sĩ đời Trần?
- Nhóm 3 (phần c): Khí thế thời đại?
- Nhóm 4 (phần d): Nghệ thuật biểu
hiện?

II. Đọc hiểu văn bản
1. Hình ảnh người anh hùng và khí thế
thời đại:
a. Bối cảnh thời đại
+ Thời đại nhà Trần (1226-1400)
+ Ba lần kháng chiến và đánh thắng quân
xâm lược Nguyên – Mông (một kẻ thù
hùng mạnh từng là nỗi khiếp sợ của bao
quốc gia Á – Âu thời trung đại), nhà Trần
đã ghi vào pho sử vàng nước Việt những
chiến công Hàm Tử,Chương Dương, Bạch
Đằng… bất tử.
=> Đặt trong bối cảnh ấy, phải thừa nhận
rằng Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là một
tác phẩm thật đáng quý, đã cho hậu thế
nhìn thấy được phần nào hào khí của một
triều đại (hào khí Đông A) và tư thế, tầm
vóc kiêu hùng của một dân tộc anh hùng

- Sau khi hoàn thành nhiệm vụ ở giai
đoạn chuyên sâu, một nửa số học
sinh của mỗi nhóm sẽ tập hợp thành
hai nhóm mới là nhóm mảnh ghép.

Các thành viên ở nhóm mới sẽ thảo
luận về các vấn đề đã tìm hiểu ở
nhóm chuyên sâu. Như vậy nhóm
b. Hình ảnh người tráng sĩ đời Trần
mới sẽ tổng hợp được tất cả các vấn
đề xoay quanh nội dung về hình ảnh + Tư thế chiến binh: hoành sóc (Cầm
người anh hùng và khí thế thời đại.. ngang ngọn giáo) -> tư thế xung trận với
vũ khí chĩa thẳng về phía kẻ thù -> tư thế
- GV lần lượt yêu cầu đại diện từng dồn nén sức mạnh để bùng nổ -> biểu
nhóm mảnh ghép trình bày vấn đề. trưng của tinh thần xông pha, của tư thế
làm chủ chiến trường.
Nhóm còn lại theo dõi và bổ sung.
+ Sứ mệnh chiến binh: trấn giữ giang sơn,
giữ yên bờ cõi với ý chí và quyết tâm
không thay đổi theo thời gian (kháp kỉ
thu).
-> Tư thế hiên ngang với vẻ đẹp kì vĩ
mang tầm vóc vũ trụ. Nhân vật trữ tình
hiện lên trong tư cách một chiến binh dạn
dày trận mạc.
- c. Khí thế thời đại:
+ Tam quân tì hổ: Đội quân ra trận vô
cùng đông đảo, trùng điệp với sức mạnh
phi thường, mạnh như hổ báo.
+ Khí thôn ngưu: ba quân mạnh như hổ
báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu(hoặc
7


cách hiểu khác: Khí thế, tráng chí làm lu

mờ sao Ngưu trên bầu trời).
 => Sức mạnh của đội quân đang sục sôi
khí thế quyết chiến quyết thắng, có thể
“nuốt trôi” mọi kẻ thù.
- d. Nghệ thuật

- GV nhận xét kết quả làm việc của
các nhóm mảnh ghép và tổng hợp
kiến thức.
GV bình: Chỉ với hai câu thơ, Phạm
Ngũ Lão đã thực sự dựng dậy được
không khí đặc trưng của một thời kì
lịch sử mà khi đó nhân vật trung tâm
của đời sống đất nước là người lính
Sát Thát. Chính sự trải nghiệm của
cuộc đời trận mạc đã tạo nên lợi thế
hiển nhiên giúp ông có những câu
thơ giàu sức nặng riêng và tầm khái
quát lớn đến thế.
2.
- GV chia HS thành 04 nhóm và phát
cho mỗi nhóm một tờ A0. Các nhóm
cùng tìm hiểu về vẻ đẹp nhân cách
nhà thơ Phạm Ngũ Lão. Theo KT
khăn phủ bàn, mỗi thành viên của
nhóm làm việc độc lập xây dựng
chiến lược, câu trả lời/ giải pháp
riêng và viết vào góc giấy của mình.
Khi hết thời gian làm việc cá nhân,
các thành viên trong nhóm chia sẻ,

thảo luận, thống nhất câu trả lời. Ý
kiến thống nhất của nhóm được viết
vào phần chính giữa tờ A0.
- GV lần lượt yêu cầu đại diện từng

+ Hình ảnh kì vĩ, hoành tráng thích hợp
với việc tái hiện khí thế hào hùng của thời
đại và tầm vóc, chí hướng của người anh
hùng.
+ Nghệ thuật so sánh, cường điệu.
+ Ngôn ngữ cô đọng, hàm súc thể hiện sự
dồn nén cảm xúc.
=> Đặc trưng của nghệ thuật thơ trung đại
Tiểu kết phần 1: Hai câu thơ khắc họa
vóc dáng hùng dũng
+ Hình ảnh tráng sĩ hiện lên qua tư thế
“cầm ngang ngọn giáo” (hoành sóc) giữ
non sông. Đó là tư thế hiên ngang với vẻ
đẹp kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ
+ Hình ảnh “ba quân”: hiện lên với sức
mạnh của đội quân đang sục sôi khí thế
quyết chiến thắng
 Hình ảnh tráng sĩ lồng trong hình
ảnh “ba quân” mang ý nghĩa khái
quát, gợi ra hào khí dân tộc thời
Trần – Hào khí Đông A
2. Vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ
- Quan niệm của các nhà Nho thời trung
đại về chí làm trai: làm trai phải lập được
công danh, phải để lại tiếng thơm cho đời

bằng sự nghiệp kinh bang tế thế, phải trả
được món nợ công danh với núi sông.
- Luống thẹn khi nhắc đến Vũ Hầu: tác giả
đang tự soi mình vào tấm gương lớn Gia
Cát Lượng – nhà quân sự lỗi lạc thời Tam
quốc để thấy nỗi “thẹn” khi chưa thực hiện
được lí tưởng, khát vọng của kẻ làm trai.
=> Đó là nỗi thẹn của một nhân cách cao
cả, thái độ tự vấn nghiêm khắc và ý
8


nhóm trình bày vấn đề. Nhóm còn lại nguyện cháy bỏng muốn lập công nhiều
theo dõi và bổ sung.
hơn nữa. Đây là mẫu hình quân tử luôn
nung nấu hoài bão trị quốc bình thiên hạ.
=> Lí tưởng sống tích cực. Đó không chỉ
là lí tưởng sống của con người thời Trần
mà còn là mục đích sống của con người
mọi thời đại. Sống vì cuộc đời, vì sự
nghiệp chung của đất nước chính là lí
tưởng sống cao đẹp của tất cả mọi người ở
mọi thời đại.
- GV nhận xét kết quả làm việc của
=> Tiểu kết phần 2: Hai câu thơ cuối thể
các nhóm và tổng hợp kiến thức.
hiện khát vọng hào hùng. Đó là khát vọng
lập công danh để thỏa “chí nam nhi”, cũng
là khát vọng được đem tài trí “tận trung
báo quốc” – thể hiện lẽ sống lớn của con

người thời đại Đông A.
- Từ hai nôi dung đã tìm hiểu: Hình
ảnh con người và quân đội thời Trần
và Vẻ đẹp nhân cách của nhà thơ.
Em hãy rút ra ý nghĩa văn bản?

3. Ý nghĩa văn bản
- Thể hiện lí tưởng cao cả của vị danh
tướng Phạm Ngũ Lão, khắc ghi dấu ấn
đáng tự hào về một thời kì oanh liệt, hào
hùng của lịch sử dân tộc.

Hoạt động 3: Tổng kết ( 5 phút)
III. Tổng kết
GV yêu cầu HS tổng kết giá trị nội
- Bài thơ không chỉ là lời “tỏ lòng” riêng
dung và nghệ thuật của bài thơ?
của Phạm Ngũ Lão mà còn là ý chí, khí
phách của quân dân thời Trần (sử dụng đại
từ: tam quân, nam tử). Đó là “hào khí
Đông A”, là cảm hứng yêu nước trong bài
thơ.
- Hình ảnh thơ hoành tráng, ngôn ngữ cô
đọng, hàm súc, có sự dồn nén cao độ về
cảm xúc.
Hoạt động 4: Củng cố ( 5 phút)
- GV hướng dẫn HS so sánh, mở rộng: - Mỗi một thời đại sản sinh ra một nhân
- Hãy so sánh hình tượng người tráng cách và một mẫu hình nhân vật lí tưởng,
cũng luận về chí khí anh hùng nhưng ở
sĩ trong bài thơ Thuật hoài với hình

mỗi thời đại, mỗi cá nhân đã có sự khác
tượng người anh trong một số tác
nhau.
phẩm văn học trung đại và hiện đại
- Tuy nhiên ta vẫn nhận ra nét chung ở các
9


như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc
Tuấn, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi…cho đến người lính trong kháng
chiến chống Pháp, chống Mĩ?

tác phẩm: đó là những gương mặt nam nhi
luôn mang trong mình những lẽ sống, lí
tưởng sống, mục đích cao đẹp, sẵn sàng hi
sinh vì Tổ quốc.

- Sống vì cuộc đời, vì sự nghiệp chung của
- GV yêu cầu HS liên hệ bản thân để đất nước chính là lí tưởng sống cao đẹp
rút ra bài học:
của tất cả mọi người ở mọi thời đại.
? Qua tấm gương Phạm Ngũ Lão, em - Sống trong thời bình, HS cấn biến hào
rút ra được bài học gì về lí tưởng, lẽ khí Đông A năm xưa thành tinh thần hăng
sống và nhân cách của tuổi tẻ hôm say học tập, lao động trau dồi nghị lực
nay?
sống, bản lĩnh sống để phục vụ đất nước.
Hoạt động 5. Hướng dẫn tự học (5 phút)
- Đánh giá quan niệm về chí làm trai của Phạm Ngũ Lão?
- Viết một bài văn ngắn trình bày hiểu biết của mình về Hào khí Đông A

qua bài Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lão?
2.4 Thực nghiệm sư phạm.
2.4.1. Mục đích thực nghiệm sư phạm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành nhằm mục đích kiểm tra giả thuyết
khoa học của đề tài nghiên cứu trong điều kiện hiện nay ở trường THPT đảm
bảo yêu cầu về tính khoa học, sư phạm, khả thi; từ đó góp phần nâng cao chất
lượng dạy học. Cụ thể quá trình TNSP tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Có giúp HS có thái độ tích cực và hứng thú học tập hơn hay không?
- Có tạo cơ hội giúp HS rèn luyện, phát triển tư duy hay không?
- Có tạo điều kiện để HS bộc lộ quan niệm, trao đổi thảo luận với nhau và
với GV hay không?
- Có giúp HS có tính tích cực, đoàn kết, hợp tác trong học tập hay không?
- Có nâng cao kết quả học tập của HS hay không?
2.4.2. Đối tượng và phương pháp thực nghiệm sư phạm
2.4.2.1. Đối tượng
Học sinh lớp 10A4, 10A5 ở trường THPT Đông Sơn I huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hóa năm học 2016 - 2017.
2.4.2.2. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Nhóm đối chứng: 10A4 (45 HS) ở trường THPT Đông Sơn 1, huyện Đông
Sơn.
Nhóm thực nghiệm: 10A5(45HS) ở trường THPT Đông Sơn 1, huyện
Đông Sơn
2.4.3. Kết quả thực nghiệm sư phạm
10


2.4.3.1. Đánh giá định tính
Qua quá trình giảng dạy ở lớp thực nghiệm tôi thấy:
- Học sinh hứng thú và tự giác học tập, tích cực hoạt động suy nghĩ, độc
lập sáng tạo.

- Các tiết dạy ở lớp thực nghiệm đã lôi cuốn được sự chú ý của HS, các
em tích cực suy nghĩ độc lập, thảo luận nhóm và cảm thấy tự tin hơn khi nội
dung bài học có sự tham gia ý kiến bản thân và mong muốn được sáng tạo.
- HS nhanh nhẹn, linh hoạt hơn trong việc tìm hiểu kiến thức, hiệu quả
giờ học cao hơn.
2.4.3.2. Đánh giá định lượng
Để đánh giá kết quả TNSP, tôi tiến hành cho 02 lớp ĐC và TN làm một
bài kiểm tra với nội dung phù hợp yêu cầu của chương trình.
Bài kiểm tra gồm 01 câu hình thức tự luận, thời gian làm bài 30 phút.
Đề bài: Qua tấm gương Phạm Ngũ Lão, em rút ra được bài học gì về lí
tưởng, lẽ sống và nhân cách của tuổi trẻ hôm nay?
Sau khi tổ chức cho HS làm bài kiểm tra tôi đã tiến hành chấm bài, kết
quả như sau:
Lớp

Số bài

Điểm 0 -> 4
Số bài
%

Điểm 5,6
Số
%
bài

Điểm 7 -> 10
Số bài
%


10A4 (đối chứng)

45

10

22

31

69

4

9

10A5(thực nghiệm)

45

4

9

33

73

8


18

11


3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Dạy theo phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực sẽ đạt được kết quả cao
hơn so với phương pháp truyền thống. Nhưng cần phải biết lựa chọn được
những phương pháp và kỹ thuật thích ứng với từng bài, thậm chí từng phần,
từng nội dung nhỏ sẽ đem lại hiệu quả đáng khích lệ và lâu dài.Với tinh thần ấy,
tôi đã vận dụng KT Mảnh ghép và Khăn phủ bàn trong giờ đọc hiểu bài Thuật
hoài của Phạm Ngũ Lão. Tôi nghĩ rằng bài viết sẽ giúp ích tốt hơn cho giáo viên
trong các giờ dạy các tác phẩm văn học.
Qua thực hiện đề tài, tôi rút ra những bài học kinh nghiệm trong quá trinh
hướng dẫn học sinh đọc- hiểu các văn bản văn học trung đại như sau:
* Đối với giáo viên:
- Muốn đạt được hiệu quả trong việc lựa chọn phương pháp và kỹ thuật
dạy học tích cực, trước hết, người giáo viên phải nắm vững kiến thức bài học
cũng như kiến thức lí luận về dạy văn theo đặc trưng thể loại. Phải nghiên cứu
kỹ từng bài, thậm chí từng phần, phải nắm vững tâm lý HS cũng như khả năng
trí tuệ của từng HS để giao việc.
- KT mảnh ghép và KT khăn phủ bàn đều có điểm chung là hình thành ở
HS tính chủ động, năng động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm cao trong hoạt
động đối với chính mình và các bạn trong lớp. Nếu tổ chức tốt, mỗi tiết học sẽ là
một cuộc chơi mà tất cả mọi thành viên của nhóm đều là người trong cuộc, đều
phải hoạt động một cách tích cực.
- Việc vận dụng PP-KTDH tích cực phải hết sức linh hoạt trong quá trình
lên lớp. Nó thực sự là một nghệ thuật. Vì vậy, việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị
bài ở nhà là một khâu rất quan trọng.

* Đối với học sinh:
- Một yếu tố vô cùng quan trọng là HS. GV cần phải giúp các em làm
quen với cách học theo PP mới, phải yêu cầu HS chuẩn bị bài mới thật chu đáo,
phát huy vai trò của các cá nhân… có thế bài dạy mới đạt được hiệu quả.
3.2. Kiến nghị:
Để tạo cho việc dạy học theo tinh thần hiện đại, Bộ GD & ĐT cần phải
mạnh dạn đổi mới hơn nữa trong hoạch định chương trình.
Các nhà trường cần khuyến khích giáo viên tìm tòi đổi mới để nâng cao
chất lượng dạy học, nỗ lực và đầu tư hơn nữa để đổi mới phuơng pháp, kĩ thuật
dạy học. Về phía học sinh, cần phát huy tích cực, chủ động và sáng tạo trong
quá trình học tập của mình.
Không nhất thiết và cũng không phải ở bài đọc hiểu văn bản nào cũng có
thể áp dụng hai kĩ thuật dạy học Khăn phủ bàn và Mảnh ghép. Cần căn cứ vào

12


bài học cụ thể để có thể lựa chọn phù hợp nhằm gây hứng thú cho học sinh và
nâng cao hiệu quả giờ học.
3.3. Lời kết:
Trong khuôn khổ của một bài nghiên cứu mang tính chất cá nhân, do điều
kiện và thời gian nên đề tài chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.
Trong khi đó, vấn đề vận dụng PP-KTDH tích cực phải hết sức linh hoạt
trong quá trình lên lớp. Nó thực sự là một nghệ thuật và là cả một quá trình tích
lũy kinh nghiệm lâu dài của giáo viên. Rất mong nhận được sự ủng hộ, góp ý
của đồng nghiệp để bài viết được hoàn thiện hơn và có thể dược áp dụng rộng
rãi, có hiệu quả trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn ở các trường THPT, góp phần
nâng cao chất lượng giờ dạy môn Ngữ văn.
Trân trọng cảm ơn!


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 20 tháng 5 năm 2017

Người viết
Tôi xin cam đoan bản SKKN do mình tự viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Thiều Thị Hường

13



×