Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Ngũ thường trong triết học nho giáo với việc xây dựng gia đình văn hóa ở thừa thiên huế hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.51 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là nhân tố tích cực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội thông qua việc thực
hiện các chức năng như tái sản xuất con người, sức lao
động, của cải vật chất và tinh thần của các thành viên
trong gia đình và của toàn thể cộng đồng xã hội. Đặc
biệt là gia đình có vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển kinh tế, cũng như giữ gìn, phát huy, truyền thụ
những giá trị văn hóa tinh thần từ đời này sang đời
khác, giữ vững bản sắc văn hóa dân tộc một cách bền
vững.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi
cá nhân con người là một thành viên của gia đình, sinh
ra và trưởng thành trong một gia đình. Sự tồn tại và
phát triển của gia đình được phản ánh bằng sự tồn tại
và phát triển của xã hội. Vì vậy, có thể xem gia đình là
hình ảnh thu nhỏ của xã hội.
Nho giáo cho rằng, gia đình là cái nước nhỏ có
một vị trí quan trọng trong sự phát triển của xã hội.
1


Những hành vi ứng xử, giao tiếp của mỗi thành viên
trong gia đình đều được Nho giáo quy định chặt chẽ,
phụ thuộc vào danh phận của mỗi người. Theo Nho
giáo mọi thành viên trong xã hội đều bị trói buộc bởi
Ngũ thường gồm Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Ngũ
thường quy định hành vi ứng xử của con người nó
phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện thực là quan hệ
gia đình và quan hệ xã hội. Trong gia đình, Nho giáo


rất coi trọng việc ứng xử đúng theo Ngũ luân tức là
năm mối quan hệ: vua - tôi, cha - con, vợ - chồng, anh
- em, bạn - bè. Bởi, chỉ có thực hiện đúng Ngũ luân thì
con người mới trở thành con người xã hội. Đồng thời,
theo tư tưởng Ngũ thường thì nước cũng chỉ là căn
nhà to, căn nhà nhỏ - gia đình hòa thuận thì căn nhà to
cũng hòa thuận.
Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã làm cho
các thành viên trong gia đình ứng xử với nhau theo
trật tự luân thường, đạo lý góp phần làm cho gia đình
có văn hóa, phù hợp với cương lĩnh xây dựng đất nước

2


trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng
ta.
Trong phong trào xây dựng gia đình văn hóa ở
Thừa Thiên Huế, một mặt phải phát huy truyền thống
văn hóa của dân tộc, đồng thời phải kế thừa những
điểm tích cực trong tư tưởng Ngũ thường của Nho
giáo. Bởi, ở Thừa Thiên Huế, nơi đây đã từng là thủ
phủ của vương triều nhà Nguyễn, là nơi tồn tại cuối
cùng của chế độ phong kiến Việt Nam. Học thuyết
chính trị tư tưởng tiến bộ đều được giai cấp thống trị
đưa lên vị trí độc tôn trong nền tảng đời sống tinh thần.
Tư tưởng Ngũ thường của Nho giáo đã có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến văn hóa gia đình con người xứ Huế. Mục
tiêu cuối cùng là giữ gìn và phát huy truyền thống văn
hóa của dân tộc, để Thừa Thiên Huế mãi xứng đáng là

di sản văn hóa thế giới trong thời kỳ hội nhập.
Vì lẽ đó, tôi quyết định chọn đề tài: "Ngũ thường
trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn
hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay" để làm khóa luận tốt
nghiệp cử nhân triết học.
3


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nho giáo là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ
môn khoa học, của nhiều ngành, nhiều giới. Từ trước
đến nay, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về sự ảnh
hưởng của tư tưởng Nho giáo ở nước ta. Trong đó có:
Nho giáo của Trần Trọng Kim, Nxb Văn hóa thông
tin, Hà Nội, 2001; Nho giáo xưa và nay của Quang
Đạm, Viện KHXHNV, Hà Nội, 1994; Đạo Nho và văn
hóa phương Đông của Hà Thúc Minh, Nxb Giáo dục,
2001; Mối quan hệ giữa Nhân và Lễ trong học thuyết
Khổng Tử của Nguyễn Thị Thanh Hải, Luận văn Thạc
sĩ, ĐHKH Huế, 2004; Tư tưởng Nhân, Lễ, Chính danh
trong tác phẩm Luận ngữ của Khổng Tử và vận dụng
giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay của
Nguyễn Thị Thanh Bình, Luận văn Thạc sĩ, ĐHKH
Huế, 2005...
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết trên các tạp chí,
các báo đã đề cập đến vấn đề này. Nhưng nhìn chung,
các đề tài nghiên cứu ấy đã nghiên cứu một cách tổng
quát nhất sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với các lĩnh
4



vực của xã hội Việt Nam. Việc nghiên cứu tư tưởng
Ngũ thường trong triết học Nho với việc xây dựng gia
đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay đang nằm
trong hệ thống chung chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể.
Trên cơ sở tiếp thu và hệ thống hóa kiến thức, những
quan điểm khoa học của những người đi trước dưới góc
độ triết học Mác - Lênin tôi sẽ nghiên cứu rõ hơn về
Ngũ thường trong triết học Nho giáo với việc xây dựng
gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.
3. Mục đích và đối tượng nghiên cứu của đề
tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Chỉ ra những dấu ấn mà tư tưởng Ngũ thường
trong triết học Nho giáo với việc xây dựng gia đình văn
hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay, đồng thời cũng làm rõ
nét khác biệt nổi bật trong văn hóa gia đình ở Thừa
Thiên Huế khác với các vùng trong cả nước. Từ đó,
nghiên cứu thực trạng và có những giải pháp cụ thể
nhằm xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên Huế
hiện nay.
5


Đối tượng nghiên cứu của đề tài:
Tư tưởng Ngũ thường trong lịch sử tư tưởng triết
học Nho giáo ở Trung Quốc và trong truyền thống văn
hóa Việt Nam. Những biểu hiện của tư tưởng Ngũ
thường và thực trạng của việc xây dựng gia đình văn
hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
của đề tài
Cơ sở lý luận của đề tài
Đứng trên quan điểm của phép biện chứng duy vật
trong quá trình nghiên cứu đề tài như: quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng gia đình văn hóa.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài:
Trên cơ sở mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên
cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp điều tra xã
hội học, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy
nạp, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp
lôgíc và lịch sử...
6


5. Đóng góp của đề tài
Đề tài đã nêu lên một cách có hệ thống, khoa học
về tư tưởng Ngũ thường trong triết học Nho giáo.
Đồng thời, làm rõ quan niệm về gia đình văn hóa
trong cả nước. Mặt khác, đề tài còn làm rõ thực trạng
và đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng gia đình văn
hóa ở Thừa Thiên Huế hiện nay. Tuy vậy, phạm vi
nghiên cứu của khóa luận tốt nghiệp này, do khả năng
còn hạn chế, tác giả lại sống ở Huế chưa lâu nên việc
nghiên cứu còn chưa thực sự đầy đủ và hoàn chỉnh.
Do vậy, vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu về
sau.
6. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, bố cục của
đề tài gồm có hai chương, chương 1 có 2 tiết, chương
2 có 3 tiết và Danh mục tài liệu tham khảo.

Chương 1.

7


QUAN ĐIỂM NGŨ THƯỜNG TRONG
TRIẾT HỌC NHO GIÁO
1.1.

Sơ lược sự hình thành và phát triển

của Nho giáo
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của Nho giáo ở
Trung Quốc
Nho giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm ở Trung
Hoa cổ đại, gắn liền với tên tuổi người sáng lập là
Khổng Tử. Ông sinh năm 551 TCN và mất năm 479
TCN.
Sang thời Chiến quốc, Mạnh Tử đã ra sức bảo vệ
Nho giáo, thường xuyên tỏ thái độ tôn sùng vương
đạo, khinh bỉ bá đạo, tôn sùng nhân, nghĩa, khinh bỉ
thói mưu lợi.
Thời Đông Chu kéo dài trong cảnh rối ren, loạn
lạc, từ quyền lợi của giới kinh doanh, Tần Doanh
Chính đã thống nhất Trung Hoa và xưng hoàng đế.
Tần Doanh Chính đã ra chủ trương đốt sách, chôn nho

sĩ "phần thư khanh nho" đã làm cho Nho giáo phải lao
đao khốn đốn.
8


Triều đại nhà Hán nổi lên một nhân vật quan
trọng đó là Đổng Trọng Thư. Ông đã bổ sung vào học
thuyết Khổng - Mạnh phần nói về trời đất, quỷ thần,
âm dương, ngũ hành.
Đến cuối triều đại nhà Thanh một số nhân vật
tiêu biểu hấp thụ được nhiều tư tưởng mới ở Tây Âu
về "tự do", "bình đẳng", "dân chủ" như Khang Hữu Vi,
Lương Khải Siêu. Mãi cho đến 1911 cách mạng Tân
Hợi đã giành thắng lợi, Trung Quốc mới bắt đầu từ
vũng bùn phong kiến dần dần bức lên.
1.1.2. Quá trình du nhập và phát triển của
Nho giáo ở Việt Nam
Lịch sử Nho giáo ở Trung Quốc kéo dài hơn
2500 năm thì ở Việt Nam, Nho giáo cũng đã có lịch sử
hàng ngàn năm. Trong suốt một ngàn năm đô hộ nước
ta, các thế lực phương Bắc đã dùng Nho giáo làm
công cụ đồng hóa dân tộc ta. Trong suốt thời kỳ Bắc
thuộc, Nho giáo đã không thể bám rễ được vào mảnh
đất Việt Nam. Nhưng nó lại được tiếp thu sau khi dân
tộc ta giành được độc lập từ thế kỷ thứ X.
9


Từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ XIX, Nho giáo đã có
ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Việt Nam và góp

phần không nhỏ trong việc tạo thành diện mạo của dân
tộc. Từ thế kỷ thứ XV đến thế kỷ thứ XIX, Nho giáo
được giữ địa vị độc tôn. Nho giáo thời kỳ đầu có
những yếu tố tích cực như tư tưởng đại đồng, hiếu với
cha mẹ..., bên cạnh đó, nó cũng có những yếu tố tiêu
cực như tư tưởng trọng nam khinh nữ, tính gia trưởng.
Ngọn cờ của anh em nhà Tây Sơn đã tạo nên một
xu thế tập hợp mới. Nguyễn Huệ đã tỏ rõ quyết tâm
nhất quán đi tới những sự đổi mới về tổ chức, chính
trị, quân sự và một số chính sách về ruộng đất, chủ
trương dùng chữ Nôm chính thức.
Nguyễn Ánh đã đi theo vết xe đổ của Lê Chiêu
Thống "rước voi" về giày xéo đất nước. Triều Nguyễn
cần đến lễ giáo Nho giáo với mục đích giữ lấy địa vị
của mình và khai thác Nho giáo về các giá trị đạo đức
như Tam cương, Ngũ thường..., nhằm tăng cường sự
ràng buộc các mối quan hệ trong xã hội.

10


Trên đất nước ta, Nho giáo đã có lịch sử lâu đời,
trải qua nhiều giai đoạn với những bước thăng trầm
khác nhau. Ngày nay chúng ta phê phán Nho giáo dựa
trên lập trường triết học Mác - Lênin. Từ đó kế thừa
và phát huy những nhân tố tích cực của nó để phục vụ
cho công cuộc phát triển đất nước.
1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Nho
giáo về Ngũ thường
1.2.1. Tư tưởng về đức Nhân

Nhân là phạm trù "hạt nhân” trong học thuyết của
Nho giáo, được xem là tư tưởng xuyên suốt của
trường phái này. Mặc dù vậy, khi Nho giáo quan niệm
về Nhân thì có nhiều cách quan niệm khác nhau, song
chúng ta cũng có thể hiểu Nhân với nghĩa như sau.
Trong triết học Trung quốc có hai chữ Nhân,
nhân nghĩa là người, con người và nhân nghĩa là nhân
ái, nhân đức là bản tính của con người. Theo nghĩa
hẹp là một phẩm chất đạo đức cụ thể, cơ bản và nền
tảng của con người. Theo nghĩa rộng, Nhân bao gồm
mọi đức của con người như lễ, nghĩa, trí, tín, hiếu,
11


trung..., đây là những phẩm chất có ý nghĩa bao trùm
lên mọi đức tính, bao gồm chữ nhân đứng kết hợp với
chữ nhị có nghĩa là đạo làm người.
Phạm trù Nhân được Khổng Tử đề cao là tư
tưởng chủ đạo, trong tác phẩm Luận ngữ, Ông đã nói
đến khoảng 105 lần về Nhân. Song, tùy từng hoàn
cảnh, mà Khổng Tử có một cách giải thích khác nhau,
về Nhân.
Thứ nhất: Khi trả lời Phan Trì, Khổng tử đáp:
“Người Nhân làm những việc khó khăn trước, còn
hiệu quả lượm được thì về sau, như vậy mới có thể là
Nhân được” [20, 199].
Thứ hai: khi trả lời Nhan Uyên, Khổng Tử giải
thích theo cách khác: “Dẹp bỏ tư dục làm theo điều lễ
là làm điều Nhân. Một ngày dẹp bỏ được tư dục của
mình và làm theo điều Lễ thì trong thiên hạ cũng theo

về điều Nhân. Làm điều Nhân là do nơi mình há tại
người khác sao” [20,398].
Thứ ba: khi trả lời Tử Cống về Nhân ông nói:
“Người Nhân mình muốn thành lập mà làm cho người
12


được thành lập; mình muốn thông đạt mà làm cho người
khác thông đạt. Hãy đem lòng của mình làm thí dụ để
hiểu biết lòng muốn của con người. Có thể coi đó là
phương pháp thực hành Nhân vây” [20, 212].
Còn Mạnh Tử nói, "Có Nhân thì vinh hiển,
không Nhân thì nhục nhã. Hiện nay, các bậc vua chúa
đều ghét sự nhục nhã nhưng vẫn ăn ở, sống bất Nhân.
Như vậy có khác nào mình ghét chỗ ẩm ướt mà cứ ở
chỗ thấp". "Người quân tử sở dĩ khác với người
thường là biết giữ gìn tâm của mình. Người quân tử
dùng đức Nhân để giữ gìn tâm của mình, lấy Lễ để giữ
gìn tâm của mình. Có Nhân thì yêu thương người, có
Lễ thì kính người. Mình thương người ta thì người ta
luôn thương mình, mình kính người ta thì người ta
luôn kính mình".
1.2.2. Tư tưởng về đức Lễ
Lễ là một phạm trù đạo đức, một chuẩn mực đạo
đức dùng để chỉ tôn ti trật tự kỷ cương của xã hội mà
mọi người, mọi giai cấp trong xã hội phải học, phải

13



làm theo. Trong tư tưởng Ngũ thường có các quan
niệm như sau về Lễ.
Thứ nhất: Trong tác phẩm Luận ngữ, Lễ được
Khổng tử đề cập đến hơn 70 lần. Phạm trù Lễ với nội
dung là những nghi thức, quy định trong tế lễ. Khổng Tử
cho rằng tế lễ là để tỏ lòng thành kính, khi tế lễ phải tuân
thủ theo những quy định đã định sẵn.
Thứ hai: Trong quan niệm của Tuân Tử thì chữ
Lễ cũng có nghĩa rất rộng, đối với người nào cũng
phải có Lễ: “Lễ là đối với kẻ quý thì kính, đối với kẻ
già thì hiếu thảo, đối với người lớn thì thuận, đối với
người trẻ thì từ thiện” [22, 322].
Như vậy, Nho giáo quan niệm Lễ có tác dụng bao
trùm hết tất cả các hành vi của con người và xã hội, là
khâu chủ yếu của đạo làm người và được cụ thể hóa
thành những nguyên tắc đạo đức để đánh giá đạo đức
của con người.
1.2.3. Tư tưởng về đức Nghĩa
Nghĩa, có nghĩa đen, là điều nên nói, việc nên
làm. Nói điều gì đó, làm việc gì đó, thấy thảnh thơi
14


thoải mái hứng thú trong lương tâm thì điều nói đó,
việc làm đó là điều nghĩa, việc nghĩa. Không nói điều
ấy, không làm việc ấy thì thấy bứt rứt trong lương tâm
thì như thế là có điều nghĩa không nói, có việc nghĩa
không làm.
Tuy nhiên, đức Nghĩa trong tư tưởng Nho giáo
được thể hiện một cách khác nhau qua quan niệm của

mỗi nhà tư tưởng khác nhau.
Thứ nhất: Nghĩa của Khổng Tử chính là để chỉ
cái thích đáng hay là cái đạo lý. Đồng thời Khổng Tử
coi nghĩa là phẩm chất của người quân tử còn lợi là cái
thuộc về kẻ tiểu nhân.
Thứ hai: Mạnh Tử, cho rằng, nghĩa là việc nên
làm thì làm, không nên làm thì không làm: “Người ta
ai cũng có lòng thương xót chẳng nỡ đối với việc này
hoặc việc khác, nhưng nếu mình biết đem tấm lòng ấy
mà phổ cập đến những việc mà mình chưa thương xót,
chẳng nỡ, thì mình mới thật là người nhân vậy. Người
ta ai cũng có việc mà mình chẳng thèm làm, nếu như
mình biết nới rộng khí tiết ấy mà chẳng thèm làm
15


những việc mình đương làm thì mình mới thật là
người nghĩa vậy” (Mạnh tử, Tận tâm) .
Thứ ba: Tuân Tử lại cho rằng Nghĩa là điều
không thể thiếu trong bản thân của mỗi con người và
trong xã hội. Từ đó, Ông khuyên người quân tử phải
"nắm vững cái nghĩa", chỉ theo cái Nghĩa, hướng về
quyền, trong sự chất mà vẫn nắm vững Nghĩa, không
loạn đó là cái của bậc sĩ, quân tử.
Thứ tư: đến Đổng Trọng Thư là người đã cho
rằng Nghĩa là phạm trù riêng biệt, nó khác với các
phạm trù khác như Lợi, Nhân, Lễ, Trí, Tín...Theo Ông
thì Nghĩa là để "nuôi cái tâm"- tinh thần, cao cả, lẽ
phải. Như vậy, ta thấy có nhiều quan niệm khác nhau
về đức Nghĩa, nhưng trong Ngũ thường Nghĩa cũng là

một trong năm đức cơ bản và quan trọng cùng với
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
1.2.4. Tư tưởng về đức Trí
Trong tiếng Việt người ta thường định nghĩa Trí
là "khôn" nhưng trong tư tưởng của Nho giáo Khổng
Mạnh thì Trí chỉ có ở người quân tử còn kẻ tiểu nhân
16


thì không có Trí. Trí là biết người, là dùng người trực,
bỏ kẻ gian, như vậy, có thể giáo hóa kẻ gian thành
người trực. Trí là hiểu biết được Đạo nên mọi mối
quan hệ rộng, hẹp, cao, thấp của con người với trời đất
vạn vật với người khác trong thiên hạ.
Thứ nhất: Theo Khổng Tử, con người phải có Trí
mới vươn tới được đức Nhân. Trí là hiểu biết được
đạo trên mọi mối quan hệ của con người với trời đất,
muôn vật và với mọi người.
Thứ hai: Đổng Trong Thư cũng là người đề cao
đức Trí, Ông cho rằng: không gì gần hơn là Nhân ái,
không gì thiết yếu bằng trí tuệ. Nhân ái mà không trí
tuệ thì là yêu mà không phân biệt. Trí tuệ mà không
nhân ái thì biết mà không làm. Cho nên Nhân là để
yêu nhân loại, Trí là để trừ điều hại.
Có thể nói Trí có một vai trò quan trọng trong
đạo làm người. Do vậy, phải luôn học tập để bồi
dưỡng đức Trí cho mình, để đối nhân xử thế cho phải
đạo, để vươn tới đức Nhân.
1.2.5. Tư tưởng về đức Tín
17



Tín là một từ Hán - Việt nghĩa là tin, niềm tin và
nói lên đức tính giữ lời hứa hẹn, giữ đúng điều, làm
đúng điều đã nói.
Theo Nho giáo muốn thực hiện đúng chữ Tín thì
phải giữ đúng Lễ, Chính danh, Ư lợi. Đúng Lễ là đủ
hiểu biết để thực hiện điều nhân nghĩa. Chính danh là
quan hệ đối xử đúng phận vị. Dù lợi, là lợi phải hợp
Nhân Nghĩa, lợi phải sẵn sàng chia sẻ cùng hưởng.
Đúng như Bác Hồ của chúng ta đã dạy: "Không sợ
thiếu chỉ sợ không công bằng" chính là để củng cố chữ
Tín vậy. Như vậy, chữ Tín là một đức tín rất quan
trọng đối với con người nói chung và con người trong
triết học Nho giáo nói riêng phải đặt chữ Tín lên hàng
đầu.

18


Chương 2
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP XÂY
DỰNG GIA ĐÌNH VĂN HÓA Ở THỪA THIÊN
HUẾ HIỆN NAY.
2.1. Quan niệm về gia đình văn hóa
2.1.1. Quan niệm về văn hóa và gia đình
Văn hóa: Ngày nay chúng ta thường bắt gặp danh
từ văn hóa được sử dụng rộng rãi, trong nhiều lĩnh vực
và đã có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuy
nhiên, ta có thể hiểu về văn hóa như sau: “Văn hóa là

hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo, giao lưu, tích lũy và phát triển thông
qua hoạt động cải biến và ứng xử với thiên nhiên, xã
hội và được biểu hiện dưới các thể thức ngày càng sâu
sắc, đa dạng để tôn vinh và phát triển toàn diện con
người” [37, 71; 72].
Gia đình: “Gia đình là một trong những hình
thức tổ chức cơ bản trong đời sống cộng đồng của con
người, một thiết chế văn hóa - xã hội đặc thù, được
hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở hôn nhân,
19


quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo
dục... giữa các thành viên” [13, 236].
2.1.2. Quan niệm về gia đình văn hóa
Gia đình văn hóa là gia đình bình yên, mọi thành
viên trong gia đình sống hòa thuận, giữ được các mối
quan hệ tốt đẹp, ăn ở với hàng xóm láng giềng không
xảy ra điều tiếng gì, thường xuyên quan tâm tới mọi
người, tham gia công tác xã hội nhiệt tình và có hiệu
quả, có tinh thần tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau
được mọi người tin yêu, quý mến. Từng thành viên
trong gia đình là người công dân tốt, có cuộc sống
trong sạch, lành mạnh, nề nếp, kỷ cương.
Gia đình văn hóa theo quan điểm của Đảng ta
bao gồm những tiêu chí cơ bản sau:
Một là, Thực hiện nghiêm túc chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành
các nghĩa vụ của mỗi công dân.

Hai là, Thực hiện tốt các quy ước của cộng đồng,
có quan hệ tốt với xóm làng, gia tộc, không dung túng

20


tệ nạn xã hội, không mê tín dị đoan, cờ bạc, ăn uống
bê tha.
Ba là, Thực hiện chế độ một vợ, một chồng, mỗi
cặp vợ chồng chỉ có từ một đến hai con. Xây dựng
không khí hòa thuận, đầm ấm, hạnh phúc trong gia
đình. Giáo dục và phát huy truyền thống con cháu hiếu
nghĩa với ông bà, cha mẹ; cha mẹ có trách nhiệm nuôi
dạy con cái; vợ chồng thủy chung, bình đẳng; anh em
hòa thuận.
Bốn là,Có kế hoạch phát triển kinh tế hộ gia đình
chính đáng và có hiệu quả; không ngừng nâng cao
chất lượng của các thành viên trong gia đình, thực
hiện tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí.
Năm là, Có ý thức bảo vệ môi trường sinh thái,
ăn ở hợp vệ sinh, biết bảo vệ các di sản văn hóa và các
di tích lịch sử.
2.2. Thực trạng xây dựng gia đình văn hóa ở
Thừa Thiên Huế hiện nay.
2.2.1. Xây dựng đạo đức gia đình ở Thừa
Thiên Huế hiện nay
21


Đạo đức gia đình là toàn bộ những quan niệm về

giá trị và quy phạm về hành vi của con người trong
vấn đề hôn nhân và quan hệ gia đình. Mọi cử chỉ,
hành vi, thái độ của mỗi người về hôn nhân và quan
hệ gia đình vừa thể hiện bản chất của cá nhân, vừa cho
biết bản chất của đạo đức trong gia đình.
Do ảnh hưởng của tư tưởng "Hiếu đễ là gốc của
đức Nhân" nên người dân Thừa Thiên Huế rất coi
trọng vấn đề hiếu đạo. Chuyện con cháu làm tròn chữ
hiếu với ông bà, cha mẹ mình trở thành trách nhiệm
mà ai cũng phải biết, phải làm. Điều mà những người
con nơi đây sợ nhất là" làm Mạ buồn" với họ như thế
là bất hiếu.
Lối giữ gìn đạo hiếu thái quá của người Huế thể
hiện qua việc tổ chức tang lễ, cúng tế rườm rà, tốn kém.
Nhiều gia đình tổ chức tang lễ trong nhiều ngày, bày
biện "mâm cao cỗ đầy" và xây dựng lăng mộ đồ sộ, bởi
theo họ như vậy mới làm tròn đạo hiếu.
Để xây dựng đạo đức gia đình tiến bộ, lành mạnh
góp phần xây dựng gia đình văn hóa ở Thừa Thiên
22


Huế. Trước hết, về mặt nhận thức, cần xem việc xây
dựng đạo đức gia đình là công việc quan trọng, có ý
nghĩa của mỗi một cá nhân, mỗi gia đình và toàn thể
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.2.2 Xây dựng nếp sống gia đình ở Thừa
Thiên Huế hiện nay
Nếp sống gia đình là cách tổ chức cuộc sống,
sinh hoạt ổn định của các thành viên trong gia đình,

bao gồm cả hoạt động nghề nghiệp, vui chơi, giải trí,
giáo dục con cái ăn, ngủ cũng như những ngày lễ tết.
Đó là toàn bộ sự phân công thực hiện các nhiệm vụ
khác nhau giữa các thành viên nhằm bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của mỗi một gia đình.
Về cơ bản, gia đình truyền thống ở Thừa Thiên
Huế là mẫu gia đình phổ biến có ba thế hệ cùng chung
sống duới một nếp nhà. Chính vì vậy, việc xây dựng
nếp sống gia đình ở Huế hiện nay có vai trò đặc biệt
quan trọng. Đó là nền tảng để nối kết các thành viên
trong gia đình, xây dựng nếp sống văn hóa gia đình
vững mạnh, hạnh phúc.
23


Ngày nay, ngoài việc chăm lo xây dựng gia đình
mình theo những tiêu chuẩn của xây dựng gia đình văn
hóa, thì người phụ nữ ở Thừa Thiên Huế đã vươn ra
tham gia các hoạt động xã hội để được tôn vinh là
người "giỏi việc nước, đảm việc nhà”.
Ở Thừa Thiên Huế người phụ nữ trong gia đình
có nhiệm vụ sinh con đẻ cái và chăm lo chuyện bếp
núc để phục vụ chồng con. Trong việc sinh con đẻ cái:
"Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô". Ngày nay, tuy
các phong trào vận động, tuyên truyền cũng được tổ
chức thường xuyên nhưng sự phân biệt, đối xử giữa
nam và nữ là một thực tế không thể phủ nhận được.
Trong gia đình tư tưởng trọng nam khinh nữ còn vẫn
còn tồn tại.
2.2.3. Giáo dục gia đình ở Thừa Thiên Huế

hiện nay
Gia đình văn hóa, trước hết là gương tốt, lao
động sáng tạo về trí tuệ, tài năng, về thái độ chính trị
đúng đắn của các bậc cha mẹ, anh chị có tác dụng giáo

24


dục gương mẫu quan trọng đối với các thành viên
trong gia đình người Huế.
Trong việc giáo dục gia đình ở Thừa Thiên Huế
ngày nay, chúng ta cần tiếp thu thái độ, tinh thần học
tập và đề cao việc học của tư tưởng Ngũ thường. Đó là
tinh thần "học không biết chán, dạy không biết mỏi",
học phải đi đôi với hành. Việc học tập phải được tiến
hành trong cuộc đời của mỗi người.
Trong các gia đình ở Thừa Thiên Huế thường dạy
con theo chữ Lễ theo kiểu áp đặt, gò bó, không có môi
trường cho sự sáng tạo phát triển. Đồng thời, phương
pháp giáo dục của người Huế dễ tạo nên thói quen con
cháu bắt chước ông bà, cha mẹ mình, tuân theo một
chiều ý kiến không bàn cãi, theo khuôn sáo có sẵn, trì
trệ ít phát huy được suy nghĩ độc lập trong những gia
đình có bệnh gia trưởng.
2.3. Các giải pháp xây dựng gia đình văn hóa
ở Thừa Thiên Huế hiện nay

25



×