Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Phân tích chi tiết tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia (Vũ Trọng Phụng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 12 trang )

HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
(Vũ Trọng Phụng)

A. KHÁI QUÁT
I. TÁC GIẢ
a) Vũ Trọng Phụng là một nhà văn có tài năng và phong cách nghệ thuật độc đáo,
là cây bút văn xi có sức sáng tạo dồi dào trong giai đoạn 30 – 45. Bằng sự
nghiệp sáng tác phong phú về thể loại, đồ sộ về số lượng và đặc sắc về bút pháp
nghệ thuật, Vũ Trọng Phụng đã có những đóng góp lớn lao cho sự phát triển của
văn xuôi Việt Nam hiện đại.
b) Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại nhưng đặc biệt thành cơng ở phóng sự và
tiểu thuyết – về phóng sự, ơng được coi là ơng vua phóng sự đất Bắc. Về tiểu
thuyết, ơng có những tiểu thuyết được coi là kiệt tác.
II. TÁC PHẨM
 Đoạn trích thuộc chương 15 của tiểu thuyết “Số đỏ”, có nhan đề “Hạnh phúc
của một tang gia – Văn Minh nữa cũng nói vào – một đám ma gương mẫu”.
Thông qua mâu thuẫn trào phúng và những chân dung biếm hoạ của một
đám ma gương mẫu, Vũ Trọng Phụng đã phê phán mạnh mẽ, sâu sắc bản
chất lố lăng, tàn bạo của XH thượng lưu Việt Nam 1945.
 Tiểu thuyết “Số đỏ” (1936) được coi là kiệt tác trào phúng của văn xi Việt
Nam hiện đại, trong đó nhà văn đã sử dụng thành công nhiều thủ pháp nghệ
thuật trào phúng từ văn hố dân gian như phóng đại, hiểu nhầm, nói ngược
kết hợp với bút pháp hiện đại như dùng giọng giễu nhại, mỉa mai, tạo những
tình huống đối lập, xây dựng những tình huống phản diện mang tính chất
biếm hoạ. Nguyễn Khải đã xác định “Số đỏ là một cuốn sách ghê gớm có thể
làm vinh dự cho mọi nền văn học”.
1


 Mâu thuẫn trào phúng đã xuất hiện khi “hạnh phúc” xuất phát từ một tang
gia với mối quan hệ nhân quả - đám tang mà nhộn nhịp, tưng bừng – đó là


sự trái tự nhiên, trái với lẽ thường, cũng là tình huống tạo nên tấn bi hài kịch
của nhân tình, thế thái, của đạo lý luân thường khi cái chết trở thành đại hỉ,
tang tóc trở thành niềm vui trong sự chờ đợi mong mỏi của đám con cháu
đại bất hạnh. Đó là niềm “hạnh phúc của một tang gia” vơ phúc!
B. TÌM HIỂU TÁC PHẨM: NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG TÁC
PHẨM: “HẠNH PHÚC CỦA 1 TANG GIA”
1. Mâu thuẫn trào phúng
1.1. Mâu thuẫn trào phúng qua nhan đề tác phẩm “Hạnh phúc của một
tang gia”.
Theo đạo lý và tình cảm thơng thường, trong tang gia khơng thể có hạnh phúc. Một
gia đình có tang, hơn nữa lại là đại tang lễ thì lẽ ra mọi người phải hết sức đau
buồn bởi sự mất mát và nỗi đau đớn, tiếc thương. Khơng khí trong tang gia phải là
một khơng khí bi ai, tang tóc. Nhưng cái tang lớn trong một gia đình vẫn được coi
là “danh giá, nền nếp gia phong” ở tác phẩm “Số đỏ” này lại khơng hề có khơng
khí và những tình cảm thơng thường ấy. Trái lại, cái chết của cụ cố tổ đã đem đến
một niềm hạnh phúc, sung sướng cho tất cả con cháu, người thân và bạn bè của gia
đình họ. Thậm chí, niềm hạnh phúc ấy cịn to lớn đến nỗi nó cứ tự phát mà bung
ra, tràn trề, khơng thể ghìm nén lại được. Vì sao lại có chuyện ngược đời ấy? Thì ra
cái người nằm xuống là cụ cố Tổ nhà ấy vốn nắm giữ một gia sản lớn. Cụ lại làm
di chúc rằng chỉ khi nào khi nào cụ khuất núi rồi thì mới được chia gia tài. Thế là
tất cả đám con cháu bất hiếu của cụ cứ mong ngày mong đêm cho cụ chết quách để
cái chúc thư chóng được thực hiện. Sau khi dùng kế “lấy chữ hiếu để giết bố” của
cố Hồng (con trai cụ cố tổ) và kế “nhiều thầy thối ma” của Văn Minh (cháu rể) để
giết cụ không thành, ông Phán dây thép, chồng cơ Hồng Hơn, cũng là một ông
2


cháu rể q hố của cụ liền dùng đến đơi sừng vơ hình mà vợ ơng cắm cho để làm
diệu kế, đánh vào danh dự gia đình, khiến cụ phải uất lên mà chết. Cái chết bất ngờ
của cụ cố tổ đã khiến cho cái chúc thư kia thực sự “đi vào thời kỳ thực hành chứ

khơng cịn lí thuyết viển vơng nữa”. Do vậy mà nó cũng đem đến niềm hạnh phúc
to lớn, làm thoả mãn nỗi ao ước bấy lâu cho tất cả mọi người trong gia đình cụ:
“Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Bọn con cháu vô tâm ai
cũng sung sướng thoả thích.. Người ta tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi
phường kèn, th xe đám ma”. Gia đình cụ cố tổ chuẩn bị đám ma vui vẻ như
chuẩn bị một đám hội, “thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả”. Thật là một tình
huống bi hài có một không hai.
1.2 Sau nhan đề, mâu thuẫn trào phúng đã được nhà văn miêu tả cụ thể,
sinh động, sắc sảo trong diễn biến đám tang. Đó là mâu thuẫn giữa bất hạnh và
hạnh phúc, giữa đau khổ và sung sướng, giữa sự trang nghiêm thành kính với
cái bát nháo, nhố nhăng… Và bao trùm lên tất cả, đó là mâu thuẫn giữa cái lẽ
tự nhiên cần có của luân thường đạo lý với những biểu hiện trái tự nhiên trong
thực tế của đám tang.
- Cái chết của cụ tổ không hề làm con cháu buồn khổ theo lẽ thường mà trái lại, đó
là cái chết được chờ đợi, khao khát từ bao lâu nay. Để có được cái chết mà cả gia
đình mong đợi, ơng cháu rể đã phải dùng khổ nhục kế một cách hào hứng, bỏ tiền
ra th Xn tóc đỏ tố cáo việc ơng ta mọc sừng khiến cụ tổ vì nhục nhã, tức uất
lên mà lăn đùng ra cấm khẩu và “3 hôm sau ông cụ già chết thật” – chữ “thật”
khiến câu văn mở đầu mà “hạnh phúc của một tang gia” nghe như một lời reo vui,
một tiếng thở phào sung sướng, nhẹ nhõm sau bao ngày mong mỏi, đợi chờ, phấp
phỏng. Để trả công cho con rể, cố Hồng đã sung sướng và phấn khích chia thêm
cho con gái, con rể thêm 2000 đồng trong số tài sản thừa kế. Cũng vì niềm mong
mỏi cái chết của ông nội mà Văn Minh chồng băn khoăn khơng biết xử trí Xn
tóc đỏ như thế nào cho phải khi bên cạnh bao nhiêu “tội nhỏ” thì thằng này lại có
3


ơn to khi “gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết” mà mãi khơng chết. Và cũng
vì sự mong mỏi quái gở, tàn nhẫn ấy mà danh giá và uy tín của thằng Xuân càng
cao hơn khi hắn chỉ nói một câu mà đã đưa đến cho đại gia đình cố Hồng niềm

hạnh phúc lớn lao!
- Hạnh phúc do cái chết của cụ tổ đem đến con cháu đã được Vũ Trọng Phụng
miêu tả rất sinh động. Đó là thứ hạnh phúc tột bậc, tràn trề và không thể kiềm chế
dành cho tất cả mọi người, từ trong đến ngoài tang gia “Cái chết kia đã làm cho
nhiều người sung sướng lắm…”. Những từ “hạnh phúc, sung sướng, vui vẻ” được
lặp đi lặp lại trong suốt màn bi hài kịch: “Con cháu tưng bừng, vui vẻ đi đưa cáo
phó, gọi phường kèn, đi thuê xe đám ma… Tang gia ai cũng vui vẻ cả…Bọn con
cháu vô tâm cũng sung sướng thoả thích”; rồi sư cụ Tăng phú, cảnh sát Min đơ
Min toa; hàng phố; những người đưa đám… tất cả đều sung sướng, rạng rỡ và
phấn chấn. Đoạn văn đã dựng lên sinh động cảnh “tang gia bối rối” với tất cả
những “băn khoăn, lo lắng, bận rộn… nhưng nguyên nhân của những lo lắng, băn
khoăn, bận rộn ấy là để tổ chức cho “to tát, linh đình, long trọng”. một ngày vui,
một đám hội để đem lại lợi ích, “danh giá” cho người sống chứ tuyệt nhiên khơng
phải vì những khổ sở, bối rối “khi lo đám tang cho người chết”. Chi tiết cụ bà
“sung sướng kêu: “Ấy giá có khơng có món ấy thì là hiếu chưa được to, may mà
ông Xuân đã nghĩ hộ tôi!”. Khi Xuân tóc đỏ - kẻ đã “gây ra cái chết” của cụ tổ xuất hiện cùng những chiếc xe che lọng và những vòng hoa đồ sộ càng cho thấy sự
lố bịch, tàn nhẫn của đám tang. Khơng khí đám tang vui vẻ, om sịm, nhộn nhịp,
đơng đảo như đám hội, đám cưới, cuốn hút sự chú ý và ban phát hạnh phúc cho tất
cả mọi người.
- Không hề có khơng khí trang nghiêm, thành kính cần có, sự lố bịch, kệch cỡm và
giả dối tộ cùng của đám tang đã được nhà văn miêu tả bằng giọng điệu hài hước
qua những cảnh tượng hổ lốn: Đám tang có “kèn bát cống”, có “lợn quay đi lọng”,
có “kèn ta, kèn tây, kèn đồng lần lượt thay nhau mà rộ lên”, có “hàng trăm câu đối,
4


vịng hoa, bức trướng”, có “vài ba trăm người đi đưa, ăn mặc sang trọng”, có “tú
Tân vừa chỉ huy những nhà tài tử chụp ảnh rầm rộ nhảy lên những ngôi mả”, vừa
“bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau
mắt…để cậu chụp ảnh lúc hạ huyệt…”. Câu văn trần thuật “Đám cứ đi” được viết

thành một dòng riêng, lặp lại mấy lần, tạo ra ấn tượng sâu sắc và toàn cảnh viễn
cảnh của một đám tang đông đúc và huyên náo, tạo ấn tượng về sự diễn biến kéo
dài tới trơ tráo, bất chấp mọi chê bai, khinh bỉ, ghê rợn của những người chứng
kiến có lương tri, nhờ đó, những sự lố lăng, đồi bại, giả dối của bọn người đi đưa
đám đã bày ra một cảnh vô sỉ giữa cuộc đời.
1.3 Mâu thuẫn trào phúng còn được thể hiện trong những trạng thái tâm
lý tương phản trước và sau khi phát phục:
- Với “một bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chơn cho chóng cái xác của
cụ Tổ”, việc chậm trễ của đám tang bị coi là điều đáng chỉ trích, phê phán, phái trẻ
thì “la ó”, cậu tú Tân “điên người lên”, bà Văn Minh “sốt cả ruột”, ơng Typn “rất
bực mình”, họ om sịm đổ lỗi cho nhau, còn cố Hồng “cứ nhắm mắt lại kêu khổ
lắm”… Tất cả những sự bất bình ấy đều xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất:
những mong muốn riêng tư của họ bị trì hỗn khi chưa có lệnh phát phục: Cậu tú
Tân chưa được dùng đến những cái máy ảnh đã được chuẩn bị sẵn sang, bà Văn
Minh chưa được mặc những bộ đồ xô gai tân thời, “cái mũ mấn trắng viền đen để
lăng xê mốt sáng tạo mới nhất của thời trang áo tang”, ông Typn chưa được thấy
“những sự chế tạo của mình ra mắt trước công chúng”.
- Lệnh phát phục thông thường là giây phút đau buồn nhất của tử biệt sinh ly
nhưng trong đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia”, đó lại là giây phút tưng
bừng hạnh phúc bởi đã làm thoả mãn, toại nguyện những mong mỏi, khát khao, đợi
chờ của tất cả những người tham dự đám tang. Vũ Trọng Phụng đã để cho các
nhân vật của mình thoả sức hành động. Qua đó, họ đã tự bộc lộ khơng chỉ mong
mỏi, khao khát; những toan tính, ý đồ mà còn cả nhân cách đáng ghê sợ. Min đơ
5


Min toa thì “sung sướng cực điểm’ vì được thuê giữ trật tự cho đám tang, “giữa lúc
khơng có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như nhà buôn sắp vỡ nợ”, sư cụ
Tăng phú được “sung sướng mà vênh váo”, cô cháu gái người chết được mãn
nguyện trong bộ trang phục Ngây thơ, lộng lẫy và lãng mạn. Cụ cố Hồng được dịp

mếu máo và ngất đi theo đúng kịch bản, Tú Tân và bạn hữu “được dịp rầm rộ nhảy
lên những ngôi mộ” để chụp ảnh. Các bạn của cố Hồng được dịp khoe râu ria, khoe
huân chương và nhất là được “cảm động” nhìn trộm “làn da trắng thập thò” trong
ngực áo cháu gái người chết. Đám trai thanh gái lịch được dịp hẹn hò, gặp gỡ, để
nói với nhau những câu “ý nhị”…
 Tóm lại, như vậy việc khai thác triệt để mâu thuẫn trào phúng trong những trạng
thái tâm lý đơn giản này đã giúp Vũ Trọng Phụng phơi bày chân tướng xấu xa của
một XH “chó đểu”, khi cái chết của người này trở thành hạnh phúc của người kia;
khi cái chết trở thành phương tiện thoả mãn ý đồ cho người sống; khi giờ phút tử
biệt sinh ly trở thành ngày hội tưng bừng.
1.4 Yếu tố gây cười chua xót nhất chính là mâu thuẫn giữa cái thật và cái
giả, giữa hình thức và nội dung, giữa biểu hiện bên ngoài và bản chất bên
trong.
- Bên ngồi là hình thức của một tang gia chí tình chí hiếu, lo tổ chức một đám ma
to tát, linh đình đến mức “người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung
sướng, nếu không gật gù cái đầu” – nhưng đằng sau những tiếng “khóc lóc”, những
gương mặt “mếu máo, buồn rầu” lại là sự sung sướng, phấn khích bởi những lợi
ích cả về tinh thần và vật chất mà cái chết và đám ma đem lại.
- Ngòi bút sắc sảo của Vũ Trọng Phụng đã cho thấy tất thảy mọi người đi đưa đám
đều là những diễn viên của màn bi hài kịch đáng buồn và đáng cười trong những
chiếc mặt nạ giả dối. Cụ cố Hồng “ho khóc, mếu máo và ngất đi” khơng phải vì
thương tiếc người cha mà là để hưởng niềm sung sướng được thấy “thiên hạ phải
chỉ trỏ: Úi kìa, con giai lớn đã già đến thế kia kìa!”. Vẻ “đăm đăm chiêu chiêu” của
6


Văn Minh chồng có vẻ rất hợp với: “cái mặt một người lúc gia đình đương tang gia
bối rối” thực ra lại không phải là đau buồn tiếc thương cho ơng nội mà chỉ vì
“khơng biết xử trí với Xn tóc đỏ ra sao cho phải”; vẻ đẹp “buồn lãng mạn rất
đúng mốt một nhà có đám” của cơ cháu gái người chết lúc đầu vì “khơng thấy bạn

giai đâu trong mọi người đưa đám”; sau lại là để tăng thêm sự khêu gợi lẳng lơ.
Ông Phán “oặt người đưa khóc mãi khơng thơi” chính là để “nhanh chóng và kín
đáo cho thằng Xn tóc đỏ”; phía sau những bộ mặt nghiêm chỉnh, buồn rầu của
đám giai thanh gái lịch đi đưa đám là những lời thì thào vơ giáo dục, những trị
“ghen tng nhau, hẹn hị nhau…” – chúng nói tất cả
mọi điều từ tình đến tiền mà tuyệt nhiên không nhắc đến người chết mà chúng đi
đưa đám!
 Qua việc xây dựng một tình huống bao hàm những mâu thuẫn trào phúng đặc
sắc, Vũ Trọng Phụng đã cho thấy tồn bộ đám tang là một trị bịp lớn, luân thường
đạo lý đã bị huỷ hoại trong cả chiều sâu của quan hệ gia đình và chiều rộng của
những quan hệ XH.
2. Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng còn được thể hiện qua việc
nhà văn sử dụng thành công, linh hoạt những thủ pháp trào phúng đặc sắc.
- Dân gian thường dùng cách nói phóng đại để tạo ra tiếng cười. Con số 1872 câu
gắt “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” của cố Hồng do thằng bồi đếm được trong một
buổi sáng là một chi tiết phóng đại. Và nhờ đó nhà văn đã tơ đậm sự lố bịch, kệch
cỡm của một lão già thích tỏ ra quyền uy – cái quyền uy có được nhờ cha chết.
- Giọng văn châm biếm đã được tạo ra bằng những lời châm biếm, bình luận hài
hước, những cách nói ngược thâm thuý, cách đặt câu chứa đựng những mâu thuẫn
trào phúng như: “Thuốc Thánh đền Bia chữa ho lao, thương hàn cơng hiệu đến nỗi
ho mất mạng”. Hoặc cịn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa rất xứng đáng với
những người đi đưa đám ma; ngoài ra còn những câu văn phơi bày sự thực sau cái
7


giả dối: “Bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột cho chơn cho chóng cái xác của cụ
Tổ”.
- Thái độ châm biếm đặc biệt thể hiện trong những lời miêu tả, liệt kê tỉ mỉ, chính
xác, những lời kể có vẻ khách quan nhưng vẫn không giấu được sự mỉa mai, cay
độc. Đó là khi nhà văn miêu tả các bạn thân của cụ cố Hồng “ngực đầy huân

chương như Bắc đẩu bội tinh, Long bội tinh, vân vân…”, “trên mép và cằm đều đủ
râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm,
loăn quăn…”, “Khi trơng thấy làn da trắng thập thị… ai nấy đều cảm động hơn
khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng”; hoặc nhà văn miêu tả đám giai
thanh gái lịch “cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tng nhau,
hẹn hị nhau = những vẻ mặt buồn rầu của người đi đưa ma”.
- Cách dựng đoạn văn cũng rất đặc sắc, làm tăng thêm sắc thái trào phúng: kết hợp
miêu tả toàn cảnh viễn cảnh với “đám cứ đi…đám cứ đi”, với cận cảnh, khi phóng
to, đặt vào những chi tiết kệch cỡm, nhố nhăng giả dối: về nhạc khí, về dáng vẻ,
nét mặt từng người thậm chí trong câu nói thào thào vô giáo dục.
3. Chân dung trào phúng (biếm hoạ)
3.1 Nhân vật cụ cố Hồng
Đây là nhân vật được Vũ Trọng Phụng khắc hoạ đậm nét trong số những diễn viên
của màn bi hài kịch tang gia hạnh phúc, nhân cách của cụ cố Hồng đã được thể
hiện trong những lời nói, suy nghĩ, dáng vẻ và cả trong những hành vi, cử chỉ mà y
đã diễn rất đạt ở đám tang cha.
- Ấn tượng đầu tiên mà cố Hồng đem đến cho người đọc là câu gắt: “Biết
rồi, khổ lắm, nói mãi”. Chi tiết thằng bồi tiêm đếm được 1872 câu gắt vô nghĩa,
ngớ ngẩn đã cho thấy sự lố bịch, kệch cỡm của một kẻ thích tỏ ra quyền uy, già cả,
quan trọng nhờ cái chết của cha. Sự chính xác của con số đếm là phóng đại, khó có
thực, nhưng sự lố bịch kệch cỡm của cố Hồng lại là có thực – nhà văn đã dùng một
8


hình thức khơng có thực để thể hiện chân thực & sinh động cái lố bịch, kệch cỡm
có thực.
- một chi tiết khác khá điển hình làm người đọc phải ghê sợ cho nhân cách
cố Hồng, đó là việc y “nói nhỏ vào tai ơng Phán mọc sừng là sẽ chia thêm cho vợ
chồng hắn vài nghìn đồng”. Nói đến việc chia tài sản khi cha vừa chết, thậm chí
khi chưa “phát phục”, đó là sự bất hiếu; ngầm trả cơng cho kẻ gián tiếp giết cha, đó

là bất nhân. Việc “nói nhỏ vào tai” con rể cho thấy cố Hồng hoàn toàn ý thức được
sự bất hiếu, bất nhân đó, y khơng dám nói to lộ liễu, nhưng cũng khơng thể kiềm
chế sự phấn khích, khơng thể trì hỗn niềm vui và sự biết ơn con rể bởi chính cái
chết của cha đã đưa y lên vị trí cao nhất trong gia đình, được người ta gọi là “cụ
cố” như niềm mong ước bấy lâu nay, được quyền cầm cân nảy mực phân chia tài
sản… Và do vậy, sự bất hiếu, bất nhân càng được đẩy tới cao độ của sự đê tiện.
- Sự lố bịch, ngu dốt, kệch cỡm của cố Hồng đã hiện ra trong chi tiết y
“nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến lúc mặc đồ xô gai, lụ khụ chống gậy, vừa
ho khạc vừa khóc mếu”, diễn trị già nua ốm yếu giữa phố đông người. Bổ ngữ
nghệ thuật trong cụm từ “nhắm nghiền” có giá trị cực tả niềm sung sướng đến tột
đỉnh của đứa con trai đang đê mê tận hưởng cảm giác lâng lâng khoan khối đầy
phấn khích khi tưởng tượng ra mình được coi là già cả trong đám tang cha, được
hàng phố trầm trồ khen ngợi, chỉ trỏ: “Úi kìa…”. Khi đám tang có nhiều con cháu
và con cháu càng khơn lớn cũng có nghĩa là người chết được hưởng thọ cao, đó
được coi là gia đình có phúc. Nhưng tâm địa bất nhân, bất hiếu của cố Hồng đã
khiến cái gọi là phúc của gia đình này lại trở thành biểu hiện rõ nhất của sự vô
phúc! Cái nhìn sắc sảo của nhà văn đã nhận ra từ trong dáng vẻ mơ màng của cố
Hồng một niềm vui bất nhân đến kì dị. Chỉ rõ dã tâm của những đứa con bất nhân,
bất hiếu nên khi cố Hồng “mếu máo và ngất đi” lúc hạ huyệt, nhà văn khơng cần
bình luận một câu nào mà vẫn khiến người đọc ghê sợ vì hiểu rằng đây là màn diễn
trị ngoạn mục theo đúng kịch bản mà y đã mơ màng “hình dung từ trước”!
9


3.2 Văn Minh chồng
Chỉ trong một đoạn văn ngắn khoảng vài dòng, Vũ Trọng Phụng đã khắc hoạ rõ
nét chân dung của Văn Minh chồng với cả nội tâm cùng dáng vẻ.
- Giọng điệu trào phúng trong câu văn miêu tả dòng độc thoại nội tâm của
Văn Minh chồng vừa sung sướng vừa “Thế là từ nay mà đi cái chúc thư kia sẽ vào
thời kỳ thực hành chứ không cịn là lý thuyết viển vơng nữa.”. Đã thế trong niềm

vui rất thực tế của đứa cháu đích tơn khát tiền mong mỏi cái chết của ông nội như
một điều kiện lý tưởng cho việc thực hiện chúc thư. Hoà vào niềm vui chung của
cả tang gia hạnh phúc, niềm vui của Văn Minh thực tế hơn và do đó cũng lạnh
lùng, tàn nhẫn, đáng ghê sợ hơn niềm vui kì dị, lố bịch của cố Hồng.
- Lưỡi dao trào phúng sắc bén của nhà văn còn lách vào bên trong cái vẻ
“đăm đăm chiêu chiêu” đúng với cái mốt một người lúc gia đình đương “tang gia
bối rối” để phát hiện tâm địa thật của hắn. Hoá ra Văn Minh chồng phân vân vị
đầu bứt tóc khơng phải vì xót thương ơng nội mà vì chỉ vì “Khơng biết xử trí với
Xn tóc đỏ ra sao cho phải” khi Xuân tóc đỏ có “2 cái tội nhỏ, một cái ơn to”. 2
cái tội nhỏ là “quyến rũ một em gái…, tố cáo cái tội hoang dâm của một em gái
khác”, nghĩa là huỷ hoại danh dự và danh tiết của 2 đứa em gái Văn Minh nhưng
bù lại, hắn có “một cái ơn to” là “gây ra cái chết của ơng cụ già đáng chết”, cũng
có nghĩa là giúp cho Văn Minh có tiền khi “cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực
hành”. Cách phân định “ơn và tội”, cách đánh giá “tội nhỏ và ơn to” trong suy nghĩ
của Văn Minh đã thể hiện chân thực bản chất đáng ghê sợ của hắn – một kẻ coi
tiền bạc quan trọng hơn cả danh dự, đạo lý và tình cảm gia đình.
3.3 Ơng Phán mọc sừng
- Chất hài hước đã hiện ngay trong tên ghép “Ông Phán mọc sừng” của y,
người ta thường gọi những ông chồng bị vợ phản bội bằng 2 chữ “mọc sừng” bỡn
cợt, nhưng ít nhiều cịn thương hại. Cịn với con rể cố Hồng, đó lại là tên y phải
thuê Xuân tóc đỏ gắn cho mình, cơng khai hố nỗi nhục nhã của mình một cách hả
10


hê, sung sướng. Cái tên kép “Ông Phán mọc sừng” đã theo y trong cả tác phẩm
như một minh chứng cho sự xuống cấp thê thảm của danh dự, nhân cách và đạo lí.
Sự hài hước khơng đặt ra trong tình cảnh một người đàn ơng ngờ nghệch bị vợ cắm
sừng mà lại xuất hiện ở thái độ sung sướng một cách bỉ ổi, đê tiện của một người
chồng hăm hở, hào hứng dùng trị khổ nhục kế, tìm cách khai thác danh tiết của vợ
và nỗi nhục của mình để kiếm tiền!

- Cảm giác ngạc nhiên, sung sướng của Phán mọc sừng khi “không ngờ giá
trị đôi sừng hươu vơ hình trên đầu ơng ta lại to đến thế”. Sự ngưỡng mộ chân
thành, ngu xuẩn về tài quảng cáo của Xuân tóc đỏ khi hắn chỉ nói có một câu mà
làm cho hắn thêm được vài nghìn bạc, niềm phấn chấn hi vọng khi Phán mọc sừng
“muốn trù tính ngay với Xuân về một công cuộc doanh thương”; nỗi sốt ruột muốn
gặp ngay Xuân để trả nốt 5 đồng, “trước khi bn bán cũng phải giữ chữ tín làm
đầu” – đó là những trạng thái cảm xúc của một kẻ đê tiện, bất nhân, vơ sỉ, đang trù
tính một công cuộc doanh thương bằng số vốn kiếm được từ chính nỗi nhục nhã,
dơ dáy
của mình.
- Chi tiết Phán mọc sừng “oặt người đi khóc mãi khơng thơi” với những
tiếng “hứt…hứt…hứt” cũn tang – đó là niềm vui bệnh hoạn, quái gở, bất nhân của
những kẻ sẵn sàng kiếm lợi trong tang tóc đau thương, những kẻ nghĩ rằng ai cũng
như chúng, thản nhiên lấ g là một màn diễn trò ghê sợ. Trong trò bịp bợm của đám
tang cụ cố, y đã dùng những tiếng khóc lộ liễu để che đậy những cử chỉ lén lút, kín
đáo khi “oặt người đi, dúi vào tay thằng Xuân một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư” trả
cơng cho nó về việc gây ra cái chết của ông cụ già nua mà y đang khóc than thảm
thiết.
3.4 Một số chân dung khác
- Bà Văn Minh vui sướng vì được lăng xê mốt thời trang áo y đám tang của
người thân làm nơi trưng diện, hẹn hị, tình tứ.
11


- Chân dung cô Tuyết cũng được phác hoạ thật ấn tượng từ cảm xúc, dáng
vẻ, nét mặt đến trang phục. Nỗi “đau khổ một cách rất chính đáng” và cảm giác
“như bị kim châm vào lịng” của cơ cháu gái trong đám tang ơng nội lại hồn tồn
khơng phải xót thương cho cái xác chết đang nằm đấy; cơ ta đau khổ, lo lắng chỉ vì
“khơng thấy bạn giai đâu trong bọn người đưa đám”.Trưng diện cho mình bộ trang
phục Ngây thơ hở hang, sắm sẵn cho mình “một vẻ buồn lãng mạn” rất đúng mốt,

sẵn sàng khêu gợi lẳng lơ từ các ông già “mép và cằm đều đủ râu ria” đến liếc mắt
đưa tình với thằng Xuân… Cô cháu gái người chết đã bổ sung cho sự bất nhân, bất
hiếu của cha, anh một nét sa đoạ, dơ dáy.
 KL
Bằng những thủ pháp trào phúng sắc sảo, bằng thái độ châm biếm đả kích
thể hiện trong từng bức chân dung, từng câu đối thoại, từng lời trần thuật nhiều khi
có giá trị như những lời bình luận đích đáng, cay độc, Vũ Trọng Phụng đã lên án
gay gắt thói háo danh, hám lợi, thói hợm hĩnh rởm đời vơ nghĩa lý, bao trùm lên là
thói đạo đức giả của XH tư sản thành thị Việt Nam đầu thế kỷ XX. Với nghệ thuật
trào phúng sắc sảo, có thể khẳng định như lời nhận xét của nhà văn Nguyễn Khải:
“Số đỏ là một cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”.

12



×