Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích chi tiết tác phẩm Vội vàng (Xuân Diệu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.69 KB, 14 trang )

VỘI VÀNG
(Xuân Diệu)
A.

KHÁI QUÁT
1. Tác giả
-

Xuân Diệu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại trong giai đoạn 32 –
45. Ông được coi là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới. Hoài Thanh
từng nhận xét: “Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy…
Xuân Diệu say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận
hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình.” Yêu cuộc sống, khao khát tận hưởng
cuộc sống nhưng lại luôn hoài nghi, chán nản, lo âu, luôn sợ thiếu thời gian
cho tình yêu là nét đặc sắc trong cả tứ thơ Xuân Diệu.

-

Nói đến Xuân Diệu là nói đến sự kết hợp giữa hai yếu tố cổ điển và hiện đại.
Nhưng trong đó đậm nét hơn là chất hiện đại. Đây là ngòi bút đã đúc kết
được tinh hoa của cả thơ phương Tây và thơ truyền thống trong tư tưởng và
quan niệm thẩm mĩ.

2. Tác phẩm
“Vội vàng” là một trong những bài thơ hay nhất trong tập “Thơ thơ” (1938), cũng
là thi phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Diệu. Bài thơ vừa như một dòng cảm xúc
ào ạt, trào dâng, vừa như một bản tuyên ngôn mới mẻ và tích cực của một nhà thơ
luôn khao khát giao cảm với cuộc đời.
B. TÌM HIỂU TÁC PHẨM
Đề 1. Phân tích 11 câu thơ đầu trong bài “Vội vàng” để làm sáng rõ niềm yêu
đời say đắm của Xuân Diệu.


 Mở bài
-

Tác giả, tác phẩm: A (1, 2.1)

1


-

Đoạn thơ phân tích là 11 câu thơ đầu của bài thơ, trong đó thể hiện rõ nét
niềm đắm say tha thiết với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

 Thân bài
1. Trong 4 câu thơ đầu, Xuân Diệu đã thể hiện ước muốn phi lý, thiết tha của
niềm yêu. Tác giả đã mở đầu bài thơ của mình bằng 4 câu ngũ ngôn bồng bột
và gấp gáp:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
-

Điệp ngữ “Tôi muốn” nhấn mạnh sự da diết, mãnh liệt của ước muốn, cũng
là cách tô đậm cái tôi chủ quan, cái tôi ước muốn luôn xuất hiênk trong văn
học lãng mạn nói chung và trong thơ Xuân Diệu nói riêng.

-

Các động từ “tắt”, “buộc” với sắc thái tiêu cực đã khắc họa ước muốn của

nhà thơ có vẻ như phũ phàng, khi đặt trong 2 cụm từ “tắt nắng”, “buộc gió”,
nó càng gợi lên sự phi lí, kì lạ đến trái tự nhiên của ước muốn. Cái tôi chủ
quan muốn chế ngự, chi phối những hiện tượng khách quan, vĩnh hằng, bất
biến.

-

Tuy nhiên, các phó từ “cho”, “đừng” lặp lại trong 2 câu thơ 2 và 4 đã bộc lộ
sắc thái van nài, khẩn khoản thật tha thiết của ước muốn. Thì ra nhà thơ
muốn “tắt nắng” là để nắng đừng làm nhạt phai sắc màu của cỏ cây hoa lá,
muốn “buộc gió” là để giữ cho hương đời không bị thổi bay. Và như vậy, cả
4 câu thơ đầu thật mạnh mẽ, da diết ước muốn được say sưa, gần gũi với
hương sắc cuộc đời của một trái tim yêu đời mãnh liệt.

2. Nỗi lo sợ “màu nhạt, hương bay” ở 4 câu thơ đầu đã được lý giải thực sự
thuyết phục bởi niềm say đắm tha thiết với vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống
nơi trần thế, đã được miêu tả thật tài hoa trong 7 câu thơ tiếp sau.
2


-

Đoạn thơ sau mở đầu bằng từ “của” đã xác định mối quan hệ ngữ pháp gắn
kết giữa 2 đoạn, choc ho thấy “màu” và “hương” mà nhà thơ muốn nâng niu,
gìn giữ ở đoạn trên chính là thuộc về ong bướm, là hoa, chim chóc… được
miêu tả trong đoạn dưới.

-

Điệp ngữ “Này đây” được lặp lại trong cả đoạn thơ đã tạo ra một ngữ điệu

liệt kê, vừa bày tỏ niềm hân hoan sung sướng của thi nhân, vừa thể hiện sự
giàu có, thừa thãi và phong phú của hương sắc cuộc đời. “Này đây” vừa là
sự hiện hữu ngay trước mắt trong không gian, vừa là khẳng định sự tồn tại
ngay lúc này của thời gian – vẻ đẹp cuộc đời đang hiện hữu ngay trước mắt,
trong tầm tay, giữa cuộc đời thực, trong khoảnh khắc của hiện tại.

-

Sau điệp ngữ “Này đây” là một bức tranh chan chứa xuân tình, tất cả đều
được hiện ra trong lăng kính của tình yêu, được nhìn bằng đôi mắt say sưa
chiêm ngưỡng, được cảm nhận bằng trái tim mê đắm, khao khát sở hữu,
chiếm lĩnh, tận hưởng. Hương sắc cuộc đời đã hiện lên thật hấp dẫn, sống
động, gợi tình và tươi tắn trong những định ngữ nghệ thuật đặc sắc:
+ Hương sắc cuộc đời trước hết hiện ra trong tuần tháng mật của
bướm, ong. Nhưng tuần tháng mật không chỉ là mật ngọt của thiên nhiên hoa
trái mà còn gợi những lien tưởng ngọt ngào đến những thời gian nồng nàn,
ngây ngất, yêu đương tuần trăng mật của tình yêu đôi lứa – với Xuân Diệu,
thời gian của cuộc đời con người luôn tràn đầy niềm yêu, sự ngọt ngào, mê
đắm như trong tuần trăng mật của lứa đôi.
+ Sau đó là “hoa của đồng nội xanh rì” – “Lá của cành tơ phơ phất.”
Nếu tính từ “xanh rì” làm hiện lên sự mênh mông của những cánh đồng
xanh, trên đó nổi bật những cánh hoa tươi thắm, những cánh hoa như sự tích
tụ tinh túy nhất của sự sống tràn trề trên đồng nội xanh thì trong câu thơ sau,
sự kết hợp tài hoa giữa từ láy “phơ phất”, cách láy vần trong những âm tiết
mang tới hình ảnh của “cành tơ phơ phất” lại gợi tả những lá, cành mơn
3


mởn, non tơ nhưng cũng thật mềm mại, mong manh, yếu đuối trong gió
xuân, những hình ảnh khiến ta vừa say đắm, vừa e ấp thương yêu.

+ Vẻ đẹp của cuộc đời không chỉ được cảm nhận bằng thị giác mà còn
hiển ra qua thính giác. Tiếng chim hót qua niềm yêu của thi nhân cũng
không chỉ là những thanh âm véo von, ríu rít của tự nhiên mà còn là “khúc
tình si” đắm đuối của lòng người bởi “yến anh” thường là biểu tượng cho
hạnh phúc lứa đôi.
+ Hình ảnh ẩn dụ về “ánh sáng chớp hàng mi” là một cách biểu hiện
quen thuộc trong thơ Xuân Diệu. Ông thường miêu tả những hình ảnh thiên
nhiên theo dáng vẻ con người, bởi quan niệm con người là chuẩn mực cao
nhất của cái đẹp. Với cảm nhận ấy, ánh dương buổi sáng dường như không
tỏa ra từ môi trường mà hiện ra sau cái chớp mắt duyên dáng của hàng mi
thiếu nữ, từ đó ánh sáng tỏa ra muôn nơi, chan chứa, tràn ngập khắp thế
gian. Đón ánh bình minh tình tứ tuyệt vời như thế nên nhà thơ đã cảm thấy
ngày mới bắt đầu khi “thần vui hằng gõ cửa.” Chính tình yêu đời và yêu
người mãnh liệt đã đem đến niềm vui sống cho thi nhân khi thức dậy mỗi
ngày. Hình ảnh ẩn dụ “thần vui hằng gõ cửa” đã thể hiện cảm giác hồi hộp,
bồn chồn, đón đợi của lòng người cùng sự hồi thúc, đón đợi của cuộc sống
bên ngoài. Cảm giác của một con người yêu đời say đắm tới mức không chịu
bỏ lỡ dù chỉ một ngày, một khoảnh khắc của bình minh, của ngày mới.
-

Đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp của cuộc đời đã khép lại trong một so sánh tuyệt
vời, thú vị: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.”
+ Câu thơ ngắt nhịp 3-5 khiến trọng tâm rơi vào chữ “ngon”, nhấn
mạnh cảm giác thưởng thức bằng vị giác. Phép ẩn dụ cảm giác đã khiến
“tháng giêng”, một phạm trù của thời gian vốn vô hình, trừu tượng đã trở
nên hữu hình, cụ thể trong một sự tận hưởng say sưa của thi nhân lãng mạn.
Tháng giêng là tháng đấu tiên của mùa xuân, là hình ảnh hoán dụ cho mùa
4



xuân. So sánh mùa xuân với “cặp môi gần” là cách so sánh táo bạo, tràn đầy
nhục cảm khiến cuộc đời trở nên tuyệt diệu, quyến rũ như cặp môi người
yêu ngọt ngào. Tính từ “gần” đã nhấn mạnh cảm giác kề cận. chào mời thật
cám dỗ. Tất cả đều như trong tầm tay.
 Kết luận
Với nhiều phép so sánh, phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, những phép điệp tinh tế
trong cả ngữ âm và từ vựng, những từ ngữ, hình ảnh giàu sức biểu cảm, tạo hình (
“Lá của cành tơ phơ phất” ), đoạn thơ đã vẽ nên hình ảnh cuộc đời tràn đầy hương
thơm, màu sắc, âm thanh và nhất là niềm vui sống đầy quyến rũ. Cuộc sống qua
trái tim yêu và ánh mắt say đắm của thi nhân như đang lên hương, lên mật, như
đang cựa quậy sinh sôi, đang phơi bày hương sắc. Đó là thiên đường ngay trên mặt
đất trong hiện tại, là bữa tiệc trần gian ngay trong cuộc đời này chứ không phải ở
một cõi xa xăm nào khác. Và đó cũng chính là nguyên nhân cho niềm yêu đời, mê
đắm của thi nhân.
Đề 2. Phân tích 11 câu giữa của bài thơ để làm rõ quan niệm của nhà thơ
Xuân Diệu về thời gian và tuổi trẻ.
 Mở bài
-

Tác giả, tác phẩm: A (1, 2.1 )

-

Đoạn thơ bình giảng là 11 câu giữa của bài thơ, trong đó Xuân Diệu đã thể
hiện rõ nhất quan niệm tích cực của thi nhân về thời gian và tuổi trẻ, góp
phần làm rõ thêm ý nghĩa nhan đề bài thơ, cũng có nghía là làm rõ triết lý
nhân sinh cùng tuyên ngôn sống mới mẻ, tích cực của thi nhân.

 Thân bài
1. Cách cảm nhận về thời gian trong mối quan hệ với tuổi trẻ.

Mở đầu đoạn là một câu thơ của những xúc cảm gần như tương phản:
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa.”
5


-

Nhịp 3/5 và dấu chấm giữa dòng như một nốt lặng đột ngột, thể hiện trạng
thái sững sờ, hẫng hụt của nhà thơ khi bất chợt nhận ra những tương phản
trớ trêu của cuộc sống. Nhà thơ yêu đời vì cuộc đời quá đẹp đẽ, niềm yêu
đời khiến thi nhân sung sướng nhưng cũng chính niềm yêu ấy mà ông “vội
vàng” bởi nỗi “hoài xuân.”

-

Nhà văn sung sướng khi được chiêm ngưỡng, hưởng thụ những hương sắc
cuộc đời chưa trọn vẹn thì dòng thơ đã đứt lặng giữa chừng bởi nỗi lo âu cho
cuộc đời ngắn ngủi, nỗi lo cho màu nhạt, hương bay bởi không thể “tắt
nắng”, “buộc gió.” Với nỗi ám ảnh của một người quá yêu đời, luôn sợ thiếu
thời gian cho tình yêu đời, Xuân Diệu không chờ “nắng hạ mới hoài xuân”,
ông lo lắng nhớ nhung, tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở giữa mùa xuân.

-

Trong quan niệm của các nhà thơ trung đại, thời gian là một chu trình tuần
hoàn khép kín: “Đêm hết, ngày sang, đông qua, xuân tới…” Con người là
một phần của tự nhiên vũ trụ tồn tại vĩnh viễn trong vòng luân hồi cùng vũ
trụ, vì thế các nhà thơ trung đại trong thơi gian bình ổn, vĩnh hằng của cổ thi
luôn thanh thản, ung dung tự tác, không sợ tuổi già và cái chết:
“ Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
( Mãn giác Thiền Sư )

-

Xuân Diệu không chấp nhận sự đồng nhất thời gian của vũ trụ với thời gian
của đời người. Ông nhận thức sâu sắc sự đối lập giữa dòng thời gian của vô
thủy vô chung của vũ trụ với quỹ thời gian ngắn ngủi, hữu hạn của đời
người. Thời gian của vũ trụ tuần hoàn vĩnh cửu còn thời gian của đời người
lại trôi chảy theo dòng tuyệt tình, một đi không trở lại. Vì thế thời gian đối
với Xuân Diệu, mỗi khoảnh khắc đều quý giá vô cùng vì đến là đi, trôi qua
là mất hẳn, không thể lấy lại, cũng không thể lặp lại.

6


-

Cách cảm nhận ấy khiến Xuân Diệu phát hiện những điều tưởng như nghịch
lý:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Cấu trúc lặp được sử dụng với biện pháp điệp từ, điệp cú pháp đã làm tăng
thêm ấn tượng cho sự khẳng định. Còn những từ ngữ “tới – qua”, “non –
già” lại tạo nên những cặp phạm trù tương phản diễn tả sự trôi chảy đổi thay,
mất mát… Câu trên là sự tiếc nuối khi cảm nhận bước đi của thời gian –
cũng là sự mất đi của thời gian trong từng khoảnh khắc, câu dưới là nỗi lo
lắng cho cái phai tàn, héo úa, thậm chí chưa hề hiện hữu trong không gian.
Đến đây mùa xuân không chỉ còn là một hoán dụ cho dòng thời gian mà đã
mang thêm nét nghĩa ẩn dụ cho tuổi trẻ của mỗi con người. Mùa xuân là thời

gian đẹp nhất của tự nhiên, tuổi trẻ là khoảnh khắc đẹp nhất của đời người,
nhưng mùa xuân của đất trời thì tuần hoàn, vĩnh viễn còn mùa xuân của đời
người thì “chẳng hai lần thắm lại.” Đó chính là “xuân bắt tái lai.” Với Xuân
Diệu, trái tim yêu đời mãnh liệt không thể chấp nhận tuổi già, vì thế thời
gian sống của ông nhất định phải gắn với mùa xuân, với tuổi trẻ, cho nên
ông ngậm ngùi khẳng định: “Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.” Sự tương
đồng giữa xuân hết – tôi mất, sự tương phản giữa lòng tôi rộng – lượng trời
cứ chật, đã đồng thời thể hiện cả niềm khát khao được sống trong tuổi trẻ và
nỗi xót xa, lo sợ trước sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời người.

2. Những cảm nhận mới mẻ về thời gian đã dẫn đến những bâng khuâng, tiếc
nuối trong không gian:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
-

Trời đất vĩnh hằng, đời người hữu hạn, hình dung một thời gian “chẳng còn
tôi nữa” khiến thi nhân đau đớn, tiếc nuối. Sự tiếc nuối khiến ông cảm thấy
7


“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.” Thời gian đã được cảm nhận bằng cả
khứu giác để thấy mùi ly biệt, vị giác để nhận ra vị chia phôi, cả thị giác khi
liên tưởng đến những giọt lệ buồn khi mỗi khoảnh khắc vừa đến trong hiện
tại lập tức bị đẩy vào quá khứ không thể lấy lại. Dòng thời gian vì thế mà
thấm đẫm hương vị của chia lìa, mất mát.
-

Sự trôi chảy của thời gian cũng là sự mất dần của thời gian, đã đem đến
những nỗi đau trong không gian. Vì mỗi sự vật, mỗi con người đang lặng lẽ,

ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của mình chia ly với tuổi trẻ và cuối cùng
là với sự sống của mình, sự chia ly tất yếu không thể cưỡng lại. Quan niệm
ấy khiến Xuân Diệu cảm thấy như cả đất trời, tự nhiên, song núi, cỏ cây đều
đang “than thầm tiễn biệt”, đều đang xót xa tiếc nuối, đều sợ hãi trước
những chia ly, héo úa, tàn phai. Hình ảnh cuộc đời tràn đầy hương thơm,
màu sắc, âm thanh và niềm vui sống ở đoạn đầu đã thay bằng những chia
phôi buồn thảm ở đoạn hai: Cơn gió lo âu thì thào và hờn giận vì lẽ phải bay
đi, chim chóc đang rộn rang bỗng bặt im tiếng hót, cuộc sống đang náo nức
bỗng thảng thốt ngưng lặng vì nghĩ tới “độ phai tàn sắp sửa.”

-

Hai câu cuối đoạn thơ đã đúc kết cả xúc cảm và giải pháp của thi nhân khi
thể hiện tuyên ngôn sống của mình: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ
nữa…” “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm.”
+ Điệp ngữ “chẳng bao giờ” khiến câu thơ trên trở thành một lời than
tiếc nuối, tựa như tiếng nức nở, nghẹn ngào vì sự “xuân bất tái lại”, vì sự
chia phôi vĩnh viễn với thời gian, tuổi trẻ, với mỗi khoảnh khắc quý giá
không thể lấy lại trong cuộc đời.
+ Ngay sau đó là một giải pháp: “Mau đi thôi!” – Câu trúc cầu khiến
mang sắc thái giục giã, cuống quýt rất quen thuộc của Xuân Diệu đã chỉ ra
cách để thi nhân tận hưởng cao nhất cuộc sống – đó là sống nhiệt tình, sôi
nổi, say mê, sống hết mình với người, với đời, sống vội vàng, gấp gáp khi
8


“mùa chưa ngả chiều hôm”, khi đang còn ở trong mùa xuân, trong tuổi trẻ.
“Mùa” và “chiều hôm” là hai khái niệm chỉ thời gian không cùng một hệ
thống, nhưng chính độ chênh giữa thời gian của một năm với thời gian của
một ngày đã làm đậm thêm sự gấp gáp của một nhà thơ luôn sợ thiếu thời

gian, một nhà thơ muốn tận hưởng hương vị mùa xuân trong từng giây phút
mỗi ngày của mùa xuân, khi không thể “tắt nắng” hay “buộc gió” thì chỉ có
cách vội vã tận hưởng hương sắc cuộc đời khi còn có thể, khi màu chưa kịp
ngả, hương chưa kịp bay.
+ Quan niệm ấy luôn xuất hiện trong thơ Xuân Diệu, từ những câu thơ
sôi nổi mạnh mẽ: Mau lên chứ! Vội vàng lên mấy chứ! Đến những câu thơ
thấm đẫm lo âu: “Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai – Đời trôi chảy, lòng ta
không vĩnh viễn.”
 Kết luận
Đoạn thơ với kết cấu trùng điệp, với giọng điệu gấp gáp đã thể hiện những quan
niệm mới mẻ của Xuân Diệu cùng những triết lý nhân sinh tích cực, mạnh mẽ của
một trái tim tha thiết, sôi nổi. Những quan niệm triết lý cùng cách cảm nhận cuộc
sống tích cực và tươi trẻ ấy đã góp phần khẳng định cái tôi và tâm thế con người
trong cuộc đời, cái tôi của những khát khao cảm nhận, sống vội vàng trong quỹ
thời gian hữu hạn của cuộc đời mình.
Đề 3. Phân tích đoạn thơ cuối trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu để làm rõ
triết lý sống mạnh mẽ của nhà thơ ( 9 câu cuối )
 Mở bài
-

A – 1.1, 2.1

-

Đoạn thơ phân tích là 9 câu cuối của bài thơ, trong đó Xuân Diệu, trong đó
Xuân Diệu đã thể hiện rõ nhất triết lý sống mạnh mẽ, tích cực của mình qua
niềm khát khao tận hưởng cuộc đời.
9



 Thân bài
1. Nhận xét chung về bài thơ
Bài thơ có thể được coi là một áng chính luận – trữ tình trong đó quan niệm sống
của Xuân Diệu được thể hiện vừa khúc chiết, chặt chẽ, vừa rạo rực, đắm say. Theo
cấu tứ bài thơ, có thể cảm nhận ra hệ thống quan niệm nhân sinh tiến bộ của Xuân
Diệu: Cuộc sống nơi trần thế như một bữa tiệc lớn với vẻ đẹp “mơn mởn, non tơ”,
tràn đầy nhựa sống. Con người sinh ra là để được tận hưởng hương sắc cuộc đời.
Vậy mà đời người lại quá ngắn ngủi, thời gian sống của mỗi con người trôi theo
dòng thời gian một đi không trở lại.Triết lý trên đã được thể hiện trong hai đoạn
một và hai của bài thơ. Khi không thể “tắt nắng” hay “buộc gió”, không thể cất giữ
hương sắc cuộc đời, cũng không thể kéo dài quỹ thời gian ngắn ngủi của cuộc đời
thì con người chỉ có một cách duy nhất là sống “vội vàng”, sống hết mình. Đó
chính là câu trả lời đúng đắn hiện ra trong một áng văn chính luận trữ tình, khúc
chiết và đầy suy tư: Vì sao phải sống vội vàng! Phải sống mãnh liệt và say mê,
sống có ý nghĩa trong từng phút giây, khoảnh khắc, để được tận hưởng nhiều nhất
trong quỹ thời gian ngắn ngủi, để cuộc đời trôi qua không phi nghĩa, phí hoài. Đây
cũng là câu trả lời cho câu hỏi thứ hai đặt ra trong đoạn cuối bài thơ: Sống vội
vàng là sống như thế nào!
2. Phân tích đoạn thơ
1. Nội dung


Câu thơ mở đầu đoạn chỉ có ba chữ: “Ta muốn ôm” như một ấn tượng mạnh
mẽ về ý muốn được hưởng cuộc sống. Đại từ “tôi” trong bốn câu thơ đầu
bộc lộ ý muốn chủ quan của một cá nhân đơn lẻ đã chuyển thành đại từ “ta”
như thể hiện những ý muốn lớn lao mạnh mẽ của con người khi đối diện với
cuộc sống. Câu thơ còn mang giá trị tạo hình khi gợi ra hình ảnh một con
người với tầm vóc lớn lao đang đứng giữa cõi trần gian, dang rộng vòng tay
mong được ôm trọn vẹn những cảnh sắc quyến rũ nơi trần thế. Tư thế lớn lao
10



và tâm thế khao khát ấy đã xác định hình tượng chủ thể trữ tình và cảm hứng
chủ đạo của đoạn thơ cũng như của cả bài thơ, đó là cái tôi ham sống, ham
hưởng thụ và khao khát hưởng thụ triệt để.


Ham muốn mãnh liệt ấy đã được thể hiện sinh động trong 8 câu thơ sau đó:
Câu thơ “cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn” là bổ ngữ nghệ thuật cho động
từ “ôm” đầy khao khát trong câu mở đoạn. Tác giả muốn “ôm” nhưng không
phải chỉ một sự sống đơn lẻ mà là cả sự sống – một sự thâu tóm, ôm trùm,
chiếm lĩnh trọn vẹn một cách tham lam, ham hố, không muốn để quên hay
vuột mất bất cứ điều gì. Niềm khao khát ấy hướng về trong những trạng thái
mới mẻ, non tơ, tinh khôi, trinh bạch và nhất là tràn đầy nhựa sống. Từ láy
“mơn mởn” đã khiến vẻ đẹp trừu tượng của cuộc sống hiện ra cụ thể, sống
động, trinh nguyên, say mê khao khát. Sau câu thơ ít nhiều còn mang khát
vọng về sự sống, thi nhân đã bày ra trước mắt người đọc một bức tranh đời
tuyệt diệu, đặc sắc vô cùng:
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và mây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng



Trong bức tranh ấy, cảnh vật phong phú, đa dạng, khi biến ảo vô hình như
“mây” và “gió”, khi hữu hình tươi tắn như cây cỏ, khi mênh mang như “non
nước”, khi xinh xắn như “bướm hoa”… Tất cả đều tràn đầy hương thơm và
ánh sáng để làm nên một xuân hồng đầy ánh sáng, chúng vừa như trong tầm

tay lại vừa như ngoài tầm tay, khiến thi nhân vừa như có thể lại vừa như
không thể… Cảm giác ấy khiến người càng hân hoan cuống quýt, muốn tận
hưởng cả những cái hữu hình, cả những cái vô hình, hữu hạn vô biến, khát

11


vọng tận hưởng, tiếc rẻ, tham lam, không muốn bỏ sót dù chỉ một chút
hương thơm trong bữa tiệc trần gian.


Cảnh vật cũng được soi qua lăng kính tình yêu, vì thế mà thật tình tứ, quyến
rũ, mây không bay, không trôi, không bồng bềnh uể oải, không lặng lẽ biếng
lười mà là “mây đưa’” rạo rực , gió lượn duyên dáng cùng cánh bướm say
tình yêu, thậm chí cỏ dưới chân người cũng là cỏ rạng, như sáng bừng, rạng
rỡ và tươi tắn.



Cả đoạn thơ là một niềm khao khát, đam mê của một trái tim tha thiết, yêu
đời, là triết lý sống của một con người đang tận hưởng vẻ đẹp của cuộc sống
ngay giữa thời tươi của tuổi trẻ và tình yêu.

2. Nghệ thuật
a) Để thể hiện niềm khao khát vội vàng, tận hưởng, để tái hiện cơn lũ cảm xúc ào
ạt trào dâng, không gì hiệu quả bằng phép lặp, phép trùng điệp.


Điệp ngữ “Ta muốn” lặp lại tới 5 lần, những điệp từ “và”, “cho”… lặp lại
nhiều lần trong đoạn, thậm chí nhiều lần trong câu đã tạo cho đoạn thơ một

tiết tấu gấp gáp, vội vã, một giọng điệu sôi nổi, dồn dập, bộc lộ niềm khao
khát dâng trào và sự vội vàng bồng bột không thể giấu che, kìm nén.



Nếu điệp ngữ “tôi muốn” trong khổ đầu mang sắc thái van lơn, khẩn khoản
mà bất lực thì điệp ngữ “ta muốn” ở đoạn cuối lại như một lời tuyên bố dõng
dạc, mạnh mẽ, kiên quyết của niềm yêu và khao khát chiếm lĩnh.



Điệp từ “và” trong câu thơ “ Và non nước, và mây, và cỏ rạng” có sắc thái
biểu cảm rất đặc sắc. Trong một câu ghép đẳng lập có nhiều vế, từ “và” chỉ
xuất hiện ở vế cuối cùng”. Trong câu thơ của Xuân Diệu, từ “và” xuất hiện
tới 3 lần ở cả 3 vế câu, nó vừa gợi sự thừa thãi, giàu có trong bữa tiệc trần
gian sang trọng và cám dỗ, vừa thể hiện nỗi khát them tham lam vô độ của
thi nhân. Cuộc sống đẹp đẽ và vô hạn nên thu nhận, vồ vập bao nhiêu vẫn
thấy như ít ỏi, vẫn muốn nhận thêm, hưởng thêm. Hình tượng lặp không
12


mấy khi có ở những câu thơ cổ điển, hàm súc, nay đã phát huy cao độ khả
năng biểu hiện niềm khát sống, thèm yêu mãnh liệt của thi nhân hiện đại.


Điệp từ “cho” đi kèm với các từ láy “chếnh choáng”, “no nê”, “đã đầy” đã
diễn tả tột cùng cảm giác tận hưởng tới mãn nguyện. Thi nhân tựa như “cánh
bướm với tình yêu” hút mật ngọt của cuộc đời say đắm, đê mê, nghiêng ngả
giữa một thời tươi nồng nàn thanh sắc.


b) Cùng với phép trùng điệp là phép tăng tiến, nó vừa tránh cho đoạn thơ cảm giác
đơn điệu, vừa tạo ra một cảm xúc ngôn từ đưa cảm xúc của thi nhân lên tới đỉnh
điểm. Sự tăng tiến này thể hiện rõ nhất ở hệ thống động từ biểu hiện niềm khát
khao tận hưởng cuộc đời của thi nhân. Lúc đầu thi nhân muốn dang rộng vòng tay
bằng lời tuyên bố “ta muốn ôm”, rồi vòng ôm mạnh mẽ, cuồng nhiệt hơn: “riết”,
rồi đê mê, đắm đuối khi muốn “say” cánh bướm với tình yêu, để khao khát dâng
trào qua từ “thâu”, như muốn chiếm lĩnh tuyệt đối, trọn vẹn, khiến cho “non nước”,
“cỏ cây” không còn là những thực thể bên ngoài mà đã hòa nhập tận độ trong cả
tâm hồn và thể xác. Xúc cảm tình yêu, khát khao tận hưởng đã lên tới tột đỉnh
trong câu cuối:
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.


“Cắn” là động thái mạnh nhất trong hệ thống từ tăng tiến, nó đưa nhà thơ lên
tới đỉnh điểm của khao khát tận hưởng của thi nhân, mang đậm sắc thái gợi
cảm đầy cám dỗ.

c) Giúp nhà thơ thể hiện vẻ đẹp cuộc đời cùng nhịp điệu sống vội vàng, cuống quýt
của niềm yêu đời, còn có nghệ thuật chuyển đổi cảm giác – Một thủ pháp nghệ
thuật quen thuộc của thơ tượng trưng. Đây là cách dung cảm nhận của giác quan
này thay thế cho cảm nhận của giác quan khác, thường giúp nhà thơ hữu hình hóa,
cụ thể hóa những đối tượng vô hình, trừu tượng.
-

Chính nhờ thủ pháp này mà sự sống vốn trừu tượng đã hiện ra “mơn mởn”
non tơ như một cây đời tràn đầy nhựa sống, và sự sống vốn vô biên, vô hạn
13


như được thu vào vòng ôm của thi sĩ, vòng ôm đã được nới rộng vô biên bởi

những ham muốn vô biên.
-

Cũng như thế, mây và gió vốn là những ảo thể, vị thể vô hình luôn biến đổi
hình diện và luôn vụt thoát khỏi tầm tay, ánh mắt con người, nay trở nên hữu
hình cụ thể, gợi cảm và tình tứ trong hình ảnh “gió lượn”, “mây đưa.”

-

Trong câu kết, niềm ham muốn vô hạn độ của thi nhân đã được biểu hiện
trong nghệ thuật chuyển đổi cảm giác: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào
ngươi.”

-

Với từ “cắn” trong tiếng gọi tha thiết, Xuân Diệu đã biến sự vô hình thành
hữu hình, cái trừu tượng thành cụ thể, những vô thể, vật thể đầy cám dỗ
trong niềm khát khao nồng cháy của thi nhân. Khi ấy, mùa xuân không còn
là hiện tượng đơn thuần chỉ thời gian mà còn là “xuân hồng” với sắc tươi
thắm ngọt ngào, sự căng tràn quyến rũ khơi gợi cảm xúc say mê và niềm
khao khát chiếm lĩnh.

 Kết luận
Đoạn thơ là một mạch cảm xúc ào ạt, trào dâng trong cơn lũ ngôn từ, đã tái hiện
cơn lũ cảm xúc. Cảm xúc thơ cứ liên tục được đẩy lên tới mức cao trào trong đoạn
do ý thơ không thay đổi, chỉ có cảm xúc tăng tiến khiến cho câu mở đoạn mới đưa
ra niềm khao khát, thì tới câu kết, niềm khao khát đã được đẩy tới tột đỉnh, thể hiện
triết lý sống tích cực của tác giả: Đó là sống mạnh mẽ, đam mê để có thể tận hưởng
nhiều nhất, nhanh nhất hương sắc cuộc đời ngay giữa thời tươi của tuổi trẻ.


14



×