Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tính biện chứng trong chính sách kinh tế mới của v i lênin và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.66 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nếu Mác cùng với Ăngghen là người đặt nền móng cho học
thuyết lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học, lần đầu tiên đem khoa học
thay thế cho mộng tưởng, làm nên bước chuyển tiếp vĩ đại của lịch sử tư
tưởng xã hội chủ nghĩa (từ không tưởng đến khoa học), thì Lênin là
người đã truyền bá chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa xã hội khoa học vào nước
Nga, đã sáng lập học thuyết Đảng kiểu mới,s đã lãnh đạo thành công
Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, mở ra một thời đại mới trong lịch sử
loài người. Sau thành công của Cách mạng Tháng 10 Nga, Lênin cùng
các cộng sự bắt tay vào xây dựng CNXH một cách nghiêm ngặt theo
đúng nguyên lý của Mác - Angghen. Sau khi giành thắng lợi trong cuộc
Cách mạng Tháng mười, cuộc nội chiến nước Nga 1921 đã khiến nền
kinh tế nước nhà bị khủng hoảng nghiêm trọng, nước Nga Xôviết đứng
trước bờ vực thẳm, nhận thấy chính sách "cộng sản thời chiến" không
còn phù hợp, Lênin quyết định chuyển sang "Chính sách kinh tế mới"
tạo ra bước ngoặt vĩ đại của nước Nga XôViết.
Một chính sách được gọi là mới, trước hết nó phải đem lại hiểu
quả cho sự phát triển kinh tế - xã hội và đất nước, cải thiện đời sống
phát triển dân sinh. Nhằm đáp ứng những yêu cầu đó, Chính kinh tế mới
(NEP) của Lênin đã ra đời trong điều kiện, hoàn cảnh hết sức đặc biệt
với nước Nga lúc bấy giờ đó là sau nội chiến năm 1921, chính những sai
lầm trong hoạt động kinh tế đã gây ra những hậu quả nặng nề về kinh tế
và chính trị ở nước Nga. Liên minh công nông đứng trước nguy cơ tan
rã, vai trò lãnh đạo của Đảng yếu đi. NEP ra đời đã làm cho nước Nga
vốn bị tàn phá nặng nề trong nội chiến thì nay đã có những bước phát
triển vượt bậc. Nền kinh tế chuyển từ "cộng sản thời chiến" sang "chủ
nghĩa xã hội", bằng con đường, biện pháp hướng vào nền kinh tế thị
trường, phát triển hàng hóa, có sự quản lý của chính quyền Xôviết. Sự
thay đổi đó đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt nước Nga Xôviết tạo điều
kiện ban đầu cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xôviết.


Ngoài ý nghĩa to lớn trong nước NEP còn có ý nghĩa quốc tế
đặc biệt quan trọng đối với các nước phát triển theo định hướng XHCN
trong đó có Việt Nam và điều đặc biệt là nước ta cũng có những điều
kiện tiền đề rất giống với nước Nga thời đó. Với sự nhận thức đúng đắn
vai trò và ý nghĩa của NEP Đảng ta đã vận dụng nó vào đổi mới nền
kinh tế Việt Nam. Nhằm đưa nước ta sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu,

1


sánh vai với các cường quốc trên thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
mong muốn. Để thực hiện thành công chủ trương mà Đảng và Nhà nước
đề ra, chúng ta không thể không tham khảo bài học kinh nghiệm của các
nước XHCN đi trước qua đó rút ra bài học cho riêng mình. Thực tiễn đã
chứng minh rằng: việc vận dụng sáng tạo Chính sách kinh tế mới của
Lênin (NEP) vào nước ta, phù hợp với xu thế chung của thế giới: hợp
tác hoá, đa phương hóa, các nước xích lại với nhau hợp tác cùng phát
triển, với những nhận thức trên, tôi chọn vấn đề: Tính biện chứng trong
Chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin và ý nghĩa của nó đối với việc
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam hiện nay làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Do vị trí, vai trò và ý nghĩa to lớn của NEP nói chung và vấn đề
xây dựng nền kinh tế thị trường nói riêng đối với các nước đang phát
triển trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận
dụng đã có rất nhiều công trình có giá trị to lớn khai thác ở những khía
cạnh, góc độ khác nhau, và nhiều bài viết, bài báo, tác phẩm... trong đó
có những công trình tiêu biểu như sau: Trần Ngọc Hiên: Chính sách
kinh tế mới của Lênin và vận dụng vào điều kiện ở nước ta, năm 1989 ;
Nguyễn Quang Đăng: Biện chứng của NEP và thời đại.; Nguyễn Ngọc

Thành: Tính biện chứng trong Chính sách kinh tế mới của Lênin và ý
nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, năm 2007;
Lê Thành Sinh: Chính sách kinh tế mới của Lênin với công cuộc đổi
mới ở Việt Nam; Nguyễn Văn Kỷ: Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp
của nước ta hiện nay ; Trần Ngọc Bút: Chính sách nông nghiệp nông
thôn Việt Nam nửa cuối thế kỷ XX...
Ngoài ra còn nhiều công trình, các bài báo, hội thảo khoa học
được đăng lên các tạp chí hay chuyên đề....
3. Mục đính và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là làm rõ tính biện chứng trong nội dung
của Chính sách kinh tế mới (NEP) do V.I. Lênin đề xướng; từ đó chỉ ra ý
nghĩa của nó trong thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: - Khái quát hoàn cảnh ra đời của NEP và tính biện chứng
trong nội dung của Chính sách kinh tế mới.
- Ý nghĩa của việc vận dụng NEP trong quá trình xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XNCH ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

2


Đề tài tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản trong NEP
của Lênin, hoàn cảnh ra đời, so sánh bối cảnh nước Nga và Việt Nam
cũng như những tư tưởng biện chứng của NEP. Trên cơ sở đó, chỉ ra
những ý nghĩa và giải pháp cơ bản của việc nghiên cứu Chính sách kinh
tế mới vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Xuất phát từ phương pháp duy vật biện chứng Mácxit. Sử dụng
những phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, so
sánh cùng với việc tham khảo một số tài liệu, sách báo có liên quan làm
cho đề tài phong phú, khoa học và có sức thuyết phục hơn.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ cơ sở lý luận cũng như thực tiễn của
Chính sách kinh tế mới, chỉ ra tầm quan trọng của nó đối với việc xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài còn đưa ra một số giải pháp cơ bản để phát triển NEP
trong cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước.
Đề tài góp phần một phần nhỏ vào việc nghiên cứu những vấn
đề lý luận của NEP, là tài liệu có thể tham khảo cho việc nghiên cứu các
vấn đề liên quan đến nội dung của đề tài.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
khóa luận gồm có 2 chương và 6 tiết.
Chương 1
HOÀN CẢNH CỦA SỰ RA ĐỜI CHÍNH SÁCH KINH TẾMỚI VÀ
TÍNH BIỆN CHỨNG TRONG NỘI DUNG CỦA CHÍNH SÁCH
KINH TẾ MỚI
1.1. Hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời Chính sách kinh tế mới
Chính sách kinh tế mới là một khái niệm không có nghĩa như
một vài chính sách cụ thể, mà nó có một nghĩa bao trùm đó là đường lối
xây dựng CNXH ở một nước kinh tế còn lạc hậu như nước Nga.
Sau cách mạng tháng 10 Nga thành công (1917) việc thực hiện
kế hoạch xây dựng CNXH của V.I. Lênin bị gián đoạn bởi cuộc nội

3



chiến 1918-1920 . Trong thời kì này, Lênin đã áp dụng chính sách cộng
sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành
lại cho họ mức ăn tối thiểu, đồng thời xóa bỏ quan hệ hàng hóa - tiền tệ,
xóa bỏ việc tự do mua bán lương thực trên thị trường, thực hiện chế độ
cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước vào nền kinh tế.
Tuy nhiên khi hòa bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến lại
trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó
đòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế
mới được V.I. Lênin khởi xướng để đáp ứng nhu cầu này nhằm tiếp tục
xây dựng kế hoạch xây dựng CNXH trong giai đoạn mới
Vậy, Chính sách kinh tế mới xuất hiện là do hậu quả của 2 cuộc
chiến tranh đã tàn phá nước Nga nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần.
Cùng với sự tác động và ảnh hưởng của điều kiện khách quan,
về mặt chủ quan, Đảng Bônsêvich Nga còn có nhận thức chưa rõ về mặt
chủ nghĩa xã hội, từ đó đã vấp phải những sai lầm. Do không nhận rõ
các quy luật khách quan nên việc xác định các chủ trương chính sách
không sát, không phù hợp, có phần nóng vội đốt cháy giai đoạn..
Do vậy, nhận thức lại, nhận thức đúng đắn những điều kiện
khách quan kết hợp với sự sửa chữa những sai lầm chủ quan trước đây
về CNXH chính là tiền đề trực tiếp dẫn đến sự xuất hiện của Chính sách
kinh tế mới. Sự ra đời của NEP phản ánh tiến trình phát triển quy luật
của đời sống xã hội.
1.2. Tính biện chứng trong nội dung Chính sách kinh tế mới
1.2.1 NEP là biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa mục tiêu và
bước đi
Mục tiêu lớn nhất, bao trùm nhất của nước Nga Xôviết và cũng
chính là mục tiêu của Chính sách kinh tế mới là: quyết tâm bảo vệ và
xây dựng thành công CNXH ở nước Nga. Đó cũng là mục tiêu chiến
lược của cuộc cách mạng trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước Nga.

Nhưng đi như thế nào? Có thể chuyển trực tiếp nước Nga lên CNXH
được không? Vấn đề đặt ra và giải quyết là quan hệ giữa mục tiêu trong
giai đoạn đầu đầy khó khăn và thử thách này.
Lênin đã xuất phát từ sự phân tích các mâu thuẫn đang tồn tại ở
nước Nga Xôviết trong thời kỳ quá độ lên CNXH đó là:
Thứ nhất, xuất phát từ đặc điểm lịch sử của nước Nga đó là
nước Nga bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH trong hoàn cảnh kinh tế
gặp nhiều khó khăn. Do đó, mâu thuẫn lớn nhất của nước Nga lúc này là

4


mâu thuẫn giữa hiện trạng của nước Nga với yêu cầu của CNXH phải có
một nền kinh tế phát triển toàn diện, năng suất cao.
Thứ hai, mâu thuẫn giữa nhận thức và hiện thực về các quy luật
đi lên CNXH.
Thứ ba, đó là sự bao vây của bọn đế quốc bên ngoài, nhằm phá
hoại nước Nga Xôviết đang còn non trẻ, tạo ra mâu thuẫn giữa CNXH ở
nước Nga và CNTB ở các nước đế quốc.
Từ những nguyên nhân trên Lênin chỉ ra nguyên nhân bên
trong, những sai lầm về lãnh đạo quản lý, trước hết và chủ yếu trên lĩnh
vực kinh tế. Kết luận đó của Lênin đã hướng dẫn hành động của Người
trong việc thực hiện mối quan hệ biện chứng giữa mục tiêu và bước đi,
tìm ra các giải pháp thích hợp để giải quyết tình thế cách mạng của nước
Nga. Ở trong Chính sách kinh tế mới, Lênin đã như vậy để có CNXH
hiện thực ở nước Nga. Bảo vệ vững chắc thành quả Cách mạng tháng
Mười vĩ đại, mở ra thời kỳ phát triển mới cho nhân loại, đó là mục tiêu
của cách mạng nước Nga, cũng là mục tiêu mà chính trong nội dung của
Chính sách kinh tế mới đã được đặt ra.
Để đạt được mục tiêu đã đề ra là CNXH và chủ nghĩa cộng sản,

NEP của Lênin được cụ thể hóa bằng những bước đi sau:
Bước đi đầu tiên, thực hiện tốt chính sách thuế lương thực
Việc thay đổi chế độ trưng thu lương thực, bằng thuế lương thực
đã đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân lao động, làm thay đổi bộ
mặt của đời sống của nông dân, kích thích tái sản xuất, lòng tự giác, vì
từ nay họ có quyền định đoạt sản phẩm do mình làm ra sau khi hoàn
thành thuế cho nhà nước, còn sản phẩm "dư thừa" thì họ thực hiện việc
trao đổi mua bán với công nghiệp để tái sản xuất được tốt hơn, làm cho
xã hội sôi động hơn.
Thuế lương thực có ý nghĩa chuyển từ biện pháp hành chính
thuần túy sang biện pháp hoạch toán kinh tế, kích thích sản xuất phát
triển.
Bước đi thứ hai, khôi phục và phát triển sản xuất hàng hóa
nông nghiệp nông thôn, thực hiện lưu thông công nghiệp với nông
nghiệp.
Dưới thời CNTB, nông dân với công trường thủ công đã có sự
sản xuất lớn tập trung, có những cánh đồng cỏ rộng vài nghìn ha phục
vụ nuôi cừu để sản xuất lấy bông vải, cung cấp nguyên liệu cho công
nghiệp dệt... nhưng nó chỉ diễn ra với các nước tư bản phát triển, trong
khi đại đa số nông dân còn chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng phong kiến lạc

5


hậu, nước Nga là một minh chứng. Thuộc tính cố hữu của nông dân
trong sản xuất là mang tính "tự cấp, tự túc" kinh tế tự nhiên cho nên
không có nền sản xuất lớn được, và từ đó kéo theo sự trao đổi bằng hiện
vật. Cái mà chủ nghĩa xã hội đang cần lại là khác với nó, đó là sản xuất
hàng hóa lớn cho xã hội, xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, chính sách thuế lương thực của Lênin còn bao hàm tư

tưởng chuyển sang kinh doanh lương thực, được coi như một đòn bẩy
quan trọng cho sự phát triển sản xuất lương thực và sản xuất nông
nghiệp nói chung. Theo hướng đó, nhà nước đã đem lại sự giúp đỡ to
lớn về tài chính và kỹ thuật cho nông dân.
Bước đi thứ ba, khôi phục và phát triển lại nền sản xuất công
nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân
Để nông nghiệp phát triển hướng vào sản xuất hàng hóa kinh tế,
thì ngoài liên kết tập trung hợp tác, thì nó phải được cơ khí hóa nền sản
xuất tức là công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn, đây là vấn đề quan
trọng được xem như là nội dung của cải cách kinh tế. Mặt khác cân đối
công nghiệp, nông nghiệp nhằm thiết lập thế cân bằng bằng những "viên
gạch" đầu tiên để đi vào "đại công nghiệp", điện khí hóa, lúc đó chúng
ta có "đủ lực và sức" để đi vào chủ nghĩa xã hội đây là bước tiến đi từ
thấp tới cao với những "bước đi" vững chắc.
Bước đi thứ tư, củng cố mở rộng thương nghiệp XHCN
Thương nghiệp là một khâu quan trọng nối liền giữa sản xuất
và tiêu dùng. Làm tốt khâu thương nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất và lưu
thông phát triển, xây dựng và củng cố lực lượng sản xuất. Trong thời kỳ
thực hiện Chính sách kinh tế mới, Lênin chủ trương đẩy mạnh việc củng
cố và mở rộng thương nghiệp.
Nhờ các biện pháp tích cực theo quan điểm của NEP nên đến
năm 1925 - 1926 thương nghiệp nước Nga, giao thông vận tải phát triển,
nền tài chính tiền tệ ổn định, góp phần thực hiện mục tiêu của Chính
sách kinh tế mới là bảo vệ và xây dựng CNXH ở nước Nga.
Bước đi thứ năm, củng cố nền tài chính, ổn định tiền tệ
Khôi phục kinh tế theo quan điểm NEP đã tạo điều kiện kinh tế
thuận lợi cho việc giải quyết các vấn đề tài chính, tiền tệ. Các xí nghiệp
đi vào hoạch toán kinh tế không đòi hỏi kinh tế từ ngân sách nhà nước,
mà nộp một phần lợi nhuận vào ngân sách nhà nước. Hoạt động ngoại
thương phục hồi, bắt đầu bổ sung dự trữ vàng cho nhà nước Xôviết. Đó

là một mặt của tình hình, nhưng mặt khác, các hoạt động sản xuất và lưu

6


thông càng mở rộng, kinh tế hàng hóa phục hồi và phát triển thì càng
đòi hỏi phải giải quyết vấn đề tài chính, tiền tệ một cách cấp bách.
Việc ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xôviết được đặt
trong bối cảnh đặc biệt: do trải qua mấy năm thi hành "chính sách cộng
sản thời chiến" và những hậu quả của chiến tranh, nền kinh tế bị xáo
trộn, bị tàn phá, kinh tế hàng hóa bị thu hẹp, xu hướng hiện vật hóa ngày
càng tăng. Bước vào khôi phục kinh tế trong tình trạng lạm phát nặng
nề, ngân sách bội chi ngày càng lớn, đồng rúp mất giá. Nhà nước đứng
trước hai vấn đề cực kỳ khó khăn: chấn chỉnh công tác tài chính và ổn
định đồng tiền. Hai vấn đề liên quan mật thiết với nhau, không thể tách
rời nhau trong quá trình cải cách lĩnh vực quan trọng này.
Ổn định tiền tệ tránh lạm phát "rối loạn nền kinh tế" ổn định
tiền tệ còn làm cho tâm lý đầu tư sản xuất được yên tâm. Như vậy, trước
hết cần phải có một đội ngũ cán bộ trong sạch vững mạnh, phẩm chất
đạo đức tốt, trung thực và có năng lực trong quản lý cũng như việc theo
sát thị trường yêu cầu thực tế của nó. Tóm lại, công tác quản lý của nhà
nước và công tác cán bộ giảm các chi phí không cần thiết, đầu tư cho
trọng điểm, tinh giảm bộ máy quản lý nhà nước tránh chồng chéo...Làm
tốt công tác này góp phần thắng lợi trong thời ký quá độ đi lên CNXH.
1.2.2. Chính sách kinh tế mới là sự biểu hiện mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị
Ở trong NEP, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị được biểu
hiện khá đậm nét, trong quá trình chỉ đạo cách mạng nước Nga, thời kỳ
đầu của nước Nga Xôviết đã coi trọng mối quan hệ này. Mối quan hệ đó
được Lênin khái quát như sau: "Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh

tế" và "Chính trị không thể giữ vị trí ưu tiên so với kinh tế".
Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế
Với tư cách là một yếu tố của kiến trúc thượng tầng, chính trị
sẽ do cơ sở kinh tế quyết định. Cơ sở kinh tế có vai trò rất to lớn đối với
tư tưởng chính trị và hệ thống tổ chức chính trị.
Do chính trị là biểu hiện tập trung của nền kinh tế, cho nên mọi
chính sách kinh tế đúng đắn đều phải xuất phát từ tình hình hiện thực,
phản ánh sát, đúng với trạng thái hiện thực của nền kinh tế và chính
sách đó xét cho cùng cũng do tình hình kinh tế quyết định. Tình hình
kinh tế là cơ sở xuất phát cho việc lựa chọn các phương tiện, chính sách
kích thích nền sản xuất phát triển nhằm hoàn thiện nền sản xuất xã hội.
Đồng thời kinh tế cũng có vai trò quyết định cả việc lựa chọn chính sách

7


phân phối và sự dụng hợp lý tổng sản phẩm xã hội, sản phẩm thặng dư
dưới hình thức giá trị và hiện vật.
Luận điểm chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, đã được
Lênin áp dụng để chỉ đạo việc xây dựng xã hội mới ở nước Nga sau
cách mạng tháng Mười năm 1917. Song, do tình hình kinh tế ở nước
Nga trong những năm đầu tiên sau Cách mạng tháng Mười nên nhà
nước đã phải áp dụng chính sách cộng sản thời chiến. Nhưng sau cuộc
nội chiến và cuộc chiến tranh chống can thiệp của bọn đế quốc bên
ngoài đã làm cho nền kinh tế nước Nga đổ nát, gặp nhiều khó khăn.
Cuộc khủng hoảng toàn diện bắt đầu diễn ra ở nước Nga Xôviết. Tình
hình kinh tế - chính trị đó đòi hỏi phải có chính sách đúng đắn hơn, phù
hợp với thực tế hơn. Lênin đã chuyển sang Chính sách kinh tế mới mà
đặc trưng của nó là chính sách thuế lương thực, ra sức phát triển thương
nghiệp và phát huy tính chủ động của tư nhân trong việc xây dựng và

quản lý nền sản xuất xã hội, giải quyết khó khăn của đất nước.
Chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, đời sống chính trị về cơ bản
phản ánh đời sống kinh tế, chính trị bắt nguồn sâu xa từ quan hệ kinh tế,
từ trình độ và yêu cầu của lực lượng sản xuất chứ không phải do đạo
đức, tinh thần, trí tuệ tạo ra. Tư duy chính trị phải quán triệt rằng chính
trị là phản ánh hiện trạng kinh tế, đáp ứng yêu cầu của kinh tế và sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính trị phản ánh tập trung kinh tế. Do
đó, chính trị không thể không ưu tiên và ổn định chính trị để phát triển
kinh tế. Vì vậy chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu trong
kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Sau Cách mạng tháng Mười(1917), để chiến thắng thù trong
Lênin cho rằng: "...mỗi bước dẫn chúng ta tiến tới ngày thắng lợi bọn
bạch vệ, đều chuyển dần trọng tâm đấu tranh vào chính trị trong lĩnh
vực kinh tế" và người đã nhấn mạnh: "Chính trị chủ yếu của chúng ta
lúc này là xây dựng nước nhà về mặt kinh tế để tích góp được nhiều lúa
mì hơn, để sản xuất được nhiều than hơn, để sử dụng lúa mì và than, đó
là hợp lý hơn sao cho không còn người đói nữa".
1.2.3. NEP là biểu hiện quan hệ biện chứng giữa động lực là kích
thích vật chất và động viên tinh thần cho người lao động
Kích thích vật chất
Kích thích vật chất và tinh thần là những hình thức, phương
pháp, biện pháp để thúc đẩy mọi người lao động, nâng cao tính chủ
động sáng tạo và tính tích cực lao động của họ.

8


Con người hành động bao giờ cũng theo lợi ích. Chính lợi ích là
động lực thúc đẩy, là chất men kích thích con người nhận thức và hành

động. Lợi ích có nghĩa là: có ý nghĩa, quan trọng, là nguyên nhân hiện
thực của các hành động xã hội, các sự kiện, thành tựu ẩn giật đằng sau
những sự thúc đẩy trực tiếp động cơ, ý đồ, lý tưởng... của cá nhân, tập
đoàn, xã hội, giai cấp tham gia vào những hành động đó.
Khi phân tích vai trò của nhu cầu trong sự phát triển của sản
xuất, người ta thấy rằng, không có sản xuất thì không có nhu cầu.
Nhưng ngược lại, không có nhu cầu thì không có sản xuất. Tuy nhiên,
nhu cầu không phải chỉ là động lực mạnh mẽ kích thích sự phát triển của
riêng sản xuất, mà còn là tác động thúc đẩy toàn bộ sự hoạt động của
con người nói chung.
Như vậy, các nhu cầu nảy sinh là do kết quả tác động qua lại
của hoàn cảnh bên ngoài với trạng thái riêng của từng chủ thể, trong đó
hoàn cảnh bên ngoài đóng vai trò là cái quyết định.
Xét về mặt bản chất, lợi ích chính là quan hệ - quan hệ giữa các
sự vật, hiện tượng của thế giới bên ngoài với nhu cầu của chủ thể; còn
về mặt nội dung, lợi ích là cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu.
Trong mối quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích, nhu cầu là cái quyết định đối
với chủ thể lợi ích. Do đó, nó là cơ sở của lợi ích. Còn lợi ích, ngược lại
xuất phát từ nhu cầu, là sự thể hiện của nhu cầu. Khi nhu cầu bắt đầu
xuất hiện thì còn người cũng bắt đầu hướng sự nhận thức của mình vào
việc tìm kiếm cải thỏa mãn nhu cầu. Và khi cái thỏa mãn nhu cầu đó tức là lợi ích - chưa có hành động của con người nhằm đoạt lấy lợi ích
ấy cũng chưa có. Nhưng khi lợi ích ấy đã xuất hiện và đã được tìm thấy,
đã được nhận thức thì nó trở thành mục tiêu hành động của con người.
Như vậy, cùng với nhu cầu, lợi ích là một trong những động lực
cực kỳ quan trọng trực tiếp thúc đẩy con người và thông qua đó, gây nên
những biến đổi trong tiến trình vận động của lịch sử.
Trong sự phong phú, đa dạng của lợi ích thì suy cho đến cùng,
lợi ích kinh tế là cái quyết định các loại lợi ích khác. Lợi ích kinh tế là
mối quan hệ nhằm thực hiện nhu cầu kinh tế của chủ thể. Nó nảy sinh
một cách tất yếu, khách quan trong hoàn cảnh kinh tế, trực tiếp quy định

khuynh hướng và động cơ hoạt động của các chủ thể kinh tế. Lợi ích
kinh tế phản ánh vị trí của con người, hệ thống sản xuất xã hội. Lợi ích
kinh tế được phản ánh trong ý thức con người dưới dạng những mục
tiêu đã đặt ra và những nhân tố thúc đẩy ý chí đạt tới các mục tiêu ấy.
Động viên tinh thần người lao động

9


Dưới chế độ xã hội mới, không chỉ lợi ích kinh tế đóng vai trò
động lực mà các nhân tố kích thích tinh thần trong lao động cũng có một
ý nghĩa rất quan trọng. Điều này cũng phù hợp với vai trò ngày càng
tăng lên của các nhân tố chủ quan trong quá trình phát triển lịch sử, của
tính tích cực của người lao động trong xã hội mới. Một nền kinh tế hợp
lý có hiệu quả, đòi hỏi yêu cầu và bắt buộc trong hoạt động kinh tế phải
sử dụng cả hệ thống kích thích vật chất lẫn các nhân tố kích thích tinh
thần. Cần tạo ra một cơ chế hoạt động để các nhân tố vật chất lẫn tinh
thần tác động hài hòa, là chất men thúc đẩy hành động của người lao
động có hiệu quả, đúng hướng.
Khi chuyển sang Chính sách kinh tế mới với việc quan tâm đến
lợi ích cá nhân trong quan hệ biện chứng với lợi ích tập thể và xã hội,
với yêu cầu không chỉ dựa vào nhiệt tình mà còn phải chú trọng đến lợi
ích kinh tế, Lênin đã kiên quyết bác bỏ những quan niệm về "CNXH
tình cảm" phê phán gay gắt những biểu hiện nóng vội, những chủ trương
"đốt cháy giai đoạn". Và ở đây cũng đã toát lên tính biện chứng của
NEP: Tính biện chứng của động cơ vật chất và động cơ tinh thần, của
kích thích vật chất và tinh thần, của lợi ích kinh tế và lợi ích tinh thần.
Nếu trong quá trình cách mạng mà lợi ích kinh tế (vật chất) của quần
chúng không được cải thiện trái lại còn chậm chạp, sút kém thì nhiệt
tình cách mạng sẽ giảm sút, có khi tiêu tan. Con người chỉ làm việc tốt

khi người đó biết trân trọng việc làm của mình. Và con người chỉ có thể
trân trọng việc làm của mình khi công việc đó được đáp lại những lợi
ích chính đáng của họ. Chính sách kinh tế mới đã chỉ ra trong xã hội
mới, có một tổng thể phong phú gồm những kích thích vật chất tinh thần
đối với người lao động. Và chỉ thực hiện tốt mối quan hệ giữa kích thích
vật chất và tinh thần, giải quyết hài hòa lợi ích vật chất và tinh thần mới
có thể xây dựng được tinh thần trách nhiệm, thái độ hăng say trong lao
động và tính nguyên tắc của công cuộc tạo lập xã hội mới.

Chương 2
Ý NGHĨA CỦA CHÍNH SÁCH KINH TẾ MỚI ĐỐI VỚI VIỆC
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

10


2.1. Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng CNXH
2.1.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tổ chức kinh tế
vừa dựa trên các quy luật phát triển của thị trường vừa dựa trên các
nguyên tắc, bản chất của CNXH, hai nhân tố đan xen, tác động lẫn nhau,
tồn tại trong nhau.
Đây cũng là nền kinh tế thị trường kiểu mới, có tổ chức, có kế
hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Nó hoạt động trên cơ sở kết hợp giữa sự nhận
thức tính tất yếu khách quan với phát huy vai trò năng động sáng tạo của
chủ thể, nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
phát triển rút ngắn, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới và trở
thành quốc gia phát triển trong thế kỷ XXI.

2.1.2. Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng CNXH
Việc Đảng và Nhà nước ta lựa chọn phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Đây là sự lựa chọn con đường và mô hình
phát triển của Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế đáp ứng
yêu cầu "đi tắt, đón đầu" đang đặt ra như một yếu tố sống còn. Sự hình
thành tư duy của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
cả một quá trình tìm tòi thể nghiệm, phát triển từ thấp lên cao, từ chưa
đầy đủ, hoàn thiện tới ngày càng đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện.
Những khía cạnh quy định tính tất yếu của việc lựa chọn mô
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đó là:
Thứ nhất, mô hình CNXH cổ điển, đặc trưng bởi hệ thống kinh
tế kế hoạch hoá tập trung, sau gần 70 năm tồn tại với tất cả những ưu thế
và nhược điểm, rốt cuộc đã tỏ ra không còn sức sống và khả năng tự
phát triển nội sinh về mặt kinh tế, bị va vấp nặng nề trong thực tiễn.
Thứ hai, mặc dù CNTB đã có những thành công nhất định trong
phát triển kinh tế thị trường, nhưng cần nhận thức sâu sắc rằng, phát
triển kinh tế thị trường theo con đường tư bản chủ nghĩa không phải là
duy nhất đúng mà trong nó cũng ẩn chứa đầy rẫy những cạm bẫy, rủi ro.
Thứ ba, trong thực tế không có một mô hình kinh tế thị trường
chung cho mọi quốc gia, mà trái lại, mỗi quốc gia - dân tộc tùy theo
trình độ phát triển, đặc điểm cơ cấu tổ chức và thể chế chính trị, kể cả
các yếu tố văn hoá - xã hội truyền thống, mà xây dựng những mô hình
kinh tế thị trường đặc thù của riêng mình.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường hiện đại ngày càng thể hiện xu
hướng tự phủ định và tiến hoá tất yếu để chuyển sang giai đoạn mới cao

11


hơn - hậu thị trường, hậu công nghiệp và kinh tế tri thức. Nếu như nền

văn minh công nghiệp ra đời trên cơ sở phủ định nền văn minh nông
nghiệp thì trái lại, nền văn minh hậu công nghiệp - kết quả của làn sóng
cách mạng khoa học - công nghệ lần thứ ba lại có thể hàm chứa và gần
gũi với nền văn minh nông nghiệp. Thực tế cho thấy, công nghệ cao có
khả năng áp dụng trong hoàn cảnh nông nghiệp và tương ứng, một nền
nông nghiệp truyền thống có thể đi tắt sang hậu công nghiệp mà không
bắt buộc phải trải qua tất cả các giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá
tư bản chủ nghĩa nặng nề, tốn kém.
Thứ năm, xét về mặt lịch sử thì quan hệ hàng hoá - thị trường
chỉ là hình thái đặc biệt, là nấc thang trung gian cần thiết để chuyển xã
hội từ trình độ xã hội nông nghiệp, phi thị trường, lên trình độ xã hội
hậu công nghiệp, hậu thị trường. Nếu xét kỹ, ngay ở giai đoạn phát triển
phồn thịnh, sung mãn của các quan hệ thị trường thì sự xuất hiện của
chúng cũng không có nghĩa là đồng nhất với chủ nghĩa tư bản.
Thứ sáu, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam là một tất yếu nếu đặt trong bối cảnh toàn cầu hoá;
thế giới đang bước vào giai đoạn quá độ sang trình độ xã hội hậu công
nghiệp, hậu thị trường và kinh tế tri thức; yêu cầu phát triển rút ngắn và
hội nhập. Đây không phải là sự gán ghép khiên cưỡng, chủ quan giữa
kinh tế thị trường và CNXH, mà là trên cơ sở nhận thức sâu sắc tính quy
luật tất yếu của thời đại, sự khái quát hoá, đúc rút từ kinh nghiệm phát
triển kinh tế thị trường thế giới, và đặc biệt, từ tổng kết thực tiễn mấy
chục năm xây dựng CNXH và gần hai thập kỷ đổi mới của Việt Nam.
Việc Việt Nam lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng XHCN là sự lựa chọn vừa phù hợp với xu hướng phát
triển khách quan của thời đại, là sự tiếp thu các giá trị truyền thống của
đất nước và những yếu tố tích cực trong giai đoạn phát triển đã qua của
CNXH kiểu cũ. Đây cũng là sự trùng hợp giữa quy luật khách quan với
mong muốn chủ quan, giữa tính tất yếu thời đại với lôgic tiến hoá nội
sinh của dân tộc, khi chúng ta chủ trương sử dụng hình thái kinh tế thị

trường để thực hiện mục tiêu phát triển, từng bước quá độ lên CNXH.
Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để
thu hẹp khoảng cách tụt hậu và nhanh chóng hội nhập, phát triển.
2.1.3. Vì sao nên vận dụng Chính sách kinh tế mới vào Việt Nam
Chính sách kinh tế mới của Lênin ra đời ở nước Nga năm 1921,
đến nay đã gần 90 năm nhưng nó vẫn còn có ý nghĩa nóng hổi đối với
sự nghiệp đổi mới toàn diện hiện nay của nước ta. Khó có thể đánh giá

12


hết được ý nghĩa lịch sử vĩ đại của tư tưởng V.I. Lênin về xây dựng chủ
nghĩa xã hội nói chung, về Chính sách kinh tế mới nói riêng.
Ý nghĩa to lớn đó được thể hiện ở những điểm sau:
- Chúng ta đều dễ dàng nhận thấy có nhiều sự trùng hợp về
những vấn đề được đặt ra và cách giải quyết chúng giữa Chính sách
kinh tế mới và công cuộc đổi mới trong những năm qua ở nước ta.
- Chiến tranh đã bắt buộc chúng ta phải áp dụng những biện
pháp kinh tế thời chiến. Hoàn cảnh khách quan và những sai lầm trong
nhận thức về CNXH dẫn tới sai lầm nhất thời cho rằng chủ nghĩa cộng
sản thời chiến có thể áp dụng đưa nước Nga tiến thẳng lên CNXH..
Trong bối cảnh đó, với một sự táo bạo dám vượt lên chính mình, Lênin
đã lãnh đạo đảng Bônsêvích Nga "thay đổi một cách căn bản quan niệm
về CNXH. Cách đặt vấn đề của Lênin là phải kiên quyết từ bỏ cách
thức, phương pháp tiến công chính diện, tìm cách thức khác, có thể là
dùng "đường vòng", để đi đến mục tiêu XHCN.
Những nội dung trong Chính sách kinh tế mới được Lênin nêu
ra hết sức phong phú, nó được quyện chặt với nhau trong một hệ thống
mà nổi bật là các mối quan hệ biện chứng sau:
+ Mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và các bước đi

cụ thể, các giải pháp khôn khéo về sách lược.
+ Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
+ Mối quan hệ giữa kích thích vật chất với động viên
tinh thần của người lao động
Các mối quan hệ biện chứng này thể hiện sâu sắc trong đường
lối của Đảng ta nhằm đổi mới đất nước toàn diện trên các lĩnh vực: kinh
tế, chính trị, xã hội, khoa học, giáo dục, an ninh quốc phòng, xây dựng
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ...
Những tư tưởng của Lênin trong Chính sách kinh tế mới là vô
giá đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay theo định hướng
XHCN nhằm xây dựng một nước Việt Nam trở thành một nước độc lập,
giàu mạnh, công bằng, văn minh và hạnh phúc...
Vì vậy, đối với công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, nhất là
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Chính sách kinh tế
mới cần phải được tiếp tục nghiên cứu và vận dụng nó một cách toàn
diện, sáng tạo, triệt để và sâu sắc hơn.
2.1.4. Tính phù hợp giữa lý luận của Chính sách kinh tế mới và thực
tiễn ở Việt Nam hiện nay

13


Thực tiễn đổi mới ở nước ta cho thấy rằng, không thể giải quyết
được những vấn đề cấp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển
kinh tế bằng các chủ trương, biện pháp dựa trên tư duy kinh tế cũ, mang
đầy tính bị động và đối phó với tình hình. Bởi vậy, đổi mới tư duy trước
hết phải đổi mới kinh tế, là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là bước
chuyển có ý nghĩa cách mạng đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu
kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CHXN từ một nước phải đi theo con
đường "rút ngắn", với hình thức quá độ "gián tiếp" mà lịch sử quy định.

Trong một bối cảnh lịch sử cụ thể không bình thường, nhiều biến động,
đương nhiên chúng ta phải xây dựng không chỉ đường lối chiến lược,
mà cả những giải pháp tình thế, vừa có khả năng đáp ứng yêu cầu trước
mắt, vừa tạo nền móng cho sự phát triển lâu bền.
Thực tiễn xây dựng CHXH ở Việt Nam hiện nay cho thấy rõ,
Chính sách kinh tế mới của Lênin là mẫu mực về một giải pháp tình thế
và còn là đường lối mang tính chiến lược, là cái đem lại cho chúng ta cơ
sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên CNXH. Kinh nghiệm thực
hiện NEP ở nước Nga đầu những năm 20 vẫn còn là bài học bổ ích cho
đất nước chúng ta trong bối cảnh hiện nay.
Trong nội dung lý luận của NEP có nhiều điểm phù hợp với
thực tiễn nước ta, nhất là khi chúng ta đang trên đường đổi mới đất
nước, đang trong thời ký quá độ lên CNXH nhưng trong đó có thành
phần kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác xã đóng một vài trò quan trọng
và có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc đổi mới đất nước đặc biệt là xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Hiện nay kinh tế tư bản nhà nước là yếu tố đóng góp tích cực
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo những đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường và yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước thông qua việc tập trung và góp vốn giữa nhà nước và tư
bản tư nhân dưới hình thức liên doanh, đóng góp cổ phần và hợp đồng
hợp tác kinh doanh.
Chiến lược phát triển lấy công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực, thiết nghĩ không thể
không phát triển kinh tế tư bản nhà nước. Về một phương diện nào đó,
có thể nói, phát triển kinh tế tư bản nhà nước là yếu tố quan trọng trong
việc giữ vững định hướng XHCN. Bởi lẽ, ở nước ta hiện nay, về cơ sở
vật chất, nền kinh tế nước ta hiện chưa có đủ điều kiện để quá độ trực
tiếp lên CNXH, và do vậy, chúng ta có thể và cần phải sử dụng kinh tế
tư bản nhà nước để thực hiện định hướng XHCN. Đối với nước ta, việc


14


vận dụng sản xuất tư bản trong và ngoài nước, nhất là bằng cách hướng
nó vào con đường hiện thực nhất, có triển vọng nhất.
Về vấn đề phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác
xã trong bối cảnh xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần. Đảng ta đã khẳng định: kinh tế hợp tác xã là "hình thức liên
kết tự nguyện của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của
từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiểu quả hơn
những vấn đề của sản xuất, kinh doanh và đời sống".
Thực tiễn của những năm đổi mới ở nước ta cho thấy, quá độ
lên CNXH từ nền sản xuất nhỏ, lạc hậu, nông dân chiếm đại bộ phận
dân cư, chúng ta không thể không phát triển kinh tế hợp tác xã.
Lênin cho rằng: từ một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta
quá độ lên CNXH, chỉ có thể thực hiện cách mạng XHCN bằng một loạt
biện pháp quá độ đặc biệt đó là quá độ gián tiếp. Khi chúng ta chưa có
được nền đại công nghiệp cơ khí lớn, chưa có được nền sản xuất nông
nghiệp quy mô lớn, có trình độ phát triển cao, xét về phương diện kinh
tế, thì sự tồn tại của thành phần kinh tế hợp tác là tất yếu và cần thiết.
Thực tiễn của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo định hướng XHCN ở nước ta trong những năm qua đã chứng minh
cho tính đúng đắn của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định
hướng XHCN. Một trong những cơ sở lý luận của đường lối đó chính là
tư tưởng cơ bản của Lênin về Chính sách kinh tế mới, quan niệm của
Người về đường lối xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
khi thực hiện "Chính sách kinh tế mới", về việc sử dụng CNTB, thực
hiện chính sách tự do buôn bán, kinh doanh trên cơ sở của mối quan hệ

hàng - tiền với sự điều tiết của nhà nước
Với cơ sở lý luận đó, với thực tiễn của hơn 10 năm đổi mới đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và cụ thể hóa Nghị quyết Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, trong Nghị quyết đó, khi khẳng định
chủ trương "phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác" trong mối
quan hệ và sự tác động qua lại của nó với các thành phần kinh tế khác
của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đảng ta đã chỉ rõ: "phát
triển và quản lý các loại hình doanh nghiệp thuộc kinh tế hợp tác, kinh
tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân"
Thành công bước đầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, của đường lối xây
dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo

15


cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trên cơ sở vận dụng sáng
tạo, những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về Chính sách kinh tế mới
cho thấy, việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, phát triển chế độ hợp
tác xã tất yếu phải sử dụng một cách có hiệu quả quy luật giá trị và quan
hệ hàng - tiền. Trong tiến trình tiếp tục công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay, đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Thực tiễn của những năm tiến hành công cuộc đổi mới
ở nước ta vừa qua đã cho thấy hiệu quả của việc sử dụng quy luật giá trị
và quan hệ hàng - tiền trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất, phát triển
kinh tế, đồng thời cho thấy rõ việc sử dụng chúng là đặc trưng không thể
thiếu của cơ chế quản lý kinh tế mới mà chúng ta đang ra sức xây dựng.
Bởi vậy, hiện nay, vấn đề đặt ra với chúng ta là nhận thức đúng và vận
dụng có hiệu quả hơn nữa quy luật giá trị và quan hệ hàng - tiền trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và theo tư

tưởng của V.I. Lênin khi thực hiện Chính sách kinh tế mới, là tiến hành
việc nhà nước điều tiết những mối quan hệ đó sao cho không phải là thủ
tiêu chúng, mà là phát triển chúng theo hướng mang lại hiệu quả kinh tế
cao.
Tóm lại, trong quan niệm của V.I.Lênin, NEP là "một phương
sách xử lý mới trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa", là bước lùi, là sự
"rút lui có tính chất chiến lược", lùi bước hay rút lui cho tới khi đã
chuẩn bị kỹ lưỡng, đã đủ sức để chuyển sang một cuộc tiến công vững
chắc". Chính sách kinh tế mới không phải là sự "đi chệch" khỏi con
đường xã hội chủ nghĩa, không phải là "sự đầu hàng" trước giai cấp tư
sản. Chính sách kinh tế mới là một sự thay đổi tất yếu, hợp lý và mềm
dẻo, linh hoạt, là sự thay đổi thận trọng, từng bước, song hết sức cần
thiết khi bối cảnh lịch sử đã có những thay đổi mang tính bước ngoặt.
Chính sách kinh tế mới không chỉ có ý nghĩa lớn lao với nước
Nga. Nó còn có ý nghĩa quốc tế và trong bối cảnh của công cuộc cải tổ,
đổi mới CNXH hiện nay, nó vẫn là cái cần thiết, mang tính thời sự.
Những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về NEP vẫn là những chỉ dẫn lý
luận cần thiết, kinh nghiệm thực hiện NEP ở nước Nga vẫn là bài học
kinh nghiệm bổ ích cho các nước đang trong giai đoạn thực hiện bước
quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có nước ta.
Vận dụng Chính sách kinh tế mới ở nước ta hiện nay chỉ có thể
thành công trên cơ sở đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh
tế, đồng thời đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường phát
triển "rút ngắn", với hình thức quá độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định.

16


2.2. So sánh hoàn cảnh Việt Nam và nước Nga Xô viết khi thực hiện

Chính sách kinh tế mới
Những điểm tương đồng
- Bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, cả Việt Nam và Nga đều
mới thoát khỏi cuộc chiến tranh kéo dài nước Nga 7 năm, Việt Nam 30
năm. Cuộc chiến tranh đó đều gây tổn thất nặng nề cho cả 2 nước.
- Cả 2 nước, khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH đều nằm
trong tình hình kinh tế chưa phát triển. CNTB chưa phát triển nhiều, bên
cạnh đó, nông nghiệp 2 nước tuy có mức độ khác nhau, nhưng nhìn
chung còn chiếm tỉ trọng chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân.
- Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, ở nước Nga Xôviết (năm
1921) cũng như ở Việt Nam, khi bước vào công cuộc đổi mới (năm
1986), tuy có khác nhau về mức độ, nhưng xét cho cùng đời sống nhân
dân của cả hai nước đều gặp nhiều khó khăn lại càng khó khăn thêm.
- Mặc dù cả 2 nước bước vào thời kỳ quá độ CNXH ở 2 thời
điểm lịch sử khác nhau nhưng trong nhận thức, lý luận cũng như trong
chỉ đạo thực tiễn của những cộng sản cả 2 nước đều có những điểm sai
lầm chủ quan giống nhau.Tuy nhiên, cả Đảng Bônsêvích Nga và Đảng
Cộng sản Việt Nam ngày nay, khi đã nhận thức ra sự sai lầm thì đều
dũng cảm, kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, yếu kém.
Khi nhận thấy sai lầm trong nhận thức về quá độ trực tiếp đi lên
CNXH, Lênin đã nhanh chóng, kiên quyết chuyển ngay sang áp dụng
NEP - con đường gián tiếp đi lên CNXH. Còn ở Việt Nam, khi nhận
thấy trong việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp. Đảng
đã kiên quyết đổi mới để cho CNXH ở Việt Nam phát triển hợp với quy
luật khách quan. Điều đáng quan tâm nhất ở đây là nước Nga trước khi
thực hiện NEP (năm 1921) và Việt Nam trước khi bắt tay vào công cuộc
đổi mới đất nước là tình trạng kinh tế - xã hội ở cả hai nước đều lâm vào
tình trạng khủng hoảng khá nghiêm trọng.
Những nét khác biệt
Từ những năm 1921, nước Nga Xôviết chuyển từ hoàn cảnh

chiến tranh sang thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước. Việt nam, từ năm
1986, công cuộc đổi mới được bắt đầu. Đối với nước Nga, như Lênin đã
nhận xét, khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tuy CNTB mới phát
triển ở mức trung bình, nhưng Nga là một nước mà sự phát triển kinh tế
kém nhất Châu Âu, song so với Việt Nam, điểm xuất phát đi lên CNXH
của nước Nga vẫn còn cao hơn nhiều.

17


Ở nước Nga khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, đội ngũ
chuyên gia có trình độ thiếu nghiêm trọng. Còn nước ta khi bước vào
giai đoạn đổi mới đất nước, nước ta đã có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật,
cán bộ quản lý và công nhân kỹ thuật lành nghề khá đông đảo.
Nước Nga Xôviết xây dựng đất nước theo con đường đi lên
CNXH trong một thời điểm mà cả thế giới chưa ai làm. Thành công hay
thất bại, xây dựng nó như thế nào? Bắt đầu từ cái gì? CNXH trong lý
luận Mác có trở thành hiện thực hay không? Hàng trăm câu hỏi, hàng
loạt vấn đề đặt ra đối với Lênin cũng như nhân dân Xôviết là những thử
thách ghê gớm. Hơn nữa, chủ nghĩa đế quốc lúc bấy giờ lại đang có âm
mưu cấu kết hòng bóp chết nhà nước XHCN còn rất non trẻ, chẳng
những tiêu diệt cách mạng nước Nga mà còn xa hơn nữa là ngăn chặn
sự phát triển của CNXH lan ra phạm vi toàn thế giới. Còn nước ta, sự
biến đổi của hệ thống CNXH và tình diễn ra ở các nước Đông Âu, ở
Liên Xô càng làm cho chúng ta phải có những điều chỉnh con đường và
mô hình CNXH cho phù hợp hơn với tình hình thế giới hiện nay.
Năm 1921, nước Nga bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, vào
thời kỳ đó nền văn minh của nhân loại chỉ mới đạt tới nền văn minh cơ
khí. Do đó cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là một nền đại công
nghiệp cơ khí hóa, có năng suất lao động cao. Còn nước ta bước vào

công cuộc đổi mới đất nước nằm trong khung cảnh nền văn minh của
nhân loại đã bước sang một giai đoạn mới - giai đoạn của nền văn minh
tin học. Đó là điều kiện thuận lợi cho phép chúng ta tiến hành xây dựng
đất trong mối quan hệ giao lưu với các nước trên thế giới trong mọi lĩnh
vực như: kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật...
2.3. Việt Nam tiến hành xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng CNXH từ trong quá trình đổi mới đât nước năm 1986 đến
nay
Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối
đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc
xây dựng CNXH. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần với những hình thức kinh doanh phù hợp. Đại hội xác định: “Nền
kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá
độ”.
Nghị quyết Hội nghị lần IV Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa
VI) tiến thêm một bước: công nhận sự tồn tại lâu dài và tác động tích
cực của kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân sản xuất, dịch
vụ; bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp

18


của công dân trong các loại hình kinh tế này...Việc thừa nhận cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần đã tạo tiền đề hết sức quan trọng cho sự hình
thành, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Đại hội lần thứ VII (6/1991) khẳng định những thành tựu trong
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta: “bước đầu hình thành nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước”. Đồng thời, Đại hội tiếp tục khẳng định, mục tiêu phát
triển kinh tế thị trường chính là để xây dựng CNXH

Đồng thời, Đại hội cũng đề cập rõ hơn việc sử dụng kinh tế thị
trường để thực hiện định hướng XHCN. “Kinh tế quốc doanh giữ vai trò
chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng”. “Mục
tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người.
Kết hợp hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội,
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời
sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để
thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động
lực thúc đẩy phát triển kinh tế”. Chống tệ quan liêu và những hành vi
xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân; ngăn chặn và khắc phục dân
chủ hình thức... Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước theo phương hướng:
Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khoá VII của Đảng
tiếp tục làm rõ quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng
XHCN. “Tăng trưởng kinh tế phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước phát triển... Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xoá đói giảm nghèo”.
Đại hội lần thứ VIII (tháng 12/1996) đã chỉ ra, kinh tế thị trường
không chỉ có tác động tích cực đến thực hiện định hướng XHCN, mà
“Kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hoá giàu nghèo quá mức, là tâm lý
sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm...”.
Đại hội lần thứ VIII xác định rất rõ cách thức thực hiện định hướng
XHCN trong phát triển kinh tế thị trường:
- Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên
tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống của nhân


19


dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành
phần kinh tế và hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với
kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện kinh tế và
pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn
lâu dài. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà
nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước. Áp dụng
phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Xác lập củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao
động trong nền sản xuất xã hội, thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt
hơn.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết
quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa
trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất - kinh
doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
- Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác
triệt để vai trò tích cực đi đôi với khắc phục và ngăn ngừa, hạn chế
những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Bảo đảm sự bình đẳng về
quyền và nghĩa vụ trước pháp luật của mọi doanh nghiệp và cá nhân
không phân biệt thành phần kinh tế.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc trong quan hệ kinh tế với bên ngoài.
Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001), Đảng Cộng sản Việt Nam đã
nêu ra mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta là “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.” Đại

hội chỉ rõ: nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần xây dựng là nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN. Với những đặc trưng cơ bản:
- Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo;
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà
nước. Nhà nước ta là Nhà nước XHCN, quản lý nền kinh tế bằng pháp
luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị
trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh

20


tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy
mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,
bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
- Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo
mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và
thông qua phúc lợi xã hội.
- Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
phát triển văn hóa và giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân,
nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực của đất nước.

Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
bao hàm đặc trưng của kinh tế thị trường và của CNXH. Bởi vậy, chủ
trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
là sự vận dụng học thuyết kinh tế Mác - Lênin vào hoàn cảnh của Việt
Nam.
Đại hội lần thứ X của Đảng (12/2006) tiếp tục khẳng định: “Để
đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN”. Đại hội lần thứ X đã bàn sâu về xây dựng thể chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN, để thực hiện được điều đó Đại hội
lần thứ X đã kế thừa các tư tưởng của Đại hội lần thứ VIII, IX về quan
hệ giữa phát triển kinh tế thị trường và định hướng XHCN và chỉ rõ
những nội dung cần thực hiện:
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước. Nhà nước
tập trung làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng các
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách trên cơ sở tôn trọng và
tuân thủ các nguyên tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi
để phát huy các nguồn lực của xã hội cho phát triển; đảm bảo tính bền
vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường; thực hiện quản lý nhà nước bằng
hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động
của thị trường và doanh nghiệp...
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại
thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.

21


- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức
sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế... hoạt động theo pháp luật
đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng tồn tại và phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Tiếp tục tư tưởng của Đại hội lần thứ X, Hội nghị lần thứ sáu
BCHTW (khoá X) nói rõ hơn về kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là
sản phẩm của văn minh nhân loại được phát triển tới trình độ cao dưới
CNTB, nhưng tự bản thân nó không đồng nghĩa với CNTB. Thực tiễn
đổi mới ở nước ta đã chứng minh đầy sức thuyết phục về việc sử dụng
kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng CNXH. Dưới góc độ thể
chế, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN được định nghĩa: “Đó là
nền kinh tế trong đó các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành kinh
tế thị trường được tự giác tạo lập và sử dụng để giải phóng triệt để sức
sản xuất, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở nước ta là một nền kinh tế vừa tuân theo
quy luật của kinh tế thị trường, vừa chịu sự chi phối bởi các quy luật
kinh tế của chủ nghĩa xã hội và các yếu tố bảo đảm tính định hướng
XHCN.
Hội nghị lần thứ sáu BCHTW (khoá X) đã xác định nội dung
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN:
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu.
- Hoàn thiện thể chế về phân phối.
- Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động
của các chủ thể trong nền kinh tế.
- Hoàn thiện thể chế đảm bảo đồng bộ các yếu tố thị trường và
phát triển đồng bộ các loại thị trường.
- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ
môi trường.
- Hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế, tăng cường sự tham gia của

các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và của
nhân dân vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Việc thể chế hoá nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ có tác động kép: vừa thúc đẩy
kinh tế thị trường phát triển, vừa thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH.

22


2.4. Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong Chính sách kinh tế mới
của Lênin
Từ Đại hội V và đặc biệt là từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng
và Nhà nước ta vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lênin trong nội dung
của NEP đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng trong việc sử dụng
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, để tạo ra những đòn bẩy kinh tế thúc đẩy sản
xuất và đời sống phát triển. Hơn 20 năm qua, những chủ trương, chính
sách lớn có ý nghĩa chiến lược đã được thực thi và đạt kết quả tốt.
Một là, duy trì và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần (kinh tế thị trường định hướng XHCN) trong suốt thời kỳ quá độ
và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chủ trương
này là sự vận dụng sáng tạo quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong NEP vào
điều kiện nước ta.
Hai là, xây dựng thị trường xã hội thống nhất trong cả nước và
gắn với thị trường thế giới. Thực hiện chính sách một giá
Vận dụng sáng tạo NEP, Đảng ta đã quyết định xây dựng một
thị trường xã hội thống nhất, bảo đảm cho mọi hàng hoá được lưu thông
thông suốt trong cả nước. Thực hiện chính sách một giá trên cơ sở vận
dụng quy luật giá trị và quan hệ cung - cầu hàng hoá, bảo đảm giá cả sát
với giá trị, xoá bỏ tình trạng "lỗ thật, lãi giả" trong nền kinh tế. Gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới là đòi hỏi khách quan để cho
nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh.

Ba là, chấp nhận tự do cạnh tranh và mở rộng liên doanh liên
kết giữa các thành phần kinh tế, giữa trong nước với ngoài nước
Đảng ta đã quyết tâm từ bỏ mô hình kinh tế bao cấp xơ cứng chỉ
có 2 thành phần kinh tế; không thị trường, không có cạnh tranh và
không có liên doanh liên kết kinh tế… thay thế bằng nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN với nhiều thành phần kinh tế tham gia.
Bốn là, phát triển mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN phải dựa vào phát huy nội lực là chính, đồng thời kết hợp với sử
dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực
Năm là, xây dựng chính sách tài chính quốc gia phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN
Từ cơ chế ngân sách bao cấp Đảng và Nhà nước ta đã chủ
trương nhanh chóng phải chuyển sang xây dựng chính sách tài chính
quốc gia phù hợp với kinh tế thị trường. Trước hết là thay đổi cơ chế

23


hoạt động của hệ thống ngân hàng, tách các ngân hàng phục vụ sản xuất
và kinh doanh, tín dụng thành hệ thống ngân hàng hoạt động theo cơ chế
kinh doanh và thực hiện hạch toán kinh tế. Thành lập Kho bạc Nhà nước
không làm chức năng kinh doanh tiền tệ mà chỉ có chức năng quản lý
các quỹ ngân sách như quỹ dự trữ tài chính của Nhà nước, quỹ ngoại tệ
tập trung của Nhà nước… Từng bước thực hiện Luật Ngân sách, bảo
đảm ngân sách Nhà nước thật sự trở thành một công cụ mạnh để Nhà
nước quản lý nền kinh tế.
Sáu là, trong tình hình nền kinh tế nước ta đang gặp khó khăn
tạm thời như hiện nay do tác động của khủng hoảng kinh tế tài chính
toàn cầu, Đảng ta vẫn lấy phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh” làm mục tiêu trung tâm để đưa ra những nhóm giải
pháp hữu hiệu nhằm kiềm chế và đẩy lùi lạm phát và tăng giá; kích cầu
sản xuất, tiêu dùng, bảo đảm đời sống dân sinh và phát triển bền vững…
Những giải pháp lớn trên đây là sự vận dụng sáng tạo của Đảng
ta về mối quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong điều kiện kinh tế - xã hội hiện
nay. Những giải pháp đó đã và đang phát huy tác dụng: lạm phát, tăng
giá cao đã được kiềm chế và chặn đứng vào cuối năm 2009, tính thanh
khoản của nền kinh tế đã trở lại bình thường, nhiều mặt hàng đặc biệt là
những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống dân sinh giá cả đã ổn
định, tạo niềm tin và phấn khởi trong nhân dân.

KẾT LUẬN
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn đã đạt được đã chỉ cho
chúng ta thấy rõ quan điểm đổi mới về kinh tế được trình bày trong NEP
của Lênin là hoàn toàn đúng đắn, kịp thời, hợp quy luật khách quan; là
tất yếu của lịch sử. NEP thể hiện tính cần thiết, kịp thời, mau lẹ khi thời
cơ mới xuất hiện (sau nội chiến) cần phải có cách nhìn nhận đánh giá
đúng với yêu cầu đặt ra, nó thể hiện sự năng động sáng tạo của tư duy
nhận thức, thống nhất quan điểm triết học với tư tưởng kinh tế, tránh rơi
vào "cằn cỗi" hay công thức, ngại ngần khi thời cơ cho phép, đó chính là
quy luật phát triển.

24


Nhờ có việc áp dụng NEP đúng thời điểm, mà chính quyền Xô
viết đã nhanh chóng thoát ra cuộc khủng hoảng, mặc dù xuất phát điểm
kinh tế lạc hậu và kiệt quệ ảnh hưởng nặng nề từ nội chiến.
Những giá trị của NEP đã làm thay đổi hoàn toàn bộ mặt nước
Nga từ những năm 1921 đến 1928 và các nước chủ nghĩa xã hội sau

ngày đổi mới, ở Trung Quốc năm 1979, Việt Nam năm 1986 đã chứng
minh tư tưởng của Lênin trong thời ký quá độ lên CNXH ở các nước
nông nghiệp lạc hậu, có điểm xuất phát thấp....
Những quan điểm của Lênin trong Chính sách kinh tế mới còn
đề cập đến phát triển kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ hàng
hoá tiền tệ kinh tế thị trường. Lênin cũng khuyến khích hợp tác kinh tế
với nước ngoài để tiếp thu những tiến bộ của các nền kinh tế phát triển.
Lênin đã nhìn nhận CNTB ở những khía cạnh tích cực và chủ trương sử
dụng những tiến bộ của CNTB để xây dựng XHCN ở những nước kinh
tế chậm phát triển. Với việc vận dụng Chính sách kinh tế mới phù hợp,
nên chỉ sau đó khoảng 4 - 5 năm, nước Nga đã vượt ra khỏi cuộc khủng
hoảng kinh tế xã hội, là tiền đề cho sự phát triển sau này .
Từ Đại hội VI (1986), với hơn 20 năm đổi mới đã tạo một bước
ngoặt cho sự phát triển của Việt Nam, với đường lối đổi mới do Đảng
khởi xướng và lãnh đạo. Đảng ta xác định rằng, đổi mới trước hết phải
đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế. Tư tưởng cải cách của Lênin và
Chính sách kinh tế mới đã từng làm hồi sinh nước Nga, giờ đây đã lại
một lần nữa thể hiện giá trị, ý nghĩa và sức sống trên mảnh đất thực tiễn
của đổi mới ở Việt Nam. Việc trù tính khả năng ứng dụng NEP vào Việt
Nam đã xuất hiện từ sớm trong những quan niệm của Hồ Chí Minh, giờ
đây được vận dụng, thực hành trong đổi mới. Đó là vận dụng tinh thần
và phương pháp của NEP, là thực hành sáng tạo, kế thừa để phát triển và
phát triển trong những điều kiện mới, hoàn cảnh mới, chứ không phải là
sao chép máy móc, giáo điều, vốn rất xa lạ với phép biện chứng, với tư
duy biện chứng của Lênin và Hồ Chí Minh.
Trên lĩnh vực kinh tế, đổi mới ở Việt Nam đã bắt đầu từ cơ chế
khoán trong nông nghiệp, từ khoán sản phẩm trong các gia đình xã viên
đến khoán hộ đối với từng hộ nông dân, coi kinh tế hộ là đơn vị kinh tế
cơ bản ở nông thôn, lấy lợi ích của cá nhân - cá thể người lao động làm
cơ sở thực hiện lợi ích xã hội, là động lực để phát triển kinh tế - sản

xuất. Đây là khâu đột phá quan trọng, nhanh chóng đem lại hiệu quả.
Với đổi mới, kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước
pháp quyền, dân chủ, Việt Nam đã chủ động hội nhập, đã mở cửa, hợp

25


×