Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về kinh tế,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.65 KB, 33 trang )

MỤC LỤC


A. MỞ ĐẦU
Trong những năm đầu thế kỷ 21, đất nước ta có cơ hội lớn và cả thách
thức không nhỏ. Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, nhanh chóng,
khó lường. Ðể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời
kỳ phát triển mới, cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên
lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
để giải quyết những vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn đang đặt ra; nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải trở thành một nhiệm vụ
mấu chốt của công tác tư tưởng của Ðảng, cần được toàn Ðảng thực hiện chặt
chẽ, có chất lượng và hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền,
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh là nhiệm vụ chính trị quan trọng thường
xuyên của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân; là nội dung trọng yếu trong công
tác xây dựng Ðảng, là tình cảm, nguyện vọng thiết tha của mọi người Việt
Nam. Nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải nhằm
mục đích lâu dài, nhất quán, là biến tư tưởng của Người thành hiện thực; hình
thành và phát triển tố chất Hồ Chí Minh, tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và
sáng tạo trong mỗi con người Việt Nam. Việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh ở mỗi người có một ý nghĩa khác nhau. Mỗi
người tùy vị trí, hoàn cảnh, lối sống và tự rút ra những bài học cho riêng mình
để từ đó tự mình hoàn thành một cách có hiệu quả mọi công việc, mang lại lợi
ích cho bản thân và toàn xã hội. Chính vì vậy, trong học phần Tư tưởng Hồ
Chí Minh về kinh tế, tôi đã lựa chọn đề tài: “Sau khi nghiên cứu Tư tưởng
Hồ Chí Minh về kinh tế, anh chị tiếp thu được những tri thức mới gì cho bản
thân ? ». Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do còn nhiều hạn chế nên bài tiểu
luận của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự góp
ý của các thầy, cô để bài tiểu luận của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân
thành cảm ơn !


2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ THÂN THẾ, SỰ NGHIỆP
CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1.Khái quát chung về thân thế và sự nghiệp của Chủ tịch
Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh (lúc nhỏ tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học
tên là Nguyễn Tất Thành, hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái Quốc)
sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, tại làng Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Với lòng yêu nước nồng nàn, ngày 5/6/191l
Nguyễn Tất Thành đã ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia lập Hội vận
động cách mạng của nhân dân nhiều nước và đấu tranh giải phóng dân tộc
mình. Ngày 18/6/1919, với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã thay mặt Hội
những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gởi tới Hội nghị Véc-xây bản yêu
sách, đòi Chính phủ các nước họp Hội nghị phải thừa nhận các quyền tự do,
dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Năm 1920, tại Đại hội
Tua, Người đã tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1921, Người
tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp năm 1922 xuất
bản tờ báo Người cùng khổ ở Pháp. Năm 1923, Người được bầu vào Ban
Chấp hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham gia Đại hội lần thứ V
của Quốc tế Cộng sản và được chỉ định là Ủy viên Thường trực Bộ Phương
Đông, trực tiếp phụ trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia
thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức châu Á xuất bản cuốn sách nổi
tiếng Bản án chế độ thực dân Pháp...
Sau gần mười năm tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã đi đến
nhiều châu lục, tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế quốc ở các nước tư
bản chủ yếu và nhiều nước thuộc địa của chúng. Sớm nhận thức được xu
hướng phát triển của thời đại, Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên

ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác 3


Lênin con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước
thuộc địa. Người nói: 'Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản'. Để chuẩn bị cho việc thành
lập Đảng của những người cộng sản Việt Nam, năm 1925, Người thành lập
Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức
Cộng sản Đoàn làm nòng cốt, đào tạo cán bộ cộng sản để lãnh đạo Hội và
truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Năm 1929, nhiều tổ chức
cộng sản đã ra đời ở Việt Nam: Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng
sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ
trì Hội nghị thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Ngày 3/2/1930 Đảng
Cộng sản Việt Nam được thành lập.
Từ năm 1930 - 1940, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tiếp tục hoạt động cho
sự nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức khác
trong điều kiện vô cùng khó khăn, gian khổ.
Năm 1941, Người về nước triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, xác định đường lối đấu tranh
giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt
Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng, xây dựng căn cứ địa cách
mạng, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và tổng khởi nghĩa giành
chính quyền trong cả nước.
Cách mạng Tháng Tám năm l945 thắng lợi. Ngày 2/9/1945 tại Quảng
trường Ba Đình, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả nước, bầu
Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc hội
khoá I (1946) đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đã đập tan âm mưu đen tối của các thế lực thù địch, phản động,

bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng.

4


Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch
Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp
xâm lược đã giành thắng lợi vẻ vang, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ chấn động địa cầuuuu (1954).
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch tiếp
tục lãnh đạo nhân dân ta thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.
Quốc hội khóa II, khóa III bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đề ra đường lối đúng đắn lãnh đạo cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt
Nam chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ lãnh đạo sự nghiệp cải tạo
xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác đặt nền móng và không ngừng vun đắp tình hữu nghị giữa
dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Cộng sản Việt Nam
với các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần ngày 2/9/1969, hưởng thọ 79 tuổi.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vô cùng vĩ đại.
Dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990), tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp quốc (UNESCO) đã phong tặng Chủ tịch

Hồ Chí Minh danh hiệu: Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất.

5


CHƯƠNG 2. NHỮNG KIẾN THỨC MỚI SAU KHI HỌC MÔN HỌC
2.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế nhằm nâng cao đời sống
nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng vĩ đại và là nhà lý luận thiên tài
của cách mạng Việt Nam. Trong suốt hơn 30 năm bôn ba khắp năm châu tìm
đường cứu nước và 24 năm trực tiếp lãnh đạo cách mạng trong nước, Người
đã giành hết sức lực cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển kinh tế.
Theo Người, phát triển kinh tế là nội dung quan trọng nhất, Người cho rằng:
đất nước được độc lập mà dân còn đói rách thì độc lập không có nghĩa gì. Vì
vậy, những tư tưởng kinh tế của Người đều chứa đựng những nội dung thiết
thực và gắn với lịch sử đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và vì
cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân ta. Trong suốt cả quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, bên cạnh việc quan tâm đến sự nghiệp giải phóng dân
tộc, Người luôn luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển sản xuất để nâng cao
đời sống cho nhân dân.
Tư tưởng phát triển kinh tế ở Hồ Chí Minh bao giờ cũng cũng mang
tính giai cấp, nghĩa là phải theo lập trường giai cấp công nhân, phục vụ cho
lợi ích giai cấp công nhân. Vì lợi ích giai cấp công nhân là phù hợp với lợi ích
toàn dân tộc và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, cho nên nó phải phục
vụ cho lợi ích của nhân dân lao động.
Hồ Chí Minh nhiều lần nói rằng mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội
là để không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Với chủ tịch Hồ Chí
Minh, mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của phát triển kinh tế là nâng
cao đời sống của nhân dân mà trước hết là nhân dân lao động; làm cho đời
sống của nhân dân ngày càng đầy đủ và sung sướng. Người chỉ rõ: “Mục

đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là
nhân dân lao động” .
6


+ Đời sống vật chất, theo Hồ Chí Minh là đảm bảo cho mọi người dân
được ăn no, mặc ấm, có nhà ở, có thuốc chữa bệnh khi ốm đau. Người đã nói:
“Dân sinh là cái gì? Là cái ăn, cái mặc, cái ở. Ba cái đó đều quan trọng” .
+ Đời sống tinh thần: Theo Hồ Chí Minh, trước hết là đảm bảo việc
học hành cho mọi người. Người nói: “Chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho
nhân dân ta ai cũng ăn no, mặc ấm, có việc làm, có giờ nghỉ, được học tập” .
Đời sống tinh thần còn bao hàm nội dung tự do tín ngưỡng, mọi người trong
xã hội có cuộc sống tinh thần phong phú, mọi tập tục hủ lậu của xã hội cũ bị
xóa bỏ.
Về con đường phát triển kinh tế của nước ta sau khi giành được độc
lập, Hồ chí Minh đã khẳng định, đó là con đường cải tạo và xây dựng nền
kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội: “Biến nền kinh tế lạc hậu thành một
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa
học và kỹ thuật tiên tiến” . Người cho rằng, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì trước tiên phải cải tạo nền kinh tế cũ, làm cho nó phục vụ đắc lực cho quốc
kế dân sinh. Người chỉ rõ việc cải tạo nền kinh tế cũ theo hướng xã hội chủ
nghĩa không thể làm một bước mà xong ngay được, phải làm từng bước với
từng hình thức thích hợp. Trước hết là phải khôi phục nông nghiệp để tạo tiền
đề kinh tế đưa nông dân đi dần vào con đường xã hội chủ nghĩa, thông qua
việc vận động nông dân vào làm ăn hợp tác. Người viết: “Nông dân muốn
giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã” . Tuy vậy, phải đi
dần từng bước, Người nói: “Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà
phải làm dần dần. Ở nông thôn phải có tổ đổi công để tăng gia sản xuất rồi
tiến lên hợp tác xã” .

Như vậy, về bản chất, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa phải được tạo lập
trên nền tảng chế độ công hữu, song ở thời kỳ quá độ nó vẫn tồn tại 4 hình
thức sở hữu chính: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu người lao động
riêng lẻ và sở hữu của nhà tư bản, không thể nôn nóng xóa bỏ ngay một lúc
được. Tư tưởng đó là cơ sở để xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, khai
7


thác và phát huy được mọi tiềm năng để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống
nhân dân.
Đồng thời, để nâng cao đời sống nhân dân, Nhà nước phải có chính
sách đúng đắn. Người cho rằng muốn nâng cao đời sống nhân dân thì phải
phát triển kinh tế. Nhưng kinh tế chỉ phát triển được khi quan hệ sản xuất phải
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định đặc điểm lớn nhất của nước ta là quá độ từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, để khai thác và phát huy được mọi tiềm
năng để phát triển kinh tế thì phải xóa bỏ các hình thức sở hữu không xã hội
chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên
chế độ sở hữu toàn dân và tập thể với nhiều thành phần kinh tế. Như vậy,
Người đã nhìn thấy toàn bộ sự vận động đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước
nông nghiệp lạc hậu trong thời kỳ quá độ là phải phát triển sản xuất, đồng thời
cải tạo quan hệ sản xuất. Người vạch rõ: “ nhiệm vụ phát triển sản xuất gắn
chặt với nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa”
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nêu ra mục tiêu của phát triển kinh tế
mà còn chỉ ra biện pháp để đạt được mục tiêu. Nhiều biện pháp cụ thể Hồ Chí
Minh đã chỉ ra, có thể trực tiếp, có thể gián tiếp, có thể cụ thể, có biện pháp
chung … Lợi dụng mọi cơ hội, mọi điều kiện để hướng mọi người với việc
thực hiện mục tiêu, không cao xa mà gần gũi với đời sống hiện thực của mỗi

con người. Đó là:
- Xây dựng dần, xây dựng từng bước nền móng kinh tế của chủ nghĩa
xã hội để từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
- Lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lý
- Cán bộ, đảng viên phải biết giáo dục, tổ chức, lãnh đạo, giúp đỡ,
hướng dẫn nhân dân tăng gia sản xuất.
- Nhà nước phải tẩy sạch các căn bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí.
8


Hồ Chí Minh xác định mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trước hết là nhằm
làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có được
công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Vì vậy, mục đích
của mọi đường lối, chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước là để nâng cao
đời sống nhân dân. Người cho rằng: Muốn nâng cao được đời sống của nhân
dân thì phải tăng gia sản xuất.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói về quan hệ chặt chẽ, gắn bó giữa đẩy
mạnh sản xuất với nâng cao đời sống của nhân dân. Đời sống chỉ có thể nâng
lên khi sản xuất phát triển. Bởi lẽ, sản xuất phát triển mới có nhiều của cải vật
chất để nâng cao đời sống nhân dân. Sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ thì đời
sống mới được cải thiện. Ngược lại, đời sống được cải thiện mới động viên,
khuyến khích nhân dân tích cực sản xuất. Vì vậy, chỉ có trên cơ sở đẩy mạnh
sản xuất, phát triển kinh tế, cuộc sống của nhân dân mới dần dần được cải
thiện. Người viết: “Chúng ta thi đua làm nhiều, làm nhanh là cốt tăng nhanh
mức sống của nhân dân lao động và tăng nhanh tích lũy để xây dựng công
nghiệp, mở mang kinh tế” .
2.2.Tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
nền kinh tế quốc dân
Theo Hồ Chí Minh, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
chúng ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài, gian khổ để biến nước ta từ

một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp. Người nhấn
mạnh, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật
chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”. Người đi đến kết luận, muốn xây dựng
chủ nghĩa xã hội, tất yếu phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Muốn đảm
bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù nhiều lần nhắc đến phát triển nông nghiệp làm gốc, nông nghiệp là
chính, nhưng Người vẫn nhấn mạnh công nghiệp hóa mới là con đường cơ
bản để phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân.

9


Khi nói về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh
đến vai trò của công nghiệp nặng. Người nói: “Để xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng”. Trong
nhận thức của Hồ Chí Minh, tuy không đồng nhất công nghiệp nặng với công
nghiệp nhưng Người luôn đặt hai khái niệm này cạnh nhau. Chẳng hạn, khi
Người nói: “Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng công nghiệp nặng”. “Muốn có nhiều
máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép,
than, dầu… Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp
hóa nước nhà”.
Tại Hội nghị ngành công nghiệp nhẹ ngày 16 tháng 1 năm 1965, Hồ
Chí Minh đã nhấn mạnh vai trò của công nghiệp nhẹ: “Mọi chính sách của
Đảng và Chính phủ ta đều nhằm xây dựng chủ nghĩa xã hội và không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân. Ngành công nghiệp nhẹ quan hệ rất khăng
khít với đời sống hang ngày của nhân dân. Vì vậy, nhiệm vụ của công nghiệp
nhẹ là rất quan trọng”. Người cũng rất coi trọng ngành tiểu thủ công nghiệp
và công nghiệp địa phương. Tại Hội nghị tổng kết công tác của Bộ Công
nghiệp ngày 22 tháng 1 năm 1960, Người đã nói về cách thức phát triển công

nghiệp địa phương như sau: “Đối với công nghiệp địa phương còn mới, các xí
nghiệp quốc doanh phải chú ý giúp đỡ làm cho công nghiệp địa phương ngày
một phát triển. Nhưng các địa phương không nên ỷ lại vào Trung ương mà
phải chú ý làm cho đúng phương châm: vốn, nguyên liệu, vật liệu, người địa
phương là chính; sản xuất hàng ra chủ yếu bán ở địa phương”.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa, lựa chọn cơ cấu kinh tế nào cho hợp lý cho chặng đường đầu là một
vấn đề hết sức nan giải.
Ngay từ đầu, Hồ Chí Minh xác định, đó là cơ cấu công - nông nghiệp
hiện đại và đưa ra quan niệm hết sức độc đáo về cơ cấu kinh tế công - nông
10


nghiệp và vai trò của thương nghiệp trong phát triển kinh tế, xã hội ở thời kỳ
quá độ. Theo Hồ Chí Minh, trong cơ cấu toàn bộ nền kinh tế quốc dân, công
nghiệp và nông nghiệp có vai trò, vị trí riêng. Đây là hai ngành sản xuất ra
những sản phẩm, đáp ứng những nhu cầu khác nhau của nền kinh tế, của toàn
xã hội.
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
nền kinh tế nước nhà, Hồ Chí Minh rất chú ý đến công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn. Người nhiều lần nói đến việc sử dụng máy móc trong sản
xuất nông nghiệp.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi liền với xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật là công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học, kỹ thuật phục
vụ sản xuất. Để tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật,
Người rất coi trọng việc nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động, cũng
như rất coi trọng lao động trí óc. Người nói: “Lao động trí óc có quý không?
Quý. Lao động chân tay có quý không? Quý. Người lao động trí óc mà không
liên hệ với lao động chân tay thì chỉ là trí thức một nửa. Còn người lao động

chân tay mà văn hoá kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không
hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa”. Người còn căn dặn những cán bộ khoa
học, kỹ thuật: “Phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền
bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh sản xuất nhiều,
nhanh, tốt, rẻ”.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi liền với xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật là công tác nghiên cứu và phổ biến khoa học, kỹ thuật phục
vụ sản xuất. Để tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật,
Người rất coi trọng việc nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động, cũng
như rất coi trọng lao động trí óc. Người nói: “Lao động trí óc có quý không?
Quý. Lao động chân tay có quý không? Quý. Người lao động trí óc mà không
liên hệ với lao động chân tay thì chỉ là trí thức một nửa. Còn người lao động
chân tay mà văn hoá kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không
11


hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa”. Người còn căn dặn những cán bộ khoa
học, kỹ thuật: “Phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền
bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh sản xuất nhiều,
nhanh, tốt, rẻ”.
Theo Hồ Chí Minh, bước đi cụ thể của quá trình công nghiệp hóa ở
nước ta là:
1. “Ta cho nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên”;
2. “Rồi đến thủ công nghiệp và công nghiệp nhẹ”,
3. “Sau mới đến công nghiệp nặng”.
Từ những nhận thức đúng đắn đó, Hồ Chí Minh nêu lên một số quan
điểm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, công nghiệp hóa là sự nghiệp của toàn dân.
Thứ hai, công nghiệp hóa và nông nghiệp luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa công nghiệp và

nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa là sự thể hiện tư duy sáng tạo
của Người. Tiếc rằng, một thời gian dài trước đây, ta chưa nhận thức thấu đáo
nên trong triển khai thực hiện còn gặp nhiều vấp váp.
2.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế nông nghiệp và
nông thôn
* Về vai trò của nông nghiệp, nông thôn
- Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm và các nguyên liệu
đảm bảo nhu cầu ăn, mặc, ở cho toàn xã hội
- Nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp và các ngành kinh tế
quốc dân khác.
- Nông nghiệp, nông thôn là thị trường tiêu thụ hàng hóa của công nghiệp.
* Về các giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn
- Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động trong
nông nghiệp
- Xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, nông thôn
12


Thứ nhất, đa dạng hóa các hình thức sở hữu ruộng đất trong nông nghiệp
Thứ hai, quản lý và phân phối phải được tiến hành dân chủ, công khai,
minh bạch.
- Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện
Với tư duy lô gic biện chứng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến xây
dựng một nền nông nghiệp toàn diện. Chỉ phát triển nền nông nghiệp toàn
diện mới khai thác một cách có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, đáp ứng
được nhu cầu ngày càng tăng và càng đa dạng của sản xuất cũng như tiêu
dùng. Ở nông thôn phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, nghĩa là phải
phát triển cả nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Trong nông nghiệp lại
phải phát triển toàn diện cả trồng trọt, chăn nuôi, nghề phụ.v.v.
Theo Hồ Chí Minh, nền nông nghiệp toàn diện là một nền nông nghiệp:

- Có ngành trồng trọt phát triển toàn diện. Trong nghành trồng trọt cũng
phải phát triển toàn diện cả cây lương thực, cây hoa màu, cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây lấy gỗ v.v. Người nói: “Phải hết sức phát triển hoa màu. Chỉ
có thóc, không có hoa màu thì không được. Hoa màu không những là lương
thực quý của người, mà còn dùng để chăn nuôi. Ngoài lương thực, hoa màu
Người thường xuyên nhắc nhở bà con nông dân ở các tỉnh mỗi khi có dịp về
thăm là phải dựa vào thế mạnh và điều kiện thời tiết, thổ nhưỡng ở mỗi nơi
mà trồng các lợi cây cho phù hợp như trồng bông, chè, cà phê, lạc, vừng,
trồng dâu nuôi tằm, trồng mía, thuốc lá, cây ăn quả, cây lấy gỗ v.v. Người rất
chú trọng đến phong trào trồng cây gây rừng và phát động tết trồng cây hàng
năm mỗi khi tết đến xuân về. Về lợi ích của việc trồng cây, Bác viết: “Mỗi tết
trồng được độ 15 triệu cây. Từ năm 1960 đến năm 1965…chúng ta sẽ có 90
triệu cây, vừa cây ăn quả, cây có hoa, vừa cây làm cột nhà. Và trong mười
năm, nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp, khí hậu điều hòa hơn, cây gỗ
đầy đủ hơn”.
- Có ngành chăn nuôi phát triển toàn diện.

13


Nói về lợi ích của phát triển chăn nuôi, Người chỉ rõ: “Phải phát triển
mạnh chăn nuôi để đảm bảo có thêm thịt ăn, thêm sức kéo, thêm phân bón.”.
“Vì chăn nuôi kém mà phân bón ít, lại vì phân bón ít mà sản lượng lúa và hoa
màu giảm sút”. Trong chăn nuôi, Người cũng thường nhắc nhở phải chú trọng
chăn nuôi trâu, bò, lợn. Bên cạnh đó phải chú ý chăn nuôi dê, thỏ, gà, vịt v.v.
- Có ngành lâm nghiệp phát triển toàn diện
Không chỉ quan tâm đến trồng cây lấy gỗ ở vùng đồng bằng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh còn luôn quan tâm, khuyến khích nhân dân ở các vùng dân tộc
miền núi trồng rừng và bảo vệ rừng. Người nhấn mạnh: “Đồng bào phải chú ý
bảo vệ rừng và trồng cây gây rừng. Tục ngữ có câu “rừng vàng, biển bạc”.

Chúng ta chớ lãng phí vàng mà phải bảo vệ vàng của chúng ta”. Người còn
nhắc nhở: “Phá rừng thì dễ, nhưng gây lại rừng thì phải mất hàng chục năm.
Phá rừng nhiều như vậy sẽ ảnh hưởng đến khí hậu, ảnh hưởng đến sản xuất,
đời sống rất nhiều”.
- Có ngành ngư nghiệp phát triển toàn diện
Nước ta có diện tích biển rất lớn, với trên 3.000 km bờ biển, bên cạnh
đó là hệ thống sông ngòi, ao hồ dày đặc rất thuận lợi cho việc nuôi, trồng,
đánh bắt và chế biến thủy hải sản cũng như những tài nguyên khác được khai
thác từ biển. Bởi vậy, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến phát triển kinh tế biển,
nhất là phát triển ngư nghiệp và nghề làm muối. Khi nói chuyện với nhân dân
huyện đảo Cô Tô (Quảng Ninh), Người nhấn mạnh: “Cần đẩy mạnh nghề
đánh cá, nghề làm muối, nuôi dưỡng và bảo vệ các thứ hải sản, trân châu
v.v.”. Nói chuyện với nhân dân xã Đại Nghĩa (Hà Đông), Người lại khuyến
khích bà con nuôi thả cá: “Cần đẩy mạnh thả cá để cung cấp thêm thực phẩm
bổ sung cho thịt, cải thiện đời sống nhân dân. Nuôi cá cũng dễ, có nước và có
công thì cá phát triển”.
- Có các ngành nghề phụ phát triển
Đặc điểm của canh tác nông nghiệp là có tính chất thời vụ nên còn
nhiều thời gian rảnh rỗi. Hơn nữa Người Việt Nam vốn cần cù, yêu lao động
14


lại có bàn tay khéo léo nên việc mở mang, phát triển các nghành, nghề phụ
trong nông thôn là cực kỳ cần thiết. Nó vừa góp phần giải quyết công ăn, việc
làm tăng thu nhập cải thiện đời sống nhân dân, vừa tạo ra nhiều hàng hóa tiêu
dùng đáp ứng cho nhu cầu của xã hội và xuất khẩu. Ở nông thôn có rất nhiều
nghề phụ như nghề mộc, rèn, dệt, may, thêu, mây tre đan, đúc đồng, các nghề
làm bánh trái, giò chả.v.v. Vì vậy Hồ Chí Minh thường động viên nhân dân
các địa phương phát triển nghề phụ và kinh tế phụ gia đình. Người nói:
“Miếng vườn của mỗi gia đình xã viên và các loại nghề phụ là nguồn lợi để

tăng thu nhập” và Người nhắc nhở: “Phát triển thích đáng kinh tế phụ gia đình
của xã viên”.
- Có quy hoạch, kế hoạch phát triển
Theo Người, nền nông nghiệp phát triển toàn diện không thể là nền
nông nghiệp phát triển một cách tự phát, nhỏ lẻ, manh mún mà phải là nền
nông nghiệp phát triển theo quy hoạch, kế hoạch được xây dựng trên cơ sở
khoa học. Đó là nền nông nghiệp phải được chuyên môn hóa, hợp tác hóa
trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Người viết: “Trong kế hoạch 5
năm còn nói đến việc bắt đầu khoanh vùng nông nghiệp. Như nơi nào sản
xuất lúa nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất lúa là chính, nơi nào
sản xuất chè nhiều và tốt thì nơi đó sẽ thành vùng sản xuất chè là
chính,v.v.Làm như vậy thì sẽ sử dụng một cách hợp lý và có lợi nhất của cải
giàu có của đất nước ta và sức lao động dồi dào của nhân dân ta. Làm như vậy
thì sau này dùng máy móc cũng dễ và tiện”.
- Phải xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn
+Trước hết, phải quan tâm đến phát triển thủy lợi đảm bảo việc tưới,
tiêu nước kịp thời.
+ Phải quan tâm đến phát triển điện và giao thông nông thôn
+ Phải quan tâm đến xây dựng nhà ở cho nhân dân
+ Phải quan tâm đến phát triển giáo dục, y tế, nâng cao trình độ dân trí
và sức khỏe cho nhân dân.
15


- Phải tăng cường sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước đối với nông
nghiệp, nông thôn và nông dân.
Thứ nhất, ban hành hệ thống các chính sách hỗ trợ nông nghiệp.
+ Chính sách giá cả: Người nêu ra phương châm định giá: “Giá cả quy
định là phải chăng, vừa lợi cho nhân dân, vừa lợi cho chính phủ”; “Mua, bán
phải theo giá cả thích đáng …Giá cả phải bảo đảm cho Nhà nước, hợp tác xã

và xã viên cùng có lợi để xây dựng nước nhà”. Tuy nhiên do ảnh hưởng của
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp và hoàn cảnh chiến tranh nên việc
định giá của chúng ta còn nhiều thiếu sót, chưa đúng quy luật, giá cả không
phản ánh đúng giá trị, dẫn tới người nông dân chịu thiệt thòi nhiều trong sản
xuất kinh doanh, kém niềm phấn khởi.
+ Chính sách thuế nông nghiệp
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở việc thực hiện chính sách thuế là
phải nhằm khuyến khích sản xuất, khuyến khích tăng năng suất lao động .
Người nói: “Thuế phải khuyến khích sản xuất. Cho nên Nhà nước chỉ thu thuế
những cây trồng chính. Trồng xen kẽ được miễn thuế. Tăng vụ chưa quá 3
năm, vỡ hoang chưa quá 5 năm, đều chưa phải nộp thuế”. Người còn chủ
trương, sau khi kết thúc chiến tranh phải thực hiện miễn thuế nông nghiệp
một số năm cho nông dân để họ thêm niềm phấn khởi, mát dạ, mát lòng.
+ Một số chính sách giúp đỡ, hỗ trợ khác của Nhà nước như: hỗ trợ về
vốn, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, thị trường v.v.
Chẳng hạn Nhà nước cần phải giúp vốn để xây dựng kết cấu hạ tầng
cho nông nghiệp. Bác nói: “Chính phủ phải xuất tiền xây dựng những trường
học, mời thầy để đào tạo cán bộ các ngành về nông nghiệp. Chính phủ có
trách nhiệm xây dựng những công trình thủy lợi lớn và cùng nông dân, hợp
tác xã làm những công trình thủy lợi vừa. Để phát triển nông nghiệp, hợp tác
xã phải tậu trâu bò, sắm nông cụ, mua phâ hóa học v.v. Hợp tác xã còn nghèo,
thường thường Chính phủ phải giúp đỡ, phải cho vay vốn”. Người còn thường

16


xuyên nhắc nhở các ban nghành của Đảng và Chính phủ từ Trung ương đến
địa phương phải luôn quan tâm, giúp đỡ nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
2.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sở hữu tư liệu sản xuất và thành
phần kinh tế ở Việt Nam

quan niệm của Hồ Chí Minh về vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất được thể
hiện ở những vấn đề sau:
Trước hết, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Từ cộng sản nguyên thuỷ đến chế độ
nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ tư bản, đến chủ nghĩa xã hội (cộng
sản) - nói chung loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy”. Sự
phát triển tất yếu đó là do trong quá trình sản xuất vật chất con người đã làm
cho lực lượng sản xuất biến đổi không ngừng và do đó quan hệ sản xuất cũng
không ngừng biến đổi để phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Người viết: “Lịch sử loài người là do người lao động sáng tạo ra. Người
lao động sáng tạo ra của cải, luôn nâng cao sức sản xuất. Sản xuất phát triển
tức là xã hội phát triển. Chế độ nào hợp với sức sản xuất thì đứng vững. Nếu
không hợp thì giai cấp đại biểu của sức sản xuất mới sẽ nổi lên cách mạng lật
đổ chế độ cũ”.
Thứ hai, sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất. Nó phản ánh mối
quan hệ giữa các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội đối với vấn đề chiếm hữu
những tư liệu sản xuất . Khi xuất hiện chế độ tư hữu thì xã hội cũng phân
thành giai cấp. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh viết:
“Tất cả của cải vật chất trong xã hội đều do công nhân và nông dân làm
ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát
triển. Song những người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà có một số người
không lao động thì lại “ngồi mát ăn bát vàng”.Vì đâu có nỗi chẳng công bằng
này? Vì một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã
hội. Tư liệu sản xuất tức là ruộng đất, hầm mỏ, công cụ và nguyên liệu. Họ
có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm
lụng cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp”.
17


Thứ ba, với tư cách là một mặt và là mặt quan trọng nhất của quan hệ
sản xuất, quan hệ sở hữu chi phối hoàn toàn quan hệ quản lý và quan hệ phân

phối. Chẳng hạn như dưới chế độ phong kiến, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: “Địa
chủ chiếm hữu tư liệu sản xuất, tức là ruộng đất, nông cụ, v.v. làm của riêng,
nhưng họ không cày cấy. Nông dân buộc phải mướn ruộng đất của địa chủ,
phải nộp tô cho địa chủ, lại phải còn hầu hạ và lễ lạt địa chủ. Nông dân không
khác gì nô lệ”
Trong chế độ dân chủ thì khác. Do làm chủ các tư liệu sản xuất, người lao
động sẽ làm chủ cả trong lĩnh vực quản lý và lĩnh vực phân phối. Khi nói chuyện
với các đồng chí lãnh đạo Tông Công đoàn Việt Nam (ngày 18 -7 -1969), Hồ chí
Minh nhấn mạnh: “Vai trò công nhân tham gia quản lý, đó là biểu hiện quyền
làm chủ của người công nhân, viên chức trong mọi mặt hoạt động của xí nghiệp.
Quyền lợi của công nhân, viên chức gắn liền với sự phát triển của xí nghiệp và
kinh doanh có lãi. Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản
lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động”.
Thứ tư, muốn kinh tế phát triển thì quan hệ sản xuất phải phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. “Lao động đã tập thể, thì các tư
liệu sản xuất và những thứ sản xuất ra phải là của chung mới đúng”.
Về kinh tế, đó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất
như sau:
- Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân.
- Sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động.
- Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
- Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản
Tuy nhiên, mục đích của nước ta là đi lên chủ nghĩa xà hội. Nền tảng
kinh tế của chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì
thế, đối với vấn đề sở hữu, Người chỉ rõ: “Mục đích của chế độ ta là xoá bỏ
các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm nhiều
18



thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ sở
hữu toàn dân và chế độ sở hữu tập thể
Để đạt mục đích trên thì Nhà nước phải có cách thúc xử lý khác nhau
đối với các hình thức sở hữu hiện thời. Cụ thể như sau:
“Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu toàn dân, nó lãnh đạo nền
kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên”.
“Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động;
Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển”.
“Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ
họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo
nguyên tắc tự nguyện.
Đối với những nhà tư sản công thương. Nhà nước không xoá bỏ quyền
sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ
hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế
của Nhà nước. Đồng thời Nhà nước khuyến khích và giúp đỡ họ cải tạo theo
chủ nghĩa xã hội bằng hình thức công tư hợp doanh và những hình thức cải
tạo khác”
Trong mục 23 của tác phẩm “Thường thức chính trị”, đề cập tới các
thành phần kinh tế ở vùng tự do trong thời kỳ kháng chiến và tính chất cơ bản
của từng thành phần kinh tế, Hồ Chí Minh khẳng định:
“Hiện nay, kinh tế nước ta có những thành phần như sau:
- Kinh tế địa chủ phong kíên bóc lột địa tô.
- Kinh tế quốc doanh, có tính chất chủ nghĩa xã hội. Vì tài sản các xí
nghiệp ấy là của chung của nhân dân, của Nhà nước, chứ không phải của
riêng. Trong các xí nghiệp quốc doanh thì xưởng trưởng, công trình sư và
công nhân đều có quyền tham gia quản lý, đều là chủ nhân. Việc sản xuất thì
do sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ.

19



- Các hợp tác xã tiêu thụ và hợp tác xã cung cấp có tính chất nửa xã hội
chủ nghĩa. Nhân dân góp nhau để mua thứ mình cần dùng hoặc để bán những
thứ mình sản xuất không phải kinh qua người con buôn, không bị họ bóc lột.
Các hội đổi công ở nông thôn cũng là một loại hợp tác xã.
- Kinh tế cá nhân của nông dân và của thủ công nghiệp, họ thường tự
túc, ít có gì bán và cũng ít khi mua gì. Đó là một thứ kinh tế lạc hậu.
- Kinh tế tư bản tư nhân. Họ bóc lột công nhân nhưng đồng thời họ
cũng góp phần vào xây dựng kinh tế.
- Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh
doanh và do Nhà nước lãnh đạo. Trong loại này tư bản của tư nhân là chủ
nghĩa tư bản. Tư bản của Nhà nước là chủ nghĩa xã hội”.
Như vậy, thực trạng về các thành phần kinh tế của nước ta thời kỳ đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc phản ánh tính chất chung của nền kinh
tế trong thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ đan xen giữa cái cũ và cái mới. Là thời
kỳ nền kinh tế còn tồn tại những thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa mà
chúng ta chưa cải tạo xong và những thành phần kinh tế có tính chất xã hội
chủ nghĩa mới được xây dựng.
Trong tất cả các thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta, Hồ Chí Minh
quan tâm nhiều nhất đến sự phát triển của thành phần kinh tế hợp tác xã.
Người đã dành rất nhiều thời gian và sức lực để nghiên cứu lý luận, tuyên
truyền, vận động và chỉ đạo thực hiện phong trào hợp tác hoá nhằm thúc đẩy
sự ra đời, phát triển và củng cố các hợp tác xã. Sự quan tâm đặc biệt của
Người đến thành phần kinh tế này xuất phát từ tình thương đối với tầng lớp
cần lao và xuất phát từ điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội cụ thể của nước ta
thời kỳ trước và sau cách mạng Tháng 8. Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu
với 9 phần 10 dân số là nông dân. Nông dân Việt Nam là tầng lớp bị áp bức
bóc lột nặng nề, do đó họ là tầng lớp giác ngộ cách mạng sâu sắc nhất. Nông
dân là lực lượng cơ bản trong đấu tranh cách mạng cũng như trong xây dựng

nền kinh tế mới. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội không có con đường nào khác
20


là phải hướng nông dân đị theo con đường xã hội chủ nghĩa, thông qua phong
trào hợp tác hoá.
Trong kho tàng di sản tư tưởng mà Hồ Chí Minh để lại có hàng trăm
bài viết chuyên đề, bài nói chuyện với nhân dân các địa phương và thư từ gửi
đến tầng lớp nông dân, phản ánh cách nhìn nhận sáng suốt và khoa học của
Người về việc phát triển thành phần kinh tế hợp tác xã. Sự phát triển tư tưởng
Hồ Chí minh về hợp tác xã tập trung ở hai thời kỳ: thời kỳ trước cách mạng
Tháng 8 và thời kỳ cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Tư tưởng Hồ chí minh về vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế là
một hệ thống tri thức khoa học, có ý nghĩa về nhiều mặt. Nó chỉ rõ:
- Sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất, nó phải phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất thì nền sản xuất xã hội mới phát triển được;
- Vấn đề sở hữu là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Do
đó, sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ phải phải quan tâm đến
việc xử lý vấn đề sở hữu;
- Trong thời kỳ quá độ tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu và
nhiều thành phần kinh tế;
- Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước phải có chính sách
đúng đắn, thích hợp với từng thành phần kinh tế;
- Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, phải coi trọng việc phát triển
thành phần kinh tế hợp tác xã, nhất là hợp tác xã nông nghiệp.
2.5. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực và nhân tố con
người trong phát triển kinh tế
Theo Lý thuyết hệ thống thì: mục tiêu là trạng thái mong đợi, cần có
của hệ thống sau một khoảng thời gian nhất định. Mục tiêu của một hệ thống
quản lý là do chủ thể quản lý đặt ra nhằm hướng mọi đối tượng quản lý phấn

đấu đạt tới sau một khoảng thời gian nhất định.
Như vậy, mục tiêu kinh tế là cái đích mà các hoạt động kinh tế, các đơn
vị kinh tế và cả nền kinh tế phải phấn đấu để đạt tới. Mục tiêu có nhiều loại:
21


mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài; mục tiêu tổng thể (tổng quát) và mục
tiêu cụ thể.
Việc xác định mục tiêu đúng đắn, sát thực sẽ định hướng cho mọi hoạt
động và kích thích, tạo ra động lực để đạt kết quả nhanh nhất, tốt nhất, hiệu
quả nhất. Để đề ra mục tiêu đúng đắn, các chủ thể phải nhận thức và vận dụng
những quy luật khách quan, những tri thức khoa học vào điều kiện cụ thể của
đất nước, bao gồm điều kiện kinh tế, chính trị và điều kiện tự nhiên. Vận dụng
tư tưởng triết học cổ đại, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của các nhà hoạt
động chính trị nổi tiếng trên thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Hồ
Chí Minh đã đề ra mục tiêu lâu dài và cao cả cho cách mạng Việt Nam là:
Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội để nhân dân được sung sướng, ấm no,
tự do, hạnh phúc. Để đạt mục tiêu cao cả đó thì riêng trong lĩnh vực phát triển
kinh tế, phù hợp với từng giai đoạn lịch sử và từng chặng đường phát triển,
phải phấn đấu theo những mục tiêu khác nhau.
Dù diễn đạt bằng cách này hay cách khác cho phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh lịch sử cụ thể, nhưng mục tiêu chung nhất, cô đọng nhất mà Hồ
Chí Minh nêu ra vẫn là mục tiêu: vì con người. Mục tiêu này đã trở thành
phương châm hành động, thành lý tưởng sống và nguyện vọng suốt đời của
Hồ Chí Minh. Khi trả lời các nhà báo nước ngoài (tháng 1 năm 1946), Người
nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Hồ Chí Minh không những nêu ra mục tiêu mà còn chỉ ra phương tiện,
cách thức để thực hiện mục tiêu. Rất nhiều biện pháp đã được Người nêu ra

và giải thích bằng ngôn ngữ trong sáng, dễ hiểu để mọi tầng lớp dân cư có
thể thực hiện. Những biện pháp cụ thể mà Hồ Chí Minh đã chỉ ra, có thể trực
tiếp, có thể gián tiếp, đều tập trung vào việc lợi dụng mọi cơ hội, mọi điều
kiện để hướng mọi người tới việc thực hiện mục tiêu. Đối với cán bộ, đảng
viên thì phải biết giáo dục, tổ chức, lãnh đạo, giúp đỡ, hướng dẫn nhân dân
22


tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Nhà nước phải biết tẩy sạch các căn
bệnh quan liêu, tham ô lãng phí. Hồ Chí Minh còn chỉ ra các căn bệnh ấy với
từng đối tượng cụ thể để cùng nhau giáo dục, xoá bỏ. Nhưng có lẽ tư tưởng
lớn lao hơn là mục tiêu nâng cao đời sống nhân dân cũng phải do nhân dân tự
giúp lấy mình là chính.
Tại buổi phát động phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm, Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Kế hoạch sản xuất và tiết kiệm muốn thành công cần ba
điều kiện: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, và nhân hoà là chính.
Nhân hoà gồm có ba lực lượng:
Đoàn thể và Chính phủ,
Bộ đội và nhân dân,
Cán bộ”.
Người còn nói: “Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy
cũng rất cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi
của quần chúng. Làm tất cả là do con người”
Con người với tư cách là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội
được Hồ Chí Minh đề cập đến trên cả hai bình diện: cộng đồng và cá nhân.
Hệ thống nội dung và biện pháp tác động vào tính tích cực của con người, tạo
ra động lực cũng được Hồ Chí Minh đề cập đến trên cả hai phương diện tinh
thần và vật chất, theo cả hai hướng: kích thích động lực và triệt tiêu trở lực.
Thấm nhuần tư tưởng triết học duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
- Lênin, Hồ Chí Minh cho rằng hành động của con người luôn luôn gắn liền

với nhu cầu và lợi ích của họ. Trong thực tế, nhu cầu của con người không
phải chỉ được thoả mãn bằng lợi ích vật chất mà còn bằng cả một hệ thống
giá trị xã hội. Do đó, khi tác động vào tính tích cực xã hội của con người, Hồ
Chí Minh chú trọng trước hết đến vai trò của các động lực chính trị - tinh
thần, nhưng không vì thế mà Người coi nhẹ hay bỏ qua vai trò của các động
lực vật chất.
- Kết hợp hài hoà các loại lợi ích.
23


Hồ Chí Minh là người đầu tiên ở Việt Nam sớm nêu vấn đề phải thực
hiện kết hợp hài hoà ba lợi ích. Đó là: Lợi ích nhà nước, lời ích tập thể và lợi
ích của cá nhân người lao động. Người nói: “Mua bán phải theo giá cả thích
đáng… Giá cả phải bảo đảm cho Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi
ích để xây dựng nước nhà”. “Về thuế, cũng phải làm sao cho Nhà nước, hợp
tác xã và nông dân cùng có lợi. Thuế phải khuyến khích sản xuất”.
- Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích riêng và lợi ích chung
Coi trọng lợi ích cá nhân chính đáng của người lao động, nhưng Hồ Chí
Minh luôn luôn đặt nó trong mối quan hệ thống nhất với lợi ích tập thể và lợi
ích xã hội. Người nói: “Lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là
một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì
lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn. Nếu lợi ích cá
nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích
riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”.
- Thực hiện công bằng xã hội trong phân phối lợi ích:
Để khuyến khích động lực cá nhân, Người yêu cầu cần phải chống chủ
nghĩa bình quân, cào bằng trong phân phối. Người cho rằng phải biết sử dụng
thích đáng các biện pháp kích thích lợi ích vật chất, các biện pháp khoán,
thưởng, phạt trong kinh tế: “Phải thực hiện ba khoán, một thưởng. Nếu ai thực
hiện vượt mức quy định thì được thưởng. Có như thế mới khuyến khích mọi

người cố gắng hơn nữa. Thưởng, phạt phải công bằng”. Hơn nữa, nếu làm
xấu, làm hỏng, “có khi phải bồi thường lại cho Nhà nước. Chính phủ không
phát lương cho người ngồi ăn không”.
Trong hoạt động thực tiễn của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá
cao vai trò của động lực tinh thần, tư tưởng đối với hoạt động sản xuất vật
chất của con người. Bởi vì, con người thực hiện các hoạt động của mình
thông qua ý thức. Sự gia tăng ý thức tinh thần sẽ nhân lên sức mạnh hoạt động
thực tiễn của con người.

24


Những động lực tinh thần cơ bản nhằm phát huy cao độ nhân tố con
người vào hoạt động cách mạng nói chung và hoạt động sản xuất, kinh tế nói
riêng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh bao gồm: giá trị truyền thống dân tộc
(truyền thống yêu nước, truyền thống đoàn kết), văn hoá, học vấn, chế độ
chính trị - xã hội…
- Trong hệ thống các động lực tinh thần, Chủ tịch Hồ Chí Minh chú
trọng trước hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa,
đạo đức cách mạng…
Muốn khai thông những động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội đồng
thời phải nhận diện để khắc phục những lực cản kìm hãm sự phát triển ấy, đó
là hai mặt của một quá trình biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong những ngày đầu của nhà nước dân chủ mới, Hồ Chí Minh đã chỉ
ra “ba thứ giặc” phải tiêu diệt là giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm – ba kẻ
thù, ba trở lực phải quét sạch để đưa cách mạng tiến lên.
Bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
những căn bệnh, cũng là những kẻ thù phải đánh thắng thì mới xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội. Người nói: “Để tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc
đấu tranh phải lâu dài và gian khổ. Cần có người cách mạng là vì còn có kẻ

địch chống lại cách mạng.
Kẻ địch gồm có ba loại:
- Chủ nghĩa tư bản và bọn đế quốc là kẻ địch rất nguy hiểm.
- Thói quen và truyền thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm
ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo
nó một cách rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài.
- Loại kẻ địch thứ ba là chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng tiểu tư sản còn ẩn
nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc dịp thất bại, hoặc dịp
thắng lợi để ngóc đầu dậy. Nó là bạn đồng minh của hai kẻ địch kia”.
Trong tác phẩm Cần kiệm liêm chính viết năm 1949, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng
là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”.
25


×