Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.72 KB, 15 trang )

TiÓu luËn T tëng Hå ChÝ Minh vÒ kinh tÕ
I. LỜI NÓI ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại, nhà chính trị, quân sự thiên tài,
người thầy của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới, tư tưởng của Người đã soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta
đi từ hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất
nước hiện nay, tư tưởng đó vẫn là ngọn cờ dẫn đường cho cách mạng Việt Nam đi
đến thắng lợi. Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh là ánh sáng soi đường cho sự
nghiệp đổi mới của chúng ta.
Một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là
những nhận thức của Người về vai trò của công nghiệp, của khoa học công nghệ
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta.
Cũng như những lý luận khác, những nhận thức của Hồ Chí Minh về công
nghiệp, khoa học công nghệ gắn liền với những sự chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ cách
mạng mà Người đảm trách trong từng giai đoạn lịch sử. Do đó chỉ có thể tìm hiểu
tư tưởng của Người về công nghiệp, công nghiệp hóa qua các tác phẩm của Người
từ khi Người đi tìm đường cứu nước.
Khi nghiên cứu tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh phải gắn chặt với hoàn
cảnh lịch sử khi Người nêu ra những quan điểm, tư tưởng đó, đồng thời phải xuất
phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước để thấy rõ sự vĩ đại của những tư
tưởng của Người. Quán triệt và vận dụng đúng đắn tư tưởng của Người về công
nghiệp và công nghiệp hóa vào thực tiễn là thực hiện nghiêm chỉnh di huấn của
Người.
1
TiÓu luËn T tëng Hå ChÝ Minh vÒ kinh tÕ
II. NỘI DUNG
A. QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG NGHIỆP, CÔNG NGHIỆP HÓA.
Cũng như các quan điểm lý luận khác quan điểm của Hồ Chí Minh về công
nghiệp và công nghiệp hóa được hình thành trong từng giai đoạn, gắn chặt với hoàn
cảnh lịch sử của đất nước và quá trình họat động cách mạng sôi nổi của Người và
có thể chia thành ba thời kỳ hình thành và phát triển như sau:


1. Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đây là thời kỳ hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của công nghiệp
và công nghiệp hóa. Ra đi tìm đường cứu nước với mục đích cứu nước và giải
phóng dân tộc nên cái thu hút sự quan tâm thường nhật đối với Người chưa phải là
vấn đề công nghiệp hóa canh tân đất nước, mà là học cách làm cách mạng để về
cứu giúp quốc dân, đồng bào. Vì thế trong các bài viết của Người đề cập nhiều đến
vai trò của công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội ở các
nước thuộc địa, đến trình độ bóc lột nhân dân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc
cũng như sự phát triển của chủ nghĩa tư bản như thế nào.
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến vai trò của công nghiệp hóa tư
bản chủ nghĩa trong việc nâng cao trình độ bóc lột của chủ nghĩa tư bản đối với các
nước thuộc địa và phụ thuộc. Người đã nêu những con số về tích lũy tư bản của tư
bản Pháp ở Đông Dương, về công nghiệp hóa và về lợi nhuận mà bọn tư bản Pháp
thu được ở xứ này. Người nêu rõ quá trình công nghiệp hóa thuộc địa nhanh chóng
của chủ nghĩa tư bản Pháp ở Đông Dương là nhằm tạo ra các điều kiện để tư bản
Pháp bóc lột Đông Dương nhiều hơn.
Người nêu rõ, sở dĩ lợi nhuận của các công ty tư bản tăng lên nhanh chóng là
vì chúng cướp bóc tài nguyên và bóc lột người lao động bản xứ. Chứng minh cho
điều này Người đã nêu ra một loạt các công ty, nhờ bóc lột thuộc địa mà thu được
những khoản lợi nhuận kếch sù. Nhờ lợi nhuận bóc lột được, các doanh nghiệp
công nghiệp của chủ nghĩa tư bản đẩy mạnh tích lũy khiến cho vô số tư bản tăng
lên nhanh chóng.
2
TiÓu luËn T tëng Hå ChÝ Minh vÒ kinh tÕ
Thứ hai, Người cho rằng công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa tạo ra phương
tiện để bọn tư bản có khả năng cạnh tranh kinh tế với nhau. Người đề cập đến khả
năng cạnh tranh kinh tế mạnh mẽ của đế quốc Nhật khi vào Đông Dương do nước
Nhật đã có một nên công nghiệp mạnh đây chính là việc nước Nhật đã thực hiện
công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa nền kinh tế.
Qua nghiên cứu khả năng cạnh tranh kinh tế của Nhật đối với Pháp ở Đông

Dương Người kết luận rằng: “Xét về nguyên tắc tiến bộ chung phụ thuộc vào việc
phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở
rộng và tăng cường”. Tuy nhiên Người cũng khuyến cáo, muốn có lợi thế trong cạnh
tranh kinh tế với nước ngoài khi mở cửa, phải có nội lực mạnh. Vì thế, Người đòi
chính phủ Pháp “vì lợi ích chung, phải giải phóng dân bản xứ và giúp đỡ họ bằng tất
cả các phương tiện mình có trong tay, để họ tự chuẩn bị cho cuộc cạnh tranh gay go
mà họ sẽ đảm đương đối với người Nhật và những người nước ngoài khác”.
Thứ ba, theo tư tưởng Hồ Chí Minh thì công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa
phát triển đã tăng cường số lượng và chất lượng giai cấp công nhân, làm sâu sắc
thêm mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn dân tộc giữa chủ nghĩa tư bản Pháp với giai
cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước thuộc địa, tất yếu dẫn đến phong
trào cách mạng giải phóng ở các nước này.
Người đã viết: “Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thực dân ở Đông Dương
đã tạo ra ở xứ đó hai giai cấp vô sản, giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp vô sản
nông nghiệp”. Bằng việc đưa ra số liệu chính xác số công nhân ở Việt Nam và một
số nước như ấn Độ, Trung Quốc Người cho rằng số công nhân này bì bóc lột nặng
nề, bị lao động khổ sai sẽ là mãnh đất tốt cho sự ra đời của tổ chức cách mạng cộng
sản. Theo Người việc tạo ra một giai cấp vô sản và dạy người An Nam biết sử dụng
súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc tự mình đào hố để chôn mình.
Điều này được Người chứng minh bằng bằng các phong trào đấu tranh của công
nhân ở ấn Độ.
Từ thực tiễn đó, Người đưa ra kết luận: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã
chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của
công cuộc giải phóng nữa thôi”
2. Thời kỳ mới giành chính quyền và tiến hành chống thực dân Pháp
(1945-1954).
Trong bối cảnh mới giành được chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám
1945, bên cạnh việc xây dựng, củng cố chính quyền còn non trẻ, Hồ Chí Minh đã
3
TiÓu luËn T tëng Hå ChÝ Minh vÒ kinh tÕ

nghĩ đến việc xây dựng đất nước vững mạnh bằng việc xây dựng công nghiệp,
nông nghiệp phát triển. Tuy nhiên, từ một nước nông nghiệp lạc hậu, để vươn lên
kịp các nước tiên tiến chúng ta thiếu thốn nhiều thứ, nhưng cái thiếu nhất là những
người có hiểu biết sâu sắc về khoa học - kỹ thuật tiên tiến. Người đã nhận ra được
điều này và tiến hành thực hiện bằng hành động cụ thể qua việc đề nghị gửi 50
thanh niên Việt Nam sang Mỹ “với ý định một mặt thiết lập những mối quan hệ
văn hóa thân thiết với thanh niên Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên
cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũng như các lĩnh vực chuyên môn khác” vì theo
Người “những thành tựu kỹ thuật hiện đại của họ có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với
giới trí thức Việt Nam”.
Đặt trong bối cảnh sau Chiến tranh Thế giới thứ hai và trong điều kiện bộn
bề công việc của một đất nước mới giành độc lập, chúng ta mới thấy hết nguyện
vọng bức xúc của Người trong việc muốn nhanh chóng xóa bỏ tình trạng lạc hậu
của nước ta, cũng như mới thấy tầm nhìn của Hồ Chí Minh đối với vai trò của khoa
học - kỹ thuật, vai trò của tri thức đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Cũng
qua cách đặt vấn đề của Người, chúng ta mới thấy hết tư duy thiên tài của Người
trong việc tận dụng mối quan hệ mở rộng quốc tế để khai thác sức mạnh của thời
đại trong sự phát triển kinh tế, văn hóa của nước nhà. Tiếc rằng những tư duy và ý
tưởng thiên tài đó của Hồ Chí Minh không thực hiện được do Cuộc chiến tranh
lạnh sau Chiến tranh thế giới thứ hai và sự xâm lược của bọn thực dân Pháp đối với
nước ta.
Mặc dù Hồ Chí Minh và Nhà nước ta đã cố gắng nhân nhượng để giữ hòa
bình, tranh thủ thời gian xây dựng đất nước, nhưng với dã tâm xâm lược đất nước
ta một lần nữa, bọn thực dân Pháp đã gây ra chiến tranh hòng lật đổ chính quyền
còn trứng nước của ta. Nhiệm vụ trọng tâm lúc này là động viên mọi nguồn lực, vật
lực, tài lực để chống ngoại xâm, giữ vững nền độc lập. Để có vật lực, tài lực phải
đẩy mạnh sản xuất ở địa phương và việc đầu tiên là sản xuất công nghiệp. Hồ Chí
Minh đã nêu “Động viên công nghệ - mở nhiều những công nghệ sản xuất những
nhu cầu cho cuộc kháng chiến. Giúp cho công nghệ ấy của tư nhân được phát triển
dễ dàng. Thiên di những xưởng công nghệ cần thiết về các vùng hẻo lánh. Chú ý

nhất về việc cung cấp nguyên liệug ”. Để có nhân công cho hoạt động công nghiệp,
phục vụ quốc phòng Hồ Chí Minh còn nhắc: “phải trưng mộ và phân phối nhân
công trong các ngành sinh sản cho thích hợp, nhất là trong những ngành vận tải,
ngành chế tạo quân nhu và ngành thông tin”.
4
TiÓu luËn T tëng Hå ChÝ Minh vÒ kinh tÕ
Với tư tưởng chỉ đạo như vậy, trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến
chống Pháp, quân và dân ta đã kịp thời tháo dỡ một số máy móc đưa lên chiến khu.
Nhiều xưởng quân giới đã ra đời ở vùng căn cứ và đã sản xuất, sửa chữa vũ khí, sản
xuất quân nhu phục vụ cho yêu cầu của quân đội taq. Nhiều xưởng luyện gang,
xưởng cơ khí nhỏ trong nhân dân cũng đẩy mạnh sản xuất phục vụ cho sự nghiệp
kháng chiến, và phục vụ cho nhu cầu đời sống của nhân dân vùng tự do; hình thành
những cơ sở công nghiệp lớn đầu tiên trong vùng căn cứ của cách mạng.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã giành những thắng lợi lớn,
hậu phương mở rộng, nhiệm vụ hàng đầu là chúng ta phải sản xuất ra nhiều của cải
và tiêu dùng của cải hợp lý nhất cho quân đội đánh thắng kẻ thù, cho việc nâng cao
đời sống nhân dân. Để phát triển sản xuất, làm ra nhiều của cải thì vai trò của công
nghệ rất to lớn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rất nhiều đến vai trò của công nghệ đối
với sự phát triển nền kinh tế để nhắc nhở các ngành, các cấp thực hiện. Hồ Chí
Minh cho rằng chỉ có thể liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, không rời xa sức tiết
kiệm và ăn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta - thì công nghệ mới làm tròn
nhiệm vụ vẻ vang của nó, là lãnh đạo và cải tạo kinh tế của quốc dânớ Công nghệ
mà xa rời toàn bộ kinh tế của quốc dân, mất liên hệ với nó, thì công nghệ không
lãnh đạo được kinh tế của quốc dân”. Rõ ràng ở đây Hồ Chí Minh đã rất coi trọng
vai trò của công nghiệp. Người đã đồng tình với Xtalin là: “công nghiệp có vai trò
lãnh đạo và cải tạo nền kinh tế”.
Hồ Chí Minh coi trọng đặc biệt vai trò của công nghệ, người cho rằng chỉ có
một nền công nghệ vững mạnh mới có thể xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ.
Từ nhận thức vai trò của công nghiệp như vậy nên Người rất coi trọng xây
dựng kế hoạch công nghệ, coi kế hoạch công nghệ đúng đắn và hợp lý là điều kiện

then chốt của chiến lược đầu tư. Người viết: “đặt kế hoạch công nghệ cho đúng đắn
và hợp lý - là một điều kiện chủ chốt trong việc tiêu dùng tiền của”.
Những nhận thức của Hồ Chí Minh về vai trò của công nghiệp, của khoa học
công nghệ nêu ra trên đây được Hồ Chí Minh viết từ trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, xuất phát từ yêu cầu giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ đảng
viên khi xây dựng kinh tế hậu phương, phục vụ sự ngiệp kháng chiến. Những tư
tưởng trên của Người vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay.
3. Thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Miền Bắc được giải phóng, bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa
5
TiÓu luËn T tëng Hå ChÝ Minh vÒ kinh tÕ
xã hội. Lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện nhiệm vụ này, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có điều kiện nghiên cứu à chỉ đạo thực tiễn công nghiệp hóa. Do đó có thể
nói, đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh về công nghiệp hoá được phát triển toàn
diện trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn. Có thể tìm hiểm tư tưởng của
Người về vai trò của công nghiệp, khoa học, kỹ thuật và công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa trên những phương diện sau đây:
Thứ nhất, khẳng định tất yếu phải thực hiện công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa xã hội, theo Người, phải trải qua một thời
kỳ quá độ để biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hâu thành một nước công
nghiệp. Người nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”.
Từ đó, Người kết luận: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. “Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa”. Sở dĩ Người khẳng định như vậy là vì các lý do:
- Một là, “nước ta vốn là một nước công nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu đi
của chúng ta” .
- Hai là, “đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào khi chúng ta dùng máy
móc để sản xuất một cách thật rộng rãi”.

- Ba là, “công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế… Công
nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển… như hai chân đi khoẻ và đi đều
thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích”.
Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định vai trò của nông nghiệp, coi nông nghiệp
là gốc, là chính nhưng Người vẫn nhấn mạnh công nghiệp hóa mới là con đường cơ
bản để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống: “Hiện nay chúng ta lấy sản xuất nông
nghiệp là chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên
liệu, Nhưng công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là
con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”.
Thứ hai, Người nói về những nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa ở Việt Nam:
- Một là, nhấn mạnh vai trò và sự cần thiết phải phát triển công nghiệp nặng.
Hồ Chí Minh định nghĩa công nghiệp nặng một cách đơn giản và đầy đủ:
Các ngành công nghiệp làm ra máy móc, gang, thép, than, hoá chất… gọi chung là
công nghiệp nặng.
6

×