Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học cái tôi TRONG NHÂN CÁCH và VAI TRÒ xã hội của cá NHÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.54 KB, 12 trang )

CÁI TÔI TRONG NHÂN CÁCH VÀ VAI TRÒ XÃ HỘI CỦA
CÁ NHÂN
Dưới góc độ Tâm lý học xã hội, người ta thấy nhân cách bao gồm
hai thành phần cơ bản: Lõi bên trong và các biểu hiện bên ngoài. Lõi bên
trong của nhân cách là cái tôi biểu hiện bên ngoài là vai trò xã hội mà cá
nhân đảm niệm. Có thể lần lượt phân tích từng thành phần như sau.
1. Cái tôi
Cái tôi là chủ đề nghiên cứu của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau
như triết học, xã hội học, tâm lý học... Ngay trong Tâm lý học xã hội
cũng có nhiều công trình nghiên cứu về cái tôi và có nhiều ý kiến khác
nhau về cái tôi. Tuy nhiên, mọi ý kiến đều có điểm thống nhất cho rằng:
cái tôi là sự cảm nhận về chính bản thân mình. Cụ thể hơn, cái tôi là sự
nhận nhận xét, đánh giá về chính mình.
Người đưa ra khái niệm cái tôi được nhiều người thừa nhận là nhà
tâm lý học Mỹ William James. Theo ông, cái tôi là một thể phức hợp của
các yếu tố: cá nhân đó là người như thế nào, cá nhân đó muốn gì và
người khác muốn gì ở anh ta. Theo quan niệm đó thì cái tôi chính là sự
hiểu biết về chính mình, biết mình là ai, biết mong muốn điều gì và có
thể làm gì. Trong đó bao gồm cả sự cảm nhận và tỏ thái độ với chính
mình. Cái tôi có thể có hai thành phần chính: Cái tôi chủ quan và cái tôi
được phản ánh.
a) Cái tôi chủ quan
Cái tôi chủ quan là quan niệm về bản chất thực sự bên trong của cá
nhân. Nó có nguồn gốc xã hội sâu xa chứ không hoàn toàn chủ quan.


Trước hết nó do ảnh hưởng của cha mẹ, người thân quen, hàng
xóm láng giềng... Đó chính là cái tôi chủ thể. Lúc này được hình thành
sớm và thường có 2 tình trạng:
Cái tôi chủ quan hình thành sớm nên ít bị thay đổi ở giai đoạn sau
này của lứa tuổi. Đối với mỗi cá nhân sự hiện diện của cái tôi là khá ổn


định. Nó không hề thay đổi khi con người thay đổi vai trò xã hội. Tuy
nhiên, người ta thấy rằng cái tôi phát triển theo sự phát triển lứa tuổi. Cá
nhân nhận thức về cái tôi linh hoạt và chững chạc hơn khi họ trưởng
thành. Người lớn cũng có một số thay đổi về cá tính khi họ tham gia vào
một vai trò mới. Nhưng sự thay đổi này là không đáng kể. Cái tôi chủ
quan là cái gì rất vững chắc xét về mặt tâm lý rất khó phân biệt và
thường có tình trạng quá cao hoặc quá thấp. Thường trong xã hội, người
ta hay đánh giá mình cao vì nếu đánh giá thấp mình sẽ không có sinh
lực, sẽ chết dần. Đó là năng lượng của sức sống tâm lý.
Cái tôi chủ quan là hạt nhân của nhân cách kể cả khi xã hội đánh
giá không đúng về mình, người ta vẫn sự tự tin vào bản thân. Nhưng đôi
khi cái tôi chủ quan có thể mang sắc thái tượng tượng, bệnh hoạn không
hợp lý do con người không hiểu đúng về mình, đánh giá về mình thiếu
khách quan.
b) Cái tôi được phản ánh
Đó là toàn bộ nhưng quan điểm của cá nhân về bản thân dựa trên
những điều suy nghĩ và đánh giá của người khác. Cũng giống như chúng
ta nhìn mình qua gương. Tấm gương đây là những người khác. Sự khác
nhau giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phán ánh: cái tôi chủ quan


thường có màu sắc tích cực lạc quan hơn cái tôi được phản ánh. Cái tôi
được phản ánh có thể điều chỉnh cái tôi chủ quan. Điều chỉnh này có thể
tích cực, có thể tiêu cực.
Sự đánh giá của người khác đối với cá nhân rất quan trọng. Phương
châm động viên khích lệ có ảnh hưởng tốt đến sự phát triển cái tôi chủ
quan. Đôi khi sự động viên và khích lệ làm cho một con người luôn hổ
thẹn về bản thân thay đổi thành một người hoàn toàn khác lạ.
Giữa cái tôi chủ quan và cái tôi được phản ánh có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Cái tôi chủ quan thường là những nhu cầu tiềm ẩn trong

mỗi cá nhân. Nhiều khi chủ thể không đánh giá đúng về bản thân và
thường theo xu hướng đề cao bản thân. Cái tôi khách quan giúp cho chủ
thể tìm ra cách xử sự đúng đắn. Cái tôi khách quan là đạo lý xã hội của
cái tôi, là cái tổng quan, chỉ đạo sự tự phát của cái tôi chủ quan theo
những hành vi mang tính đạo lý xã hội.
Cũng giống như sự phát triển của nhân cách, sự phát triển của cái
tôi chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường nhà trường gia đình và
xã hội. Mỗi cá nhân đồng thời là thành viên của nhiều nhóm xã hội khác
nhau nên các nhóm xã hội này đều có ảnh hưởng nhất định đến sự hình
thành cái tôi.
2. Vai (vai trò) xã hội của cá nhân
a) Khái niệm vai xã hội
Khi tham gia vào các nhóm, các quan hệ xã hội, cá nhân phải thực
hiện các vai xã hội. Quan hệ xã hội thực chất là quan hệ giữa các vai xã
hội.


Việc phân tích tâm lý xã hội về vai xã hội có ý nghĩa quan trọng
trong việc hiểu hành vi xã hội của con người. Do vậy, vấn đề này được
cả các nhà tâm lý học xã hội rất quan tâm. Đến cuối những năm 60 của
thế kỉ XX, trong Tâm lý học xã hội có đến hàng trăm các nghiên cứu
thực nghiệm và lý thuyết về vấn đề này.
G.Mead đề cập đến vai xã hội trong tương tác xã hội như là một
điều kiện: tiếp nhận vai của người khác, tức là nhìn nhận bản thân từ vị
trí của người khác trong quá trình giao tiếp. Sau này các nhà tâm lý học
xã hội theo định hướng tương tác tiếp tục sử dụng khái niệm này. Trong
tâm lý học phương tây khái niệm này cũng được sử dụng phổ biến.
Linton là nhà nhân học xã hội có đóng góp lớn cho sự phát triển lý
thuyết vai. Theo ông cần đề cập đến 2 khái niệm “vị trí” và “vai”. Vị trí
là vị trí mà cá nhân chiếm giữ trong hệ thống, còn vai dùng để chỉ tất cả

các hình mẫu hành vi văn hóa liên quan đến vị trí đó. Như vậy, vai bao
hàm các thái độ, giá trị và các hành vi được xã hội yêu cầu (định trước)
cho tất cả các cá nhân ở vị trí đó. Vai chính là mặt năng động của vị trí.
Vai xã hội là khái niệm phức tạp. Có thể có 2 mặt: mặt xã hội học
của nó như là mặt nội dung hoạt động và chuẩn mực hành vi không bao
hàm tính chủ thể do xã hội quy định để thực hiện chức năng xã hội; mặt
khác là mặt tâm lý xã hội liên quan đến các nhân tố của chủ thể trong
việc thực hiện các vai xã hội như cơ chế tâm lý xã hội và các quy luật
của việc tiếp nhận và thực hiện vai xã hội.
Bên cạnh đó còn tồn tại một số quan điểm sau:


* Quan điểm thứ nhất: Những người theo quan điểm này cho rằng
vai trò như cái mặt nạ đeo cho các thành viên của xã hội. Vai trò xã hội
có tính chất bề ngoài nên về cơ bản mọi thành viên trong xã hội đều là
con rối. Khi đóng vai trò xã hội thì không nói lên bản chất thật của con
người.
Các thành viên không thực, thay đổi luôn và trong từng giai đoạn
cuộc đời ta đóng nhiều vai trò nên con người không cố định. Vai trò xã
hội là hời hợt bên ngoài, ngụy trang nên chỉ gây tác hại cho con người.
Đây là quan điểm quá nhấn mạnh đến tính thụ động của con người.
Tất nhiên vai trò chi phối con người nhưng con người là người tổ chức
xã hội là chủ thể của các vai trò. Trong thực tế có nhiều người do không
toại nguyện nên đóng vai một cách hời hợt nhưng cơ bản là con người
còn là chủ thể của các vai trò nên con người có tính chủ động trong đó.
* Quan điểm thứ hai: Đây là quan điểm phi lịch sử, duy tâm về vai
trò, cho là vai trò ở thời đại nào, xã hội nào cũng như nhau (giáo viên
thời đại nào cũng thế). Nam Cao: “Tây mặc Tây, ta mặc ta, thuốc cứ
thuốc”.
Quan điểm này sai ở chỗ đây chỉ là bề ngoài. Đúng là chức năng

người thầy vẫn là giảng dạy và giáo dục nhưng mỗi chế độ sẽ có nội
dung khác nhau do mục đích và phương tiện khác nhau chưa nói đến
chức năng của người thầy ngày nay khác với người thầy trước kia. Do đó
vai trò có tính lịch sử và giai cấp.
Từ những những phân tích nêu trên, có thể đi đến một cách hiểu
như sau:


Vai xã hội của cá nhân là toàn bộ những hành động mà xã hội đòi
hỏi và mong nơi ở mỗi cá nhân khi người đó giữ một vị trí nhất định
trong hệ thống quan hệ xã hội để thực hiện những quyền lợi và nghĩa vụ
của mình.
Ví dụ: Giáo viên, bác sĩ, cha mẹ - con, thủ trưởng - nhân viên là vai
xã hội.
Có thể chỉ ra các khía cạnh của vai xã hội như sau: (từ các công
trình của nhiều tác giả).
- Vai xã hội như là hệ thống các kì vọng của các cá nhân khác đối
với các hành vi của cá nhân chiếm giữ một vị trí trong xã hội, trong quan
hệ với những người khác.
- Vai xã hội như hệ thống các kì vọng đặc trưng trong quan hệ đối
với chính bản thân của cá nhân chiếm giữ một vị trí nhất định trong xã
hội, tức là chính cá nhân hình dung về mô hình hành vi của bản thân
trong sự tương tác với người khác.
- Vai xã hội như hành vi của cá nhân chiếm giữ một vị trí xã hội có
thể quan sát thấy.
Như vậy, vai trò xã hội là sự xác nhận về vị trí của cá nhân trong hệ
thống quan hệ xã hội. Vai trò xã hội còn được hiểu là chức năng, hình
ảnh chuẩn mực của hành vi mà qua đó thể hiện sự mong muốn của xã
hội đối với cá nhân, khi cá nhân đảm nhận vị trí nhất định trong hệ thống
các quan hệ xã hội. Những mong muốn này không phụ thuộc vào ý thức

và hành vi của cá nhân cụ thể. Với cách hiểu về vai trò xã hội như vậy
chúng ta thấy rằng, bản chất ở đây không những chỉ là việc ghi nhận


quyền lợi và nghĩa vụ của vai trò xã hội mà còn là sự liên hệ của vai trò
xã hội với các loại hoạt động xã hội của nhân cách. Có thể nói rằng, vai
trò xã hội là một loại hình hoạt động cần thiết và phản ánh phương thức
hành vi của nhân cách tương ứng với những tiêu chuẩn được quy định
bởi vị trí hay chỗ đứng của cá nhân ấy trong xã hội. Ngoài ra, trên vai trò
xã hội còn in đậm những dấu ấn của xã hội: xã hội có thể tán thành hay
không tán thành một số vai trò xã hội (ví dụ xã hội không tán thành vai
trò “tội phạm”). Đôi khi sự tán thành hay không tán thành đó có thể được
phân hóa ở các nhóm xã hội khác nhau, bởi vì trong sự đánh giá đó còn
tùy thuộc vào quan điểm và kinh nghiệm xã hội của từng nhóm xã hội.
Điểm cần nhấn mạnh ở đây là xã hội tán thành hay không tan thành
không phải một khuôn mặt cụ thể mà trước hết là sự tán thành hay không
tán thành một loại hình hoạt động xã hội. Tóm lại, khi nói đến vai xã hội,
chúng ta đã “xếp” con người vào một nhóm xã hội nhất định, đồng nhất
nó với nhóm.
b) Đặc điểm của vai xã hội
Vai xã hội vừa có tính chất lịch sử vừa có tính chất khách quan:
- Tính khách quan của vai xã hội: Khi con người sinh ra, họ đã
được xã hội phân cho (dù muốn hay không) phải đóng những vai khác
nhau: làm học sinh phải thực hiện những hoạt động của học sinh; làm
giáo viên phải thực hiện nhiệm vụ của người thầy giáo; làm bác sĩ phải
thực hiện nhiệm vụ của người thầy thuốc. Đây là những yếu tố mới có
thể điều khiển được mọi người do nó quy định chặt chẽ.


- Vai trò xã hội là một dạng hoạt động được thể chế hóa hay là một

đơn vị hoạt động của xã hội. Chức năng, nội dung, cấu trúc bên trong đã
quy định rõ cá nhân làm sai sẽ bị lên án thậm chí bị đào thải và có thể bị
trừng trị.
- Vai trò có tính lịch sử: mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển xã
hội, đặc điểm, tính chất... của các vai trò cũng khác nhau.
c) Phân loại vai xã hội
Không có sự phân biệt rạch ròi về các loại vai xã hội, tuy nhiên có
thể phân thành các loại như sau:
- Vai chính thức: có các biểu tượng rõ ràng và thống nhất về quyền
và nghĩa vụ của người mang vai này. Mức độ thống nhất và rõ ràng của
vai này có lý do là gắn liền với các hoạt động xã hội và các quan hệ xã
hội mang tính khách quan.
- Vai không chính thức : không có được sự rõ ràng như vai chính
thức vì nó mang đặc trưng tâm lý cá nhân với sự đa dạng và ít xác định
của chúng.
Theo Sibutanhi (1999), có thể có vai công cộng - với các biểu
tượng thống nhất rộng rãi về hành vi của các vai này và vai liên nhân
cách - không có biểu tượng thống nhất. Theo Thibau và Kelley, có thể
phân chia thành các vai “được quy trước – prescribed” tức là được quy
định từ bên ngoài và không phụ thuộc vào sự nỗ lực của chủ thể và các
vai “đạt được – achieved” tức là các vai có thể thực hiện được nhờ sự nỗ
lực cá nhân của người mang vai đó.


P. Linton chia thành các vai tích cực và tiềm ẩn bởi vì cùng lúc cá
nhân tham gia vào nhiều mối quan hệ khác nhau và cùng lúc mang nhiều
vai khác nhau nhưng tại mỗi thời điểm cá nhân chỉ thực hiện được một
vai. Vai đó gọi là vai tích cực các vai còn lại gọi là vai tiềm ẩn. Một vai
có thể trở thành tích cực phụ thuộc vào điều kiện, cũng như loại hoạt
động của cá nhân.

c) Ý nghĩa của việc đóng các vai xã hội
Toàn bộ nhân cách của cá nhân không thể hiện ra hết trong các vai
trò mà chỉ thể hiện một phần (mặc dù là phần quan trọng). Nhưng mỗi
vai trò đòi hỏi con người phải tuân theo các yêu cầu khách quan của nó
nên nhập vai nào, con người sẽ hình thành các đặc điểm tâm lý tương
ứng với vai trò đó. Con người càng tham gia nhiều vai trò thì nhân cách
con người càng phong phú.
Vai trò chỉ là mảng hành động của con người chứ chưa bao quát
toàn bộ con người. Tuy nhiên, khi con người hành động theo vai trò,
chưa chắc con người đã nhập vai nên nếu chỉ qua hành động bên ngoài
không thể thấy hết nội tâm bên trong con người. Mỗi lần tiếp xúc, chúng
ta chỉ tiếp xúc với con người trong một vai trò nào đó nên cũng không
thể thấy hết sự phong phú của con người. Họ chỉ thể hiện một phần con
người theo vai trò họ đang đóng.
Nếu đóng vai trò một cách thành thạo (vai trò chủ yếu như lao
động, nghề nghiệp...) là yếu tố rất quan trọng đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách. Con người sẽ tuân thủ hoàn toàn các yêu cầu của
vai trò và hình thành các phẩm chất năng lực theo vai trò đòi hỏi.


Cùng một lúc con người đóng nhiều vai trò nên cũng rất khó thuần
thục tất cả các vai trò. Do đó, có thể họ đóng tốt vai trò này nhưng lại
đóng không tốt vai trò khác. Thậm chí có những vai trò trái ngược nhau
hoặc không bị trùng nhau về thời điểm làm cho con người lúng túng và
không hoàn thành được vai trò của mình. Ví dụ, vào cùng một thời điểm,
một người vừa đảm nhiệm việc cơ quan đã rất bận rộn, nhưng yêu cầu
công việc gia đình cũng rất cần họ. Vì thế, họ rất khó làm tốt cả hai vì
thời gian không cho phép
Do đó, vấn đề của mỗi cá nhân là sắp xếp các vai trò theo thứ bậc
ưu tiên và đóng tốt các vai trò theo mức độ quan trọng của nó. Ví dụ,

người công chức mới đi làm thì công việc cơ quan là quan trọng hơn
công việc gia đình. Nhưng khi có gia đình có con thì cả hai việc đều
quan trọng. Nhưng lưu ý nếu nhập vai một cách quá đáng (quá sự cần
thiết) có thể dẫn tới sự méo mó nghề nghiệp.
Vì tính đa dạng của các vai xã hội mà cá nhân phải thực hiện cũng
như sự phù hợp hay không phù hợp của cá nhân với các vai xã hội khác
nhau làm nảy sinh hiện tượng “xung đột vai”.
Xung đột vai được hiểu là tình huống trong đó cá nhân đối mặt với
các kì vọng không tương ứng. Nói cách khác cá nhân không đủ khả năng
để thực hiện các yêu cầu đặt ra đối với vai đó.
Có 2 nhân tố ảnh hưởng đến mức độ sâu sắc và cường độ của xung
đột vai:


- Một là: mức độ khác biệt giữa các vai. Các vai mà cá nhân đồng
thời phải thực hiện càng có nhiều yêu cầu chung thì xung đột vai càng ít
xảy ra.
- Hai là: Các yêu cầu đối với vai. Các yêu cầu đối với vai càng chặt
chẽ, tính nghiêm khắc của yêu cầu đối với vai càng cao càng dễ tạo ra
các xung đột vai nghiêm trọng.
Trong các lý thuyết về vai, thường được chia thành 2 loại xung đột
vai: xung đột giữa các vai và xung đột bên trong vai. Xung đột giữa các
vai diễn ra khi cá nhân phải thực hiện đồng thời nhiều vai. Do vậy không
thể thực hiện tất cả các yêu cầu của các vai đó do thiếu thời gian, sức lực
hay do các vai đó có các yêu cầu không tương thích.
Mâu thuẫn bên trong vai xuất hiện khi có những yêu cầu mâu thuẫn
của các nhóm xã hội đối với một vai. Các nhóm xã hội khác nhau có thể
có sự kì vọng và yêu cầu khác nhau với cùng một vai. Chẳng hạn phụ
huynh đánh giá và kì vọng vào kết quả của sinh viên, trong khi đó với
chính bản thân sinh viên lại xem nhẹ điều đó.

Xung đột vai nói chung ảnh hưởng tiêu cực đến sự tương tác cho
nên các tác giả có xu hướng tìm kiếm các phương thức giải quyết xung
đột vai. Có 3 nhóm nhân tố được coi là có thể làm giảm xung đột vai:
- Nhóm thứ nhất: liên quan đến thái độ của chủ thể đối với vai (các
yêu cầu của vai có ý nghĩa đến mức nào đối với cá nhân, cá nhân cho
rằng các yêu cầu đó chính đáng đến mức nào).
- Nhóm thứ hai: bao hàm sự thưởng phạt có thể có đối với việc
thực hiện hay không thực hiện vai.


- Nhóm thứ 3 : các định hướng giá trị của các cá nhân (định hướng
giá trị đạo đức hay định hướng giá trị thực tế).



×