Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT sự vận DỤNG QUAN điểm GIAI cấp và đấu TRANH GIAI cấp của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM từ SAU đổi mới đến NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.87 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1. Quan điểm Mác-Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp
1.1. Nguồn gốc giai cấp
1.2. Những tiêu chí cơ bản để phân biệt các giai cấp trong xã hội
1.3. Về đấu tranh giai cấp
1.4. Đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản
2. Vận dụng quan điểm Mác-lênin về giai cấp và đấu tranh
giai cấp của Đảng ta từ năm 1975 đến nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

QUAN ĐIỂM MÁC - LÊNIN VỀ GIAI CẤP, ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM ĐÓ CỦA ĐẢNG TA SAU ĐỔI MỚI ĐẾN NAY
*************
MỞ ĐẦU
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một trong những nội
dung cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhờ thống nhất được tính cách


mạng và khoa học, lý luận mác xít về giai cấp và đấu tranh giai cấp đã vượt
qua các trào lưu tư tưởng XHCN trước đây để trở thành kim chỉ nam cho
phong trào cách mạng của giai cấp vô sản. Lý luận đó đã có ảnh hưởng sâu
rộng trong phong trào cách mạng từ thế kỷ XIX đến nay, tạo ra những biến
động to lớn trong đời sống chính trị - xã hội trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam, trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường,
các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp trở thành một vấn đề nhạy cảm, gây rất nhiều tranh luận. Về
mặt lý luận, chúng ta đã có nhiều chuyển biến trong nhận thức, tư duy lý luận.


Tuy nhiên, trong sự chuyển đổi đó vẫn còn có những vấn đề cần phải tiếp tục
làm sâu sắc và rõ ràng hơn. Thực chất quan điểm mác xít về giai cấp và đấu
tranh giai cấp cũng cần được nhận thức, liên hệ, vận dụng một cách linh hoạt
hơn, đặc biệt là thực tiễn đổi mới của nước ta hiện nay đã khẳng định kết quả
của công cuộc đổi mới, đã chứng minh rằng: Lý luận giai cấp và đấu tranh
giai cấp đã ngày càng được nhận thức và vận dụng đúng đắn và sáng tạo ở
Việt Nam. Những thành tựu quan trọng ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới,
nhất là về kinh tế, đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội, tình hình an ninh chính trị được tăng cường, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội được hình thành rõ nét… điều đó đã chứng tỏ quan
điểm giai cấp của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhưng con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam còn dài, diễn biến xã hội còn hết sức phức
tạp. Vì vậy, nghiên cứu một cách sâu sắc lý luận giai cấp và đấu tranh giai
cấp gắn với tổng kết kinh nghiệm cách mạng, học tập kinh nghiệm của
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sẽ góp phần phát triển sáng tạo
và vận dụng ngày càng thành công lý luận Mác-Lênin vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc VNXHCN.
1. Quan điểm Mác-Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Trong thư gửi Iôxíp Vâyđơmaye ngày 05 - 03 - 1852, C.Mác đã viết:
“Về phần tôi, thì tôi không có công lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của các


giai cấp trong xã hội hiện đại, cũng không có công lao là đã phát hiện ra
cuộc đấu tranh giữa các giới và sự đấu tranh giữa các giai cấp với nhau. Các
nhà sử học tư sản trước tôi rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử cuộc đấu
tranh giai cấp đó, còn các nhà kinh tế tư sản thì đã trình bày sự giải phẫu
kinh tế của các giai cấp. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: 1) Sự
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất
định của sản xuất. 2) Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới chuyên chính vô sản.
3) Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi

giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”1.
1.1. Nguồn gốc giai cấp.
Xuất phát từ những con người cá nhân hiện thực và đứng trên lập
trường duy vật về lịch sử, C.Mác, Ph.Ăng-ghen đã tìm ra quy luật phát sinh
và phát triển của xã hội có giai cấp và quy luật đấu tranh giai cấp. Nếu các
nhà tư tưởng trước Mác cho rằng: nguồn gốc của xã hội có giai cấp, của chế
độ tư hữu là do tư tưởng tư hữu của con người, thì ngược lại C.Mác chỉ rõ,
chính những tiền đề vật chất do xã hội tạo ra đã làm nảy sinh ra tư tưởng tư
hữu. Bởi vì, như các nhà kinh điển mác xít đã khẳng định: Do sự phát triển
của sản xuất đã đưa đến sự phân công lao động trong xã hội và sự phân công
lao động xã hội lại thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng
xuất lao động, đó là nguồn gốc cơ bản để sinh ra chế độ tư hữu và sự phân
chia giai cấp trong xã hội. Thực tiễn lịch sử phát triển và tiến hoá của nhân
loại đã chỉ ra rằng, nguyên nhân vật chất, nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân
cơ bản, sâu xa sản sinh ra giai cấp và xã hội có giai cấp. Sự tồn tại, phát triển
và diệt vong của giai cấp và xã hội có giai cấp là do nguyên nhân kinh tế - vật
chất quyết định - suy cho đến cùng. Như vậy, tư tưởng biện chứng duy vật về
giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin hoàn toàn đối lập
với quan điểm duy tâm, tôn giáo đã tồn tại rất lâu trong lịch sử. Tính cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về sự
1

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 28, tr 661 - 662.


ra đời, tồn tại và diệt vong của nó đã góp phần vào cuộc đấu tranh, khắc phục
tư tưởng ảo tưởng, chủ quan về vấn đề hoà hợp giai cấp, xoá nhoà đấu tranh
giai cấp trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, hoặc muốn đi
tìm lời giải, một động lực ở ý thức tư tưởng để thúc đẩy sự phát triển giai cấp
và đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay.

Trong vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa Mác - Lênin đã
có sự đánh giá rất khách quan, khoa học đối với sự ra đời của xã hội có đối
kháng giai cấp, các ông đã khẳng định sự ra đời của xã hội có giai cấp thay
thế xã hội cộng sản nguyên thuỷ là một bước tiến hoá, phát triển của lịch sử
nhân loại, Ph.Ăng-ghen viết: “Từ khi sự đối lập giữa các giai cấp xã hội xuất
hiện thì chính những dục vọng xấu xa của con người - lòng tham và sự thèm
muốn quyền lực đã trở thành đòn bẩy cho sự phát triển của lịch sử”. Trong
xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trò nhất định trong lịch sử, kể
cả giai cấp thống trị bóc lột. Sự tồn tại của các giai cấp đối kháng đều do sự
quy định của điều kiện kinh tế, quan hệ kinh tế. Theo đó, sự ra đời, tồn tại,
phát triển của giai cấp tư sản cũng là một tất yếu khách quan của lịch sử và
cũng đã từng đóng vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử, bởi chính giai cấp
tư sản đã làm cách mạng xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến lỗi thời lạc hậu
để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, hình thành những thị trường
và quốc gia rộng lớn, mở ra sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, dân tộc trên
thế giới.
Từ các quan điểm mác xít về sự hình thành giai cấp theo lập trường duy
vật về lịch sử, đã cho chúng ta thấy rõ những vấn đề cơ bản sau:
Một là, sự xuất hiện xã hội có giai cấp là một tất yếu khách quan, trước hết
là tất yếu về kinh tế, chính “cái có thể chiếm hữu” đã sinh ra tư tưởng chiếm hữu.
Hai là, xã hội có giai cấp là một giai đoạn tất yếu của lịch sử phát triển
của nhân loại, nó chính là nhân tố để thúc đẩy sản xuất phát triển ngày càng cao.


Ba là, trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp đều có vị trí, vai trò nhất
định, trước hết là vai trò trong phát triển kinh tế, đây cũng chính là lý do tồn
tại của mỗi giai cấp và quy định địa vị chính trị - xã hội của nó.
1.2. Những tiêu chí cơ bản để phân biệt các giai cấp trong xã hội.
Từ sự kế thừa tư tưởng của các nhà kinh tế - chính trị học tư sản trước
đó, C.Mác đã cho rằng, trong xã hội tư sản tồn tại “những người chỉ sở hữu

có sức lao động, những kẻ sở hữu tư bản và những kẻ sở hữu ruộng đất, mà
nguồn thu nhập tương ứng là tiền công, lợi nhuận và địa tô, tức là công nhân
làm thuê, nhà tư bản và địa chủ, đó là ba giai cấp lớn của xã hội hiện đại dựa
trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” 2. Theo đó, tiêu chí của giai cấp
trước hết phải gắn liền với những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử,
gắn liền với phương thức sản xuất. Không có tiêu chí chung cho mọi giai cấp
trong mọi thời đại lịch sử, các tiêu chí đó luôn vận động biến đổi không
ngừng theo thực tiễn của sản xuất và đời sống xã hội. Theo C.Mác và
Ph.Ăng-ghen, thì tiêu chí cơ bản quan trọng hàng đầu để phân biệt giai cấp
này với giai cấp khác, đó là vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, vai trò tổ chức,
quản lý sản xuất và gắn liền với nó là sự thu nhập từ các quyền sở hữu đó.
Chính sự sở hữu tư liệu sản xuất trong những lĩnh vực khác nhau sẽ
hình thành nên những giai tầng khác nhau trong xã hội: người sở hữu tư liệu
sản xuất trong công nghiệp hình thành nên giai cấp tư sản, những kẻ sở hữu
ruộng đất là giai cấp địa chủ, còn những người chỉ sở hữu sức lao động của
mình và bán sức lao động cho nhà tư bản công nghiệp là giai cấp công nhân.
Đồng thời, những ai là chủ tư liệu sản xuất sẽ đóng vai trò tổ chức, quản lý,
điều hành quá trình sản xuất, còn những người không có tư liệu sản xuất thì
phải chịu sự tổ chức, quản lý, điều hành của kẻ có tư liệu sản xuất. Theo đó,
sự hưởng thụ các sản phẩm trong xã hội cũng có sự khác nhau, nguồn thu
nhập của người làm thuê là tiền công, là một phần rất nhỏ trong tổng số giá trị
lao động mà chính họ tạo ra, còn nguồn thu nhập của chủ tư bản là lợi nhuận.
2

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 25, tr 643.


Đó là sự phân phối bất bình đẳng, là sự bóc lột của giai cấp tư bản, địa chủ
đối với giai cấp công nhân, người làm thuê.
Những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về tiêu chí giai cấp đã được

V.I.Lênin kế thừa, phát triển, xây dựng và hoàn thiện thành tiêu chí giai cấp nói
chung và tiêu chí cụ thể cho từng giai cấp. Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”
V.I.Lênin viết: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những
người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được
pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của
họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng
thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là
những tập đoàn người, mà tập đoàn người này thì có thể chiếm đoạt lao động
của tập đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định”3. Theo V.I.Lênin:
Thứ nhất, giai cấp trước hết phải là tập đoàn người to lớn, đông đảo
trong xã hội, gắn liền với một hệ thống sản xuất nhất định. Điều đó cho thấy
với một vài cá nhân đơn lẻ không thể là giai cấp, mặc dù họ có thể nắm giữ
những vị trí, vai trò quan trọng có ảnh hưởng to lớn trong đời sống tinh thần
xã hội. Cũng không phải mọi tập đoàn đông đảo, to lớn trong xã hội sẽ là giai
cấp, giai cấp không phải là sự cộng lại đơn thuần, là tổng số của các cá nhân,
mà đó phải là sự gắn bó, hợp lại với nhau trên cơ sở có chung một địa vị trong
hệ thống sản xuất nhất định của xã hội. Mặt khác, không phải mọi hệ thống
sản xuất đều sinh ra giai cấp, mà chỉ hệ thống sản xuất nào tạo ra tiền đề để
những tập đoàn này có quan hệ và địa vị khác nhau trong quá trình sản xuất
mới tạo ra giai cấp khác nhau, chỉ có những xã hội dựa trên những quan hệ
sản xuất nhất định nào đó mới tạo ra giai cấp.
Thứ hai, sự khác nhau giữa các giai cấp được thể hiện trên những
phương diện cơ bản sau:
3

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 39, tr 17 - 18.



- Quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất (thường thì được pháp luật
quy định và thừa nhận). Vai trò đó được thể hiện ở các quyền cơ bản: quyền
sở hữu, quyền chiếm hữu… Nền kinh tế càng phát triển thì các quyền này
càng được mở rộng, biến đổi và hình thành các quyền mới, đáp ứng sự phát
triển của thực tiễn sản xuất.
- Vai trò tổ chức và phân công lao động trong quản lý, tổ chức sản xuất.
Tập đoàn người nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất thì nắm quyền điều
hành, tổ chức, quản lý sản xuất. Ở đây cần phân biệt rõ ràng giữa việc tổ
chức, quản lý sản xuất với quyền quyết định tổ chức, quản lý sản xuất, bởi
trước yêu cầu phát triển sản xuất hiện nay mà việc tổ chức quản lý ngày càng
đòi hỏi cao, phức tạp, có nhiều người cùng tham gia quản lý trong đó có cả
người không nắm tư liệu sản xuất, song vai trò quyết định quá trình sản xuất,
quản lý sản xuất phải là người nắm phần lớn tư liệu sản xuất.
- Phương thức, quy mô thu nhập. Tập đoàn nào nắm quyền sở hữu tư
liệu sản xuất thì nắm quyền về tổ chức phân phối sản phẩm. Sự phân phối sản
phẩm xã hội phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, tiến hành theo những phương
thức khác nhau. Trong xã hội hiện đại, sự phân phối sản phẩm xã hội được
phân phối cho các cá nhân sau khi đã khấu trừ các phần cơ bản.
Như vậy, giai cấp là một phạm trù xã hội, gắn liền với sản xuất vật
chất, đặc biệt là với quan hệ sản xuất, do đó các tiêu chí do V.I.Lênin đưa ra
chủ yếu là những tiêu chí về kinh tế và vật chất. Nhưng chúng ta cũng cần
thấy rằng, sự khác biệt về vật chất giữa các giai cấp sẽ dẫn tới sự khác biệt về
chính trị, tinh thần. Thừa nhận sự khác biệt giữa các giai cấp về kinh tế thì
không thể không thừa nhận sự khác biệt về chính trị, tinh thần, bởi trong xã
hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về lực lượng vật chất thì sẽ thống trị về
mặt tinh thần, chính trị trong xã hội. Nói cách khác, tư tưởng thống trị đó
chính là biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất dưới hình thức tư
tưởng.
1.3. Về đấu tranh giai cấp.



Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định, trong xã hội có giai cấp, đấu
tranh giai cấp là tất yếu khách quan, lịch sử loài người cũng đã chứng minh
rằng: lịch sử tất cả các xã hội có giai cấp tồn tại từ trước tới nay chỉ là lịch sử
đấu tranh giai cấp giữa những “Người tự do và người nô lệ, quý tộc và bình
dân, chúa đất và nông nô, thợ cả phường hội và thợ bạn, nói tóm lại, những
kẻ áp bức và người bị áp bức luôn đối kháng với nhau đã tiến hành một cuộc
đấu tranh không ngừng, lúc công khai, lúc ngấm ngầm, một cuộc đấu tranh
bao giờ cũng kết thúc bằng một cuộc cải tạo toàn bộ xã hội, hoặc bằng sự
diệt vong của hai giai cấp đấu tranh với nhau”4.
Nguyên nhân của đấu tranh giai cấp là do mâu thuẫn giai cấp, song theo
V.I.Lênin, nguyên nhân trước hết là do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế.
V.I.Lênin cho rằng: đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân
này chống lại một bộ phận khác, là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước
hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp
bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản” 5. Thực
chất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa những giai cấp có lợi ích cơ bản
đối lập nhau không thể điều hoà được.
Theo quan điểm mác xít, lợi ích giai cấp là những giá trị khách quan nhằm
thoả mãn nhu cầu nhất định của một giai cấp, đảm bảo cho giai cấp đó tồn tại và
phát triển. Lợi ích giai cấp không phải do ý thức giai cấp sinh ra và quy định, mà
nó do địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp đó tạo nên, do đó, muốn chỉ ra lợi ích giai
cấp và sự đối kháng lợi ích giai cấp phải phân tích tình hình, điều kiện phát triển
cụ thể của từng giai cấp. Lợi ích cơ bản của giai cấp khi có sự đối kháng gay gắt
sẽ dẫn tới đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội, khi mâu thuẫn cơ bản được giải
quyết sẽ tạo ra động lực thúc đẩy toàn bộ xã hội có giai cấp phát triển. Chính vì
vậy, đấu tranh giai cấp trở thành một trong những động lực cơ bản, quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp.
4

5

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 596 - 597.
V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1979, tập 7, tr 237 - 238.


Trong đời sống xã hội, nguồn gốc, động lực của sự phát triển là mâu
thuẫn trong quá trình sản xuất vật chất, mà trước hết và trực tiếp là mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do tính cách mạng, luôn vận
động biến đổi của lực lượng sản xuất, do đó, quan hệ giữa lực lượng sản xuất
và quan hệ sản xuất luôn vận động từ chỗ phù hợp tới không phù hợp và mâu
thuẫn. Khi quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất thì phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất
mới để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Song, để bảo vệ lợi ích của giai
cấp mình, giai cấp thống trị luôn tìm mọi cách bảo vệ quan hệ sản xuất hiện
có, cản trở, kìm hãm sự phát triển của quan hệ sản xuất mới. Do đó, muốn mở
đường cho lực lượng sản xuất phát triển phải thông qua đấu tranh giai cấp mà
đỉnh cao của nó là cách mạng xã hội. Trong cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai
cấp tiên tiến với giai cấp thống trị đã phản động, lỗi thời luôn diễn ra gay go
quyết liệt, song giai cấp mới tiên tiến sẽ tất yếu giành thắng lợi, bởi cuộc đấu
tranh của họ ngày càng được quần chúng ủng hộ, vì cuộc đấu tranh của giai
cấp mới phù hợp với xu thế phát triển của xã hội. Như vậy, đấu tranh giai cấp
là phương thức cơ bản để giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, để cho phương thức sản xuất mới trở thành phương thức sản
xuất thống trị trong xã hội, cùng với đó, một chế độ chính trị mới, văn hoá
mới ra đời. Nói cách khác, thông qua đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao của nó là
cách mạng xã hội sẽ dẫn tới sự ra đời của một hình thái kinh tế - xã hội mới,
cao hơn. Toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã chứng
minh cho tính khoa học đúng đắn của chủ nghĩa Mác về vai trò của đấu tranh
giai cấp trong lịch sử phát triển của nhân loại.

Trong xã hội có đối kháng giai cấp, đấu tranh giai cấp là động lực phát
triển của xã hội, nhưng đó không phải là động lực duy nhất, mà đó chỉ là động
lực cơ bản, ngoài ra trong xã hội còn có rất nhiều động lực khác. Bởi vì, trong
đời sống xã hội, con người có vô vàn các hoạt động khác nhau với những nhu
cầu, mục đích, động cơ khác nhau, trong đó những nhu cầu sống, nhu cầu về


vật chất, tinh thần, nhu cầu chiếm lĩnh đỉnh cao trí tuệ… cũng là những động
lực quan trọng, trực tiếp thúc đẩy con người hoạt động và tạo ra sự phát triển của
xã hội. Mặt khác, trong xã hội có giai cấp do trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất còn hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ mọi nhu cầu vật chất của con
người, chính vì vậy, đấu tranh để đòi lợi ích kinh tế, đảm bảo điều kiện sống cho
con người trở thành những cuộc đấu tranh có quy mô lớn, quyết liệt nhất để dẫn
tới những sự chuyển biến lớn lao trong xã hội. Như vậy, đấu tranh giai cấp theo
quan điểm mác xít, vấn đề cơ bản của nó không phải là vấn đề chính trị thuần
tuý, đạo đức thuần tuý, mà thực chất và cơ bản là vấn đề kinh tế.
1.4. Đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản mang tính triệt để: Ngay
từ khi mới ra đời, chủ nghĩa tư bản đã sớm thực hiện cuộc cách mạng trong
lĩnh vực công nghiệp đã làm cho lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá
và ngay từ đầu nó đã mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất, chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì mâu thuẫn đó càng cao, càng gay
gắt. Đó chính là nguyên nhân cơ bản của các cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội trong chủ nghĩa tư bản, chính vì vậy, giai cấp tư sản luôn tìm mọi cách để
điều chỉnh quan hệ sản xuất dưới nhiều hình thức, biện pháp khác nhau,
nhưng sự điều chỉnh ấy lại dẫn tới hệ quả đó là, sự tập trung tư bản càng lớn,
do đó, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Những tiền đề mà chủ
nghĩa tư bản tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển đã dẫn tới sự đấu tranh
giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản với mục tiêu là xoá bỏ chế độ sở hữu
tư nhân tư bản về tư liệu sản xuất, xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản

xuất. Mục tiêu đó là đòi hỏi tất yếu khách quan của lịch sử và nó được xuất
phát từ nhu cầu giải phóng lực lượng sản xuất, giải phóng con người tiến tới
một xã hội không có giai cấp. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp cuối cùng trong
lịch sử, bởi vì, sau cuộc đấu tranh ấy, chế độ công hữu về cơ bản là phải
chiếm ưu thế, giữ vai trò thống trị trong xã hội. Do đó, cuộc đấu tranh của giai


cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản là triệt để nhất, nó đã xoá bỏ chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất, nguyên nhân của mọi mâu thuẫn trong xã hội.
- Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản dựa trên chiến lược liên
minh công nông rộng lớn: Mọi cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn tới liên
minh giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp do giai cấp vô sản lãnh đạo và thực
hiện nó khác hẳn với các cuộc cách mạng trước kia trong quan niệm và thực
hiện vấn đề liên minh giai cấp với giai cấp nông dân. Nếu như trước đó, sự
liên minh giữa các giai cấp tiến hành cách mạng với giai cấp nông dân chỉ
mang tính chất tạm thời, thì nay trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản
liên minh giữa công nhân với nông dân là sự liên minh chiến lược và rộng
lớn. Sự liên minh ấy được xuất phát trước hết từ bản chất, mục tiêu của cuộc
cách mạng mà giai cấp công nhân thực hiện.
Kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin đã phát
triển lý luận về liên minh giai cấp trong điều kiện mới của giai cấp vô sản.
Trước hết, V.I.Lênin khẳng định liên minh công - nông là “nguyên tắc cao
nhất” của cuộc cách mạng XHCN, liên minh ấy phải được đặt dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng Sản. Đồng thời, V.I.Lênin còn chỉ rõ, liên minh công nông không chỉ được thực hiện để giành lấy chính quyền, thiết lập chuyên
chính vô sản, mà nó còn cần được tiếp tục duy trì, phát triển trong quá trình
giữ vững chính quyền “…Nếu không liên minh được với nông dân thì không
thể có chính quyền của giai cấp vô sản, không thể nghĩ đến việc duy trì chính
quyền…”6.
Liên minh công - nông, theo V.I.Lênin, đó không chỉ là liên minh về
chính trị, mà còn cần phải chuyển sang liên minh về kinh tế, trong đó, giai cấp

vô sản cần phải đem lại ruộng đất cho nông dân, V.I.Lênin khẳng định, đây
chính là một đặc trưng của cuộc cách mạng XHCN, và ông viết “…Nếu
không tống cổ bọn đại địa chủ đi và không chia ruộng đất cho nông dân thì
cách mạng chỉ là cách mạng tư sản thôi chứ không phải là cách mạng
6

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 57.


XHCN”7. Vì vậy, trong và sau cách mạng, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải lấy lợi
ích thiết thân của cá nhân nông dân làm cơ sở trong công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế - xã hội XHCN.
Như vậy, liên minh công - nông dựa trên lợi ích căn bản và lâu dài của
họ, nó được thể hiện trong thời kỳ giành chính quyền và giữ chính quyền, từ
liên minh chính trị chuyển sang liên minh kinh tế trong suốt cả thời kỳ quá
độ. Đó là một đặc điểm của liên minh giai cấp trong cuộc đấu tranh của giai
cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
- Sự thống nhất giữa giai cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh giai cấp
của giai cấp vô sản: Nhờ sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã khiến “Những địa phương độc lập liên hệ với nhau gần như chỉ bởi
những quan hệ liên minh và có những lợi ích, luật lệ, chính phủ, thuế quan
khác nhau thì đã tập hợp thành một dân tộc thống nhất, có một chính phủ
thống nhất, một pháp luật thống nhất, một lợi ích dân tộc thống nhất, có tính
giai cấp và một thuế quan thống nhất” 8. Vì vậy, mối quan hệ giữa giai cấp và
dân tộc xuyên suốt trong toàn bộ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và ảnh
hưởng trực tiếp tới cuộc đấu tranh này. Trong mỗi dân tộc có một giai cấp
đứng đầu thống trị dân tộc, giai cấp đó sẽ dân tộc hoá các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của nó, và nó cũng giai cấp hoá hình thức phát triển của dân
tộc. Vì vậy, mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản trước hết là quan hệ giữa giai cấp vô sản và dân tộc, mà giai

cấp vô sản là một bộ phận cấu thành nên dân tộc ấy. Trong xã hội tư bản, giai
cấp tư sản là giai cấp thống trị dân tộc, điều đó đã làm cho cuộc đấu tranh
chính trị của giai cấp vô sản trong từng nước đều nhằm vào việc lật đổ chính
quyền tư sản, chuyển nó vào tay giai cấp công nông. C.Mác và Ph.Ăng-ghen
đã khẳng định: “Mục đích trước mắt của những người cộng sản là mục đích
trước mắt của tất cả các đảng vô sản khác tổ chức những người vô sản thành
giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy
7
8

V.I.Lênin. Toàn tập, Nxb TB, M, 1976, tập 44, tr 8.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 603.


chính quyền”9. Chính việc đấu tranh giành chính quyền trong từng dân tộc là
đòi hỏi khách quan của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, đó là điều kiện để
giai cấp vô sản tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân
tộc, xoá bỏ dân tộc tư sản để hình thành dân tộc XHCN, dân tộc vô sản. Vì
vậy, “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, dù về mặt nội dung không phải là
cuộc đấu tranh dân tộc nhưng lúc đầu lại mang hình thức dân tộc”10.
Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc còn được thể hiện trong mối quan
hệ giữa giải phóng giai cấp với giải phóng dân tộc. C.Mác viết: “Hãy xoá bỏ
tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác
cũng sẽ bị xoá bỏ”11.
Quan điểm mác xít về quan hệ giữa giai cấp và dân tộc trong cách
mạng vô sản được V.I.Lênin tiếp tục phát triển trong thời đại mới, khi mà chủ
nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, và phong trào giải phóng
dân tộc đã phát triển mạnh mẽ. V.I.Lênin khẳng định: kẻ thù chung của giai
cấp vô sản ở các nước tư bản và thuộc địa lúc này là đó chính là giai cấp tư
bản, nhà nước đế quốc, do đó, giai cấp vô sản phải liên kết với các nước thuộc

địa, cho dù ở các nước thuộc địa đó giai cấp nào lãnh, và V.I.Lênin đã chuyển
khẩu hiệu “Vô sản các nước đoàn kết lại” của C.Mác thành khẩu hiệu “Vô
sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Đối với các nước
thuộc địa có phong trào vô sản phát triển mạnh mẽ, theo V.I.Lênin, phải có sự
liên kết phong trào vô sản ở những nước đó với phong trào vô sản ở chính
quốc. Đồng thời, ông cho rằng, khi các “dân tộc XHCN lớn” được hình thành,
quần chúng lao động tự giải phóng khỏi ách áp bức của giai cấp tư sản sẽ
hướng toàn lực của họ vào việc liên minh và thống nhất với các dân tộc
XHCN để tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến thắng chủ nghĩa tư bản, giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc.

C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 615.
11 C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, tập 4, tr 625.
9

10


Như vậy, mặc dù đã được xuất hiện từ rất sớm, nhưng chỉ đến C.Mác
và Ph.Ăng-ghen và sau đó là Lênin kế thừa, phát triển thì lý luận về giai cấp
và đấu tranh giai cấp mới thực sự mang tính cách mạng và khoa học. Đứng
vững trên lập trường của chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển mác xít
đã luận chứng làm rõ những vấn đề về nguồn gốc giai cấp, tiêu chí phân biệt
giai cấp, cũng như nguyên nhân, điều kiện, mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản. Từ lý luận đó, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ đặc
thù của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, nhiệm vụ lịch sử mà nó phải giải
quyết, cũng từ lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng nên chủ nghĩa cộng sản khoa học. Lý luận này đã xoá tan
mọi ảo tưởng về xoá bỏ giai cấp, xoá bỏ áp bức dựa trên cơ sở thuần tuý về
giáo dục đạo đức mà không xuất phát từ kinh tế, lực lượng sản xuất.

2. Vận dụng quan điểm Mác-lênin về giai cấp và đấu tranh giai
cấp của Đảng ta từ năm 1975 đến nay
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc vào năm 1975, cách
mạng Việt Nam bước sang một giai đoạn lịch sử mới, đó là xây dựng chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV khẳng định: nước ta vẫn ở trong quá
trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, khó
khăn lớn nhất là nền kinh tế lạc hậu lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá, kẻ thù
luôn tìm mọi âm mưu, thủ đoạn phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Trên thế giới, cuộc đấu tranh giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, giữa độc lập, dân chủ, hoà bình với các thế
lực phản động, đế quốc, hiếu chiến vẫn diễn ra hết sức quyết liệt.
Xuất phát từ đặc điểm đó, Đại hội IV vạch ra đường lối chung của cách
mạng XHCN ở nước ta trong giai đoạn mới là: Nắm vững chuyên chính vô
sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật,


cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là
then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN là nhiệm vụ trung tâm của cả
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ XHCN, xây
dựng nền sản xuất lớn XHCN; xây dựng nền văn hoá mới XHCN; xoá bỏ chế
độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; xây dựng thành công Tổ
quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và XHCN, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội.
Quá trình cách mạng XHCN ở giai đoạn lịch sử này được xác định là
quá trình kết hợp giữa cải tạo và xây dựng, trong đó xây dựng là là chủ yếu.
Quá trình xây dựng phải tạo ra được cả lực lượng sản xuất mới, cơ sở hạ tầng

mới và kiến trúc thượng tầng mới, cả đời sống vật chất và tinh thần mới, đồng
thời vẫn phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống mọi âm mưu của các thế lực thù
địch nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.
Với tinh thần đó, công cuộc cải tạo XHCN đã được đẩy mạnh, phong
trào hợp tác hoá, xây dựng các tập đoàn sản xuất, tổ đoàn kết sản xuất trong
nông nghiệp ngày càng phát triển, bộ phận tư sản mại bản ở Miền Nam được
xoá bỏ. Công thương nghiệp tư bản tư doanh được cải XHCN. Đến giữa năm
1979, việc chuyển các cơ sở tư bản tư doanh trong các ngành thương nghiệp,
công nghiệp, vận tải, xây dựng, thành các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp
doanh cơ bản đã hoàn thành. Dĩ nhiên quá trình cải tạo đó có tính chất nóng
vội, nhưng nó cũng đã phản ánh quan điểm giai cấp nhất quán của Đảng ta và
cũng chứng tỏ việc nhận thức và vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh
giai cấp là một quá trình phức tạp.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, Đảng ta vẫn khẳng định: “Phải
hoàn thành công cuộc cải tạo XHCN ở các tỉnh ở miền Nam, tiếp tục hoàn
thiện quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất trong cả
nước”. Như vậy, cho đến Đại hội V, quan niệm về vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp cơ bản như trước đây.


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, được coi là cái mốc của thời kỳ đổi
mới. Đây là thời kỳ có nhiều biến đổi quan trọng nhất trong việc nhận thức
các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong
sự đổi mới nhận thức đó, sự nhận thức và vận dụng lý luận về giai cấp và đấu
tranh giai cấp cũng được phát triển lên một tầm cao mới ở Việt Nam.
Phân tích những yếu kém, hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI vẫn xác định rõ hai nhiệm vụ cơ
bản của cách mạng Việt Nam là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc XHCN. Điều đặc biệt quan trọng là Đại hội VI đã đưa ra chủ
trương phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước và khẳng định đây là chiến lược lâu dài

trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là bước chuyển biến quan
trọng trong nhận thức về đấu tranh giai cấp ở thời kỳ quá độ, đó là sự vận
dụng sáng tạo những luận điểm của V.I.Lênin trong thời kỳ phát triển kinh tế
mới ở Nga trước đây vào Việt Nam.
Đại hội VI cũng đề ra đường lối đổi mới nhằm tạo ra những chuyển
biến trong nhận thức, trong hành động của toàn xã hội, đồng thời tạo ra những
chuyển biến quan trọng trong tình hình kinh tế - xã hội, đưa đất nước vượt
qua những khó khăn hiểm nghèo. Đây là bước chuyển biến quan trọng trong
nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đồng thời, cũng
là bước chuyển biến quan trọng trong nhận thức về vấn đề giai cấp và đấu
tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ.
Từ Đại hội VI đến Đại hội VII, VIII, Đảng ta luôn kiểm điểm, đánh giá
tình hình trong nước và quốc tế, tổng kết thực tiễn, rút ra những bài học kinh
nghiệm, xác định rõ thời cơ và thách thức, phê phán những tư tưởng chủ quan
nóng vội trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đưa ra những
mục tiêu cụ thể phù hợp với tình hình đất nước. Tuy nhiên, quan điểm giai
cấp của Đảng đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX mới được trình bày một
cách rõ ràng và đầy đủ với những vấn đề cụ thể quan trọng sau:


Một là, khẳng định sự tồn tại lâu dài của các thành phần kinh tế, các
giai cấp xã hội khác nhau trong thời kỳ quá độ ở nước ta là một tất yếu khách
quan. Điều đó là một nhận định dứt khoát, rõ ràng, thể hiện nhận thức đầy đủ
về vai trò thực tế của các giai cấp trong tình hình mới.
Hai là, xác định quan hệ giữa những giai cấp và các tầng lớp xã hội ở
nước ta vừa hợp tác vừa đấu tranh nhưng là đấu tranh trong nội bộ nhân dân.
Ba là, nội dung chủ yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta là: đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khắc phục đói nghèo, chậm phát triển,
đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Bốn là, động lực của sự phát triển xã hội là phát huy tinh thần đoàn kết
toàn dân tộc dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nông và trí thức.
Năm là, đặt ra yêu cầu, tôn vinh những người biết tổ chức sản xuất kinh
doanh, đội ngũ doanh nhân mới.
Đại hội IX còn khẳng định: “Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp
tiếp tục diễn ra gay gắt”. Trong thời kỳ quá độ ở nước ta, mối quan hệ hợp
tác và đấu tranh giữa các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Việt Nam là mối quan
hệ lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng Sản. Các giai cấp và các dân tộc trong cộng đồng phải lấy mục
tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh làm nền tảng tương đồng; đồng thời phải xoá bỏ mặc
cảm, định kiến, phân biệt đối sử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng
tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.
Có thể nói rằng, đây là một bước phát triển lớn trong việc nhận thức
vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay. Điều này không
chỉ tạo ra sức mạnh cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc mà còn tạo ra khả năng
mới cho sự cho sự phát triển đất nước. Những thành tựu đạt được từ sau Đại
hội IX đã minh chứng cho đường lối đúng đắn đó.


Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta vẫn tiếp tục nhất
quán về tính tất yếu và vai trò của đấu tranh giai cấp trong thời đại ngày nay,
đấu tranh giai cấp là vấn đề xuyên suốt và là nội dung cấu thành của lịch sử
đương đại. Đại hội X khẳng định: “Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất
gay gắt”12. Ở tầm khái quát, Đại hội X đã xem vấn đề đấu tranh giai cấp của
thời đại hiện nay trong bức tranh toàn cảnh và gắn với đặc điểm, loại hình đấu
tranh khác của thời đại. Đây là cơ sở để xác lập quan điểm khoa học và biện
chứng trong giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, chống việc phủ
nhận hoặc cường điệu, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp trong thời đại hiện
nay.

Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, trong cương lĩnh xây dựng
đất nước (bổ sung, phát triển năm 1991) Đảng tiếp tục khẳng định: “Các mâu
thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và mức độ khác
nhau vẫn tồn tại và phát triển…đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp, chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh
chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế
tiếp tục diễn ra phức tạp.”13 cho thấy nhận thức của Đảng về vấn đề giai cấp
và đấu tranh giai cấp vẫn bá, sát lý luận và thực tiễn, biểu hiện sự nhất quán
trong tư duy và đưa ra những dự báo khoa học.
Như vậy, phát triển lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa
Mác ở Việt là một quá trình và cơ bản là nhận thức đúng đắn. Từ việc nhận
thức vai trò đến việc xác định nội dung cơ bản của đấu tranh giai cấp trong
thời kỳ lịch sử, từ chủ trương coi trọng vấn đề giải phóng dân tộc đến phát
triển kinh tế nhiều thành phần, kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng
tỏ lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam đã ngày càng được nhận
thức và vận dụng đúng đắn hơn. Đó là cơ sở lý luận hết sức quan trọng để
hình thành đường lối chiến lược và sách lược cách mạng sát đúng trong từng
12
13

Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006, tr 74.
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011, tr 67.


giai đoạn lịch sử, tránh được các tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh trong cuộc
đấu tranh tư tưởng cũng như trong quá trình bảo vệ và phát triển đất nước.
Cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay là cuộc đấu tranh giai cấp
trong thời kỳ quá độ với những điều kiện mới, nội dung và hình thức mới.
Đây là cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong một bối cảnh tình hình trong
nước và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, mau lẹ và rất nhạy cảm: chủ

nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống XHCN và phong trào
công nhân quốc tế tạm thời thoái trào. Trong khi đó, chủ nghĩa tư bản lại có
bước phát triển mới nhờ sự điều chỉnh thích nghi, chủ nghĩa đế quốc đứng đầu
là Mỹ thực hiện một loạt âm mưu bá chủ toàn cầu. Về mặt kinh tế, chủ nghĩa
đế quốc đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá, tăng cường đầu tư vào những nước
đang phát triển, chậm phát triển, tạo ra những thời cơ và những thách thức lớn
trong quá trình phát triển của những nước đó. Về mặt chính trị, chủ nghĩa đế
quốc tìm mọi cách để can thiệp vào nội bộ, sử dụng các công cụ tuyên truyền
hiện đại để chống phá các nước XHCN, các nước trung lập… Trong bối cảnh
quốc tế đầy những phức tạp, khó khăn, Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội chưa
có những yếu tố tiền tư bản và đầu tư bản, chịu ảnh hưởng của chế độ phong
kiến đã tồn tại hàng ngàn năm. Chiến tranh kéo dài hơn 30 năm với các cường
quốc đế quốc đã làm cho đất nước hết sức nghèo nàn bởi sự tàn phá của chiến
tranh. Đã thế, Mỹ lại thực hiện chính sách thù địch bao vây, cô lập cấm vận
Việt Nam trong thời gian dài, thực hiện âm mưu “Diễn biến hoà bình” kết
hợp với bạo loạn lật đổ, luôn đặt Việt Nam vào những tình huống hết sức khó
khăn. Trong tình hình đó, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam lại phát triển không mấy thuận lợi: nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở Việt Nam phát triển chưa toàn diện, đồng bộ, lành mạnh đáp ứng
tình hình mới, trong khi đó thành phần kinh tế nhà nước, tập thể không mạnh,
hiệu quả kinh doanh, khả năng cạnh tranh thấp, cho dù nó vẫn giữ vai trò
trọng yếu trong nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển, hội nhập, các
thành phần kinh tế đẩy mạnh hội nhập quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài,


trong mối quan hệ đa phương, đa dạng đó không chỉ có những thuận lợi mà
còn có những khó khăn bởi sự xâm nhập của các yếu tố tư bản chủ nghĩa ảnh
hưởng đến định hướng XHCN. Để giữ vững định hướng XHCN, một vấn đề
đặt ra là phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước phát triển để giữ
vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, song muốn thực hiện được

điều đó nó cần có sự nỗ lực của chính bản thân thành phần kinh tế nhà nước,
cùng với sự ủng hộ của tất cả các thành phần kinh tế, của Đảng, Nhà nước và
các tổ chức chính trị - xã hội. Đây là cả một quá trình lâu dài và không hề
giản đơn.
Cùng với sự phát triển của công nghiệp, quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cũng đã được chú ý, nhất là trong những
năm gần đây. Cơ cấu kinh tế và lao động nông thôn có sự chuyển dịch phù
hợp với yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp chuyển dần sang sản xuất hàng hoá, kết cấu hạ tầng ở nông thôn được
xây dựng ngày càng đồng bộ đáp ứng kịp thời yêu cầu công nghiệp hoá ở
nông thôn. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất ở nông thôn còn
chậm, sản xuất còn manh mún, hiệu quả còn thấp kém nhất là ở các tỉnh miền
núi.
Từ sự biến đổi, phát triển của các thành phần kinh tế, các giai cấp, tầng
lớp trong xã hội cũng có những biến đổi quan trọng: Giai cấp từ chỗ phát triển
thuần nhất bao gồm những người sản xuất trong các xí nghiệp quốc doanh,
nay họ có sự tham gia của các bộ phận khác từ các doanh nghiệp, thành phần
kinh tế khác nhau, và bộ phận này hết sức đông đảo. Bên cạnh đó, lực lượng
công nhân ở các khu vực kinh tế có sự khác nhau về nhiều phương diện kinh
tế, chính trị.
Về kinh tế, giai cấp công nhân ở các thành phần kinh tế khác nhau thì
thu nhập của họ cũng khác nhau, trong đó, công nhân ngoài quốc doanh
thường có thu nhập cao hơn, điều đó đã tạo nên sự khác biệt về tiêu dùng, lối
sống trong bộ phận giai cấp công nhân.


Về chính trị, nhiều công nhân ở các xí nghiệp tư nhân không được sinh
hoạt chính trị đầy đủ, các tổ chức chính trị - xã hội ở đó không có hoặc phát triển
không mạnh, dẫn đến, trình độ chính trị của họ không cao, và họ thường xuyên
bị vi phạm về quyền con người, bị đánh đập, bị xúc phạm về thể xác, tinh thần.

Do đó, mâu thuẫn giữa công nhân và chủ các doanh nghiệp ngày càng tăng, và
trong cả nước đã có nhiều vụ đình công của công nhân. Nhưng có một điều đáng
lưu ý là các cuộc đình công đó thường diễn ra không đúng theo trình tự, thủ tục,
quy định của pháp luật, điều này phản ánh trình độ chính trị của công nhân chưa
cao, còn mang tính tự phát, thiếu sự lãnh đạo chặt chẽ. Điều đó, đã đặt ra vấn đề
về vị trí, vai trò tiên phong của giai cấp công nhân trong sự phát triển của các
thành phần kinh tế theo định hướng XHCN hiện nay.
Giai cấp nông dân Việt Nam vẫn là lực lượng đông đảo nhất, họ chiếm tới
80% dân số cả nước. Đây là nguồn tiềm lực quan trọng của mọi thành phần kinh
tế, song, đời sống của nông dân đang có sự phân hoá rõ nét, cùng với đó quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã dẫn đến tình trạng đất canh tác của họ bị
thu hẹp, thất nghiệp tạo nên những bức xúc ở nông thôn. Vì vậy, đã phát sinh
nhiều điểm nóng, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội chung của cả nước.
Tầng lớp trí thức Việt Nam phát triển nhanh chóng, cho đến nay đã có
hàng triệu người tốt nghiệp đại học với hàng chục ngàn người có trình độ sau
đại học. Đây là một lực lượng quan trọng của đất nước.
Công - nông - trí thức là lực lượng cơ bản của xã hội. Sự liên minh chặt
chẽ của họ là nhân tố quyết định sự thắng lợi của cuộc đấu tranh giai cấp ở
nước ta hiện nay. Song, tất cả những vấn đề nêu trên cũng ảnh hưởng phần
nào tới sự liên minh này.
Về giai cấp tư sản Việt Nam, hiện nay còn có nhiều ý kiến khác nhau.
Có quan điểm cho rằng Việt Nam chưa có giai cấp tư sản. Đây cũng có những
cơ sở chính đáng, bởi thực tế tư sản Việt Nam hiện nay chưa phải là một “tập
đoàn người to lớn”, họ cũng không liên kết thành một lực lượng độc lập, đối
diện với các giai cấp khác. Nhưng sự tồn tại thực tế của họ trong sản xuất


kinh doanh cũng đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn phù hợp. Tất nhiên,
không đồng nhất họ với tư sản nước ngoài và khi giai cấp công nông giành
chính quyền. Song, trên thực tế giữa họ với các giai tầng khác trong xã hội

vẫn nảy sinh những mâu thuẫn về kinh tế - xã hội, cần có sự điều chỉnh kịp
thời của Đảng và Nhà nước, tránh để những mâu thuẫn ấy phát triển theo
hướng xấu.
Cùng với sự biến đổi của cơ cấu giai cấp - xã hội, các vấn đề xã hội
cũng có nhiều phức tạp, đặc biệt là vấn đề tham nhũng, thoái hoá biến chất
của một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên ở tất cả các cấp. Đây là một
vấn đề hết sức nhức nhối của toàn xã hội, nó đã trở thành quốc nạn, trong khi
những biện pháp khắc phục nó đều không có hiệu quả thực sự. Theo đánh giá
của Hội nghị lần thứ IX Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng khoá IX (1 2004) chỉ trong vòng ba năm, sau Đại hội IX đã có 45.000 cán bộ đảng viên
vi phạm kỷ luật, trong đó, có 69 cán bộ do Trung Ương quản lý. Đây là một
khó khăn hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay. Bên cạnh đó,
các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, các điểm nóng xã hội đã từng bùng phát
và vẫn còn nguy cơ bùng nổ, tiềm ẩn.
Như vậy, cuộc đấu tranh giai cấp của chúng ta hiện nay diễn ra trong
bối cảnh quốc tế và trong nước hết sức phức tạp. Để có thể giành được thắng
lợi trong cuộc đấu tranh đó, đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo và có tinh
thần cách mạng rất cao.
Dựa trên những điều kiện, hoàn cảnh thực tế, Đảng ta đã đưa ra những
quan điểm đúng đắn về quan hệ giai cấp và những nội dung chủ yếu của cuộc
đấu tranh giai cấp hiện nay. Tuy nhiên, do chưa có sự nhận thức sâu sắc về
mặt lý luận và chưa đánh giá hết được tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh
giai cấp hiện nay, do đó, những tinh thần cơ bản đó của Đảng vẫn chưa được
thực sự quán triệt trên phạm vi toàn xã hội.
Để góp phần khắc phục tình trạng trên cần phải nhận thức đúng hơn
nữa những vấn đề sau.


1. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
trong cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay.
Có thể nói, những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc

đến phát triển kinh tế của đất nước đều được xuất phát từ sự nhận thức và giải
quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ở Việt Nam.
Đó chính là việc Đảng ta lấy mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội làm
hàng đầu, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Nhờ đó, Đảng Cộng Sản Việt Nam
đã trở thành người lãnh đạo, tổ chức mọi lực lượng dân tộc, và lôi cuốn được
tuyệt đại đa số nhân dân tham gia. Việc giải quyết mối quan hệ giai cấp, dân
tộc của Đảng ta hoàn toàn phù hợp với lý luận mác xít, rằng: cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân về bản chất là có tính quốc tế, nhưng cuộc đấu tranh
ấy được diễn ra trên địa bàn dân tộc, và giai cấp công nhân phải trở thành dân
tộc, người đại diện cho dân tộc, lãnh đạo dân tộc chứ không chỉ riêng cho một
giai tầng nhất định. Điều đó, đòi hỏi giai cấp công nhân phải biết khai thác và
phát huy sức mạnh của toàn dân tộc. Mặt khác, bất kỳ một giai cấp nào cũng
có những lợi ích riêng, nhưng khi đã trở thành giai cấp thống trị xã hội thì nó
phải nhân danh lợi ích chung của toàn xã hội thì nó mới có thể giữ vững
quyền thống trị của mình. Do vậy, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VNXHCN hiện nay là một đòi hỏi tất yếu
của lịch sử, hoàn toàn phù hợp với thực tiễn của đất nước, điều đó chỉ sai lầm,
hữu khuynh khi chúng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, từ bỏ
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo đó cần quan tâm: phát huy
tối đa tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc thực sự vững chắc trên nền tảng liên minh công nông - trí thức, với nhiều
hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp, song phải giữ vững nguyên tắc độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Nhận thức rõ vai trò trọng tâm của sự phát triển kinh tế trong đấu
tranh giai cấp.


Đây là vấn đề cơ bản nhất, chủ yếu nhất của thời kỳ quá độ, bởi như
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể chiến thắng được chủ nghĩa
tư bản khi nó tạo ra được năng suất lao động cao hơn thế.

Ở Việt Nam hiện nay, phát triển kinh tế thực chất là phát triển kinh tế nhiều
thành phần, vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây là phải tìm ra được những nhân tố để thúc
đẩy sự phát triển của mỗi thành phần kinh tế, trên cơ sở vận dụng sáng tạo quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Bên cạnh việc phát triển tất cả các thành phần kinh tế cần phải xác định vai trò, vị
trí của từng thành phần kinh tế, xác định thành phần nào là trọng tâm trong từng
giai đoạn lịch sử. Để xác định vị trí của từng thành phần kinh tế phải dựa trên trình
độ của lực lượng sản xuất.
Với nước ta hiện nay, lực lượng sản xuất phổ biến là trình độ thủ công thì
thành phần kinh tế phù hợp nhất với nó là thành phần kinh tế tư nhân. Nhưng kinh
tế tư nhân ở Việt Nam hoàn toàn khác với kinh tế tư nhân ở các nước tư bản chủ
nghĩa, bởi, ở Việt Nam thành phần này là một bộ phận quan trọng để tạo ra sự
phát triển của kinh tế thị trường XHCN, tạo tiền đề vật chất kỹ thuật để xây dựng
quan hệ sản xuất XHCN. Muốn phát triển thành phần kinh tế tư nhân, nhà nước
cần tạo ra những giải pháp hữu hiệu để phát triển nó. Mặt khác, kinh tế tư nhân
trong thời kỳ quá độ thực chất không phải là kinh tế tư bản thuần tuý, mà là một
hình thức của tư bản nhà nước, do đó, vấn đề quan trọng là trong quá trình phát
triển nó, Đảng - Nhà nước phải có sự điều chỉnh các quan hệ sản xuất, xu hướng
vận động của nó, đồng thời phải có sự quản lý của nhà nước. Đảng và Nhà nước
cần chủ động, kịp thời điều chỉnh khi thành phần này đã phát triển mạnh tạo ra sự
mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất để thúc đẩy quan hệ sản
xuất và lực lượng sản xuất cùng phát triển.
3. Coi trọng cuộc đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá xã hội.
Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị - tư tưởng hiện nay cũng là một vấn
đề hết sức quan trọng và nhạy cảm, đây là một “trọng điểm” mà kẻ thù tập trung


chống phá, nếu xem nhẹ nó thì sẽ dẫn tới những hậu quả khôn lường về kinh tế xã hội. Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng hiện nay, trước hết phải
nhằm phục vụ cho việc thúc đẩy, phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại,
củng cố thế trận quốc phòng, an ninh, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc, góp phần

vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Đấu tranh chính trị - tư tưởng phải kết hợp với đấu tranh kinh tế - văn hoá
để tạo nên sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước,
làm thất bại những tư tưởng phản động, cơ hội dưới mọi hình thức.
Đồng thời, phải coi trọng củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản,
nâng cao vai trò, năng lực tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước. Đó là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của cuộc đấu tranh giai cấp hiện nay ở nước ta, nhân tố
quyết định cho cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay. Để hoàn thành được
nhiệm vụ quan trọng này Đảng và Nhà nước cần phải thường xuyên tự đổi mới về
mọi mặt, cả về con người, tổ chức, đường lối, chủ trương chính sách, tổ chức thực
hiện, mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị… đặc biệt là phải
tỏ rõ thái độ kiên quyết không khoan nhượng với các hiện tượng suy thoái về chính
trị, tư tưởng, đạo đức trong cán bộ, đảng viên trong bộ máy Đảng, Nhà nước.
4. Mở rộng quan hệ và hợp tác quốc tế một cách toàn diện.
Đây là nhân tố tạo điều kiện cho Việt Nam giành được nhiều thắng lợi
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là
trên phương diện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Để chiến thắng được chủ nghĩa tư bản khi chưa có tiềm lực lớn hơn chủ
nghĩa tư bản thì cần phải tạo ra tiềm lực kinh tế - xã hội bằng những biện pháp
khôn ngoan và hiệu quả nhất. Một trong những biện pháp đó là mở rộng quan hệ
quốc tế, đặc biệt là với những nước tư bản phát triển, nhằm tiếp thu những thành
tựu kinh tế, khoa học, công nghệ, phương thức tổ chức, quản lý xã hội… nhanh
chóng đạt được mục tiêu “đi tắt đón đầu” rút ngắn quá trình phát triển kinh tế - xã


×