Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO GIỚI THIỆU tóm tắt bộ tư bản của các mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.56 KB, 38 trang )

Giới thiệu tóm tắt tác phẩm tư bản

1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời tác phẩm.
Từ năm 1848 đến những năm 70 của thế kỷ XIX sự phát triển của chủ nghĩa
Mác đó bước vào giai đoạn mới, đú là thời kỳ của chủ nghĩa Mác trưởng
thành C.Mác có những công trình nghiên cứu kinh tế xuất sắc đó là bộ “Tư
bản”. đây cũng là thời kỳ bảo tỏp và cách mạng, thời kỳ kết thúc quá trình
hình thành chủ nghĩa tư bản ở châu Âu, các đảng vô sản được thành lập rộng
rải. V.I.Lênin nhận xột: cách mạng năm 1848 đó giáng một đòn chí mạng vào
những hình thức ầm ĩ, sặc sỡ và ồn ào đó của chủ nghĩa cơ hội trước C.Mác.
ở tất cả các nước cách mạng cho thấy các giai cấp cơ hội khác nhau trong
hành động, việc bọn tư sản cộng hòa tàn sỏt cụng nhõn ở pari xỏc định dứt
khoỏt rằng chỉ riờng giai cấp vụ sản mới cú bản chất xó hội chủ nghĩa giai
cấp tư sản tự do chủ nghĩa sợ độc lập của giai cấp vụ sản nhiều gấp trăm lần
hơn là sợ bất kỳ thế lực phản động nào …tất cả những học thuyết về chủ
nghĩa xó hội phi giai cấp đều là những lời nhảm nhớ vụ nghĩa.
Vào những năm 50 và 60 của thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh
tạo cơ sở để C.Mỏc nghiờn cứu rộng lớn về chủ nghĩa tư bản.
Cựng với việc mở rộng phong trào cụng nhõn, năm 1864, quốc tế I đó xuất
hiện và cuộc đấu tranh tư tưởng gay gắt. hoạt động của quốc tế I đó đặt ra
nhiều vấn đề mới. trong đú cú những vấn đề cú tớnh chất lý luận, đó giỳp
C.Mỏc đề xuất một luận điểm quan trọng. kinh nghiệm của cụng xó pari đó
khẳng định sự đỳng đắn của học thuyết Mỏc- Xớt và cung cấp cơ sở những
khỏi quỏt mới.
Thời kỡ này C.Mỏc nhận xột nước anh là nước tư bản chủ nghĩa điển
hỡnh do đú giỳp C.Mỏc nghiờn cứu xó hội tư bản và hỡnh thành ý tưởng và
cho ra đời bộ tư bản.
Tiểu sử, tác phẩm và phương pháp luận của C.Mác.

1



C.Mỏc sinh ngày 5/5/1818 mất ngày 14/3/1883 trong một gia đỡnh trớ
thức, cú bố là luật sư ở thành phố fơrevơ tỉnh ranh nước phổ, là một vùng có
nhiều ảnh hưởng cách mạng tư sản pháp. C.Mác là tín đồ ki tô giáo, những
ảnh hưởng tốt của giáo dục của gia đỡnh, nhà trường và xó hội đó hỡnh
thành phẩm chất, đạo đức dân chủ cách mạng, quan điểm vô thần, năm 1836
C.Mác tốt nghiệp trường đại học luật, năm 1841 tốt nghiệp đại học tổng hợp
béc lin 1841 C.Mác nhận bằng tiến sĩ triết học….
Tỏc phẩm của C.Mỏc: Bản thảo kinh tế - triết học (1844); Gia đỡnh
thần thỏnh (1845); Lao động làm thuê và tư bản (1847); Sự khốn cựng của
triết học(1847); Tuyên ngôn Đảng cộng sản (1848). đặc biệt bộ “Tư bản” của
C.Mỏc và Ph.Ăng gen.
Phương pháp luận. C.Mác sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa
học để nghiên cứu lý luận giỏ trị hàng hoá và bản chất bóc lột của chủ nghĩa
tư bản …… ngoài ra kết hợp phương pháp lôgic lịch sử, toán học phân tích
tổng hợp để nghiên cứu và giải thích các hiện tượng kinh tế.
Bộ “Tư bản” của C.Mác trình bày lý luận về chủ nghĩa tư bản
(CNTB) trong thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sự tổng kết tư liệu thực tiễn
của nước Anh, trình bày sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa (TBCN) và vạch rõ những mâu thuẫn vốn cú trong lòng
CNTB( mõu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vụ sản…) tất yếu CNTB
sẽ bị diệt vong, xõy dựng xó hội mới đú là xó hội chủ nghĩa (CNXH) trờn
phạm vi toàn thế giới.
Học thuyết C.Mỏc là học thuyết mở, trong giai đoạn hiện nay về kinh
tế- xó hội đã thay đổi rất nhiều so với giai đoạn C.Mác viết tác phẩm “Tư
bản”, nờn tuỳ theo điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước mà vận dụng cho
phự hợp để phỏt triển kinh tế của đất nước mỡnh. nguyên lý, nhiều quy luật
kinh tế C.Mác đã phát hiện, như những quy luật về sản xuất và lưu thông
hàng hoá, về sản xuất giá trị thặng dư (GTTD), về lợi nhuận, về thương
nghiệp, tín dụng, ngân hàng, về cơ chế thị trường tự do cạnh tranh, về khủng


2


hoảng kinh tế ... mang tính khoa học và ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn trong
sản xuất hàng hoỏ hiện nay.
Nắm vững điểm xuất phát của việc nghiên cứu Bộ “Tư bản”, là nắm
vững phương pháp “từ trừu tượng khoa học đến cụ thể”, nắm vững sự biện
chứng của riêng từng phạm trù cũng như sự chuyển biến từ phạm trù này
sang phạm trù khác, mới có thể đặt những tư liệu cụ thể vào vị trí thích đáng
và mới làm cho những tư liệu ấy có một ý nghĩa lý luận sâu sắc.
Mọi sự vật hiện tượng đều biến đổi. Khi nghiờn cứu Bộ “Tư bản”
cũng phải thay đổi phương pháp tiếp cận. Để vạch trần bản chất bóc lột của
CNTB người đọc thường thiên về khái thác quan hệ bóc lột GTTD, vạch ra
mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Ngày nay người đọc biết kết hợp những
điểm nói trên và đã quan tâm tìm hiểu trong bộ “tư bản” nhiều tri thức bổ ích
khác nữa, về cơ chế thị trường, về kinh tế hàng hoá, tiền tệ, tăng sức sản
xuất hàng hoỏ. Muốn tìm hiểu sâu sắc những tư tưởng của Bộ “Tư bản”
người đọc không nên đọc một cách tản mạn, “từng mảnh” mà phải đọc một
cách có hệ thống theo trình tự từ đầu tới cuối. Việc đọc như vậy đòi hỏi phải
có một vốn kiến thức lý luận nhất định về kinh tế chính trị Mác - Lê nin.
Tuy nhiên, ngay cả đối với những người đã học giáo trình kinh tế
chính trị Mác - Lênin, đã có thói quen nghiên cứu, thì việc đọc tác phẩm đồ
sộ này một cách nghiêm túc cần phải khắc phục cả khó khăn khách quan và
chủ quan. Về khách quan, Bộ “Tư bản” là một công trình khoa học cả về nội
dung và hình thức trình bày, vì vậy đòi hỏi phải đọc nhiều lần và ghi chộp
những vấn đề quan trọng, thường xuyên liên hệ với thực tiễn. Muốn thế cần
phải có lòng kiên nhẫn. Nhưng về mặt chủ quan, nhiều bạn đọc, thường thiếu
kiên trì, muốn đọc xong ngay, hiểu ngay, nắm vững ngay vi thế thường hay
bỏ qua một số nội dung cú liờn quan…

Những câu sau đây trong lời tựa của Bộ “Tư bản”: “Mọi bước khởi
đầu đều khó - chân lý ấy đúng đối với mọi khoa học. Và ở đây, điều khó

3


khăn lớn nhất là việc tìm hiểu chương thứ nhất, đặc biệt là đoạn trình bày sự
phân tích hàng hóa” (C.Mác - Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 23, Nxb CTQG,
H.1993, tr.15). Và “không có con đường cái quan nào ở trong khoa học cả,
chỉ những người nào không sợ chồn chân mỏi gối trèo lên những con đường
nhỏ bé gập ghềnh của nó thì mới hy vọng đạt tới đỉnh cao sán lạn của khoa
học mà thôi” (Sdđ, tr.39).
Để đọc và hiểu sâu nôị dung của bộ ‘tư bản” Phải có một khối lượng
thời gian cần thiết và liên tục cộng với lũng kiờn nhẫn. Mục đích của bản đề
cương này là phác thảo những điểm chủ yếu nhất, trong tác phẩm “Tư bản”,
dưới giác độ kinh tế chính trị nhằm giúp người đọc làm quen bước đầu với
công trình khoa học vĩ đại nói trên, để rồi sau này tiếp xúc trực tiếp với tác
phẩm một cách thuận lợi hơn, nhằm nhận thức trọn vẹn từng học thuyết.
“Tư bản” là công trình khoa học nghiên cứu nền kinh tế thị trường
TBCN thời kỳ tự do cạnh tranh ở nước Anh từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ
XIX. Nhưng nội dung của nó cung cấp cho người đọc không chỉ những tri
thức về phương thức sản xuất TBCN, về kinh tế thị trường TBCN mà cả
nhiều tri thức chung về kinh tế chính trị, về triết học và xã hội học v.v…
Đối tượng nghiên cứu của tác phẩm này là “phương thức sản xuất TBCN
và những quan hệ sản xuất và trao đổi thích ứng với phương thức sản xuất ấy”.
“Mục đích cuối cùng là tìm ra quy luật vận động kinh tế của xã hội hiện đại”
(C.Mác và Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, NXB CTQG 1993, tr.19, 21).
Như vậy đối tượng nghiên cứu của Bộ “Tư bản” là phương thức sản
xuất TBCN, tức là nghiên cứu cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong xã hội tư bản, nhưng nhấn mạnh quan hệ sản xuất và quan hệ trao đổi,

những quan hệ này ra đời một cách khách quan phù hợp với trình độ phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất, độc lập với ý muốn của con người.
Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành “cơ cấu kinh tế của xã hội, tức

4


là cơ sở thực tại của xã hội trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị”. Quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng
sản xuất khi nó phù hợp với lực lượng sản xuất và nó trở thành xiềng xích
trói buộc lực lượng sản xuất khi không còn phù hợp nữa.
Trong các sách giáo khoa kinh tế chính trị Mác - Lênin trước đây
thường quá thiên về nghiên cứu quan hệ sản xuất hầu như tách rời với lực
lượng sản xuất, nặng về chứng minh quan hệ bóc lột và phân phối GTTD,
khiến người học có ấn tượng dường như những quy luật mà C.Mác đã phát
hiện và trình bày trong tác phẩm “Tư bản” chỉ toàn là những quy luật riêng
có của CNTB.
Khi phân tích sản xuất TBCN C.Mác đã chỉ rõ sản xuất TBCN vừa
mang tính chất của sản xuất hàng hoá nói chung vừa mang những nét đặc
thù, vừa bao hàm quá trình lao động nói chung như mọi phương thức sản
xuất khác, vừa bao hàm quá trình làm tăng giá trị. Bởi vậy, trong tác phẩm
“Tư bản” tìm thấy không chỉ những quy luật kinh tế đặc thù riêng có của chủ
nghĩa tư bản mà cả những quy luật chung cho nhiều phương thức sản xuất
khác nhau như quy luật của kinh tế hàng hoá (giá trị, cung cầu, cạnh tranh,
lưu thông tiền tệ, quy luật tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, quy luật tăng sức
sản xuất của lao động v.v…)
Vì thế, một mặt, C.Mác phê phán quan điểm cho rằng những quy luật
của đời sống kinh tế chỉ là những quy luật chung, vĩnh viễn là một, áp dụng
cho cả quá khứ và tương lai. Người nhấn mạnh, mỗi thời kỳ lịch sử đều có
những quy luật kinh tế riêng của nó, và một khi đời sống kinh tế đã qua một

thời kỳ phát triển nhất định, đã từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, thì nó
cũng bị các quy luật khác chi phối. Mặt khác, C.Mác không hề phủ nhận
rằng giữa các thời đại sản xuất khác nhau có những cái chung nào đó, một số
qui định nào đó, nhưng không vì cái chung, cái thống nhất bắt nguồn từ chỗ

5


chủ thể, tức là con người và khách thể - tức là tự nhiên là đồng nhất, mà
quên mất sự khác nhau căn bản.
Trên quan điểm đó khi nghiên cứu Bộ “Tư bản”, phải tìm hiểu cả
những cái riêng của CNTB và cả những cái chung của kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường để vận dụng vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Tuy đối tượng chung của Bộ “Tư bản” như trên, nhưng do phương
pháp trình bày đi từ trừu tượng đến cụ thể nên đối tượng nghiên cứu của
từng tập, từng quyển và từng phần khác nhau. (Ghi chú: những lần xuất bản
trước năm l984 NXB, Sự Thật Hà Nội chia tác phẩm “Tư bản” thành 4
quyển: Quyển thứ nhất gồm 3 tập I, II, III. Quyển thứ hai gồm 2 tập I, II.
Quyển thứ ba gồm 3 tập I, II, III. Quyển thứ tư gồm 3 phần I, II, III. Năm
1993 - 1994 trong C.Mác và Ph.Ăngghen toàn tập, tập 23, 24, 25 NXB
Chính trị Quốc gia lại chia Tập thứ nhất, quyển I “Quá trình sản xuất của tư
bản “; Tập thứ hai, quyển II “Quá trình lưu thông của tư bản”, Tập thứ ba,
quyển III: “Toàn bộ quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa” và quyển IV “Các
học thuyết về GTTD”. Vì vậy, để tiện theo dõi, chúng tôi sẽ chỉ nói quyển,
không nói tập và đề tài nghiên cứu này chỉ bao gồm QI, QII, QIII, không đề
cập QIV).
Quyển I, với tiêu đề “Quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa”, nghiên
cứu riêng bản thân quá trình đó với tư cách là một quá trình sản xuất trực
tiếp, không kể đến những ảnh hưởng thứ yếu do những nhân tố ở bên ngoài
quá trình ấy gây ra, tức là chưa xét đến lưu thông của tư bản, tách quá trình

sản xuất của tư bản khỏi quá trình lưu thông của tư bản. Chỉ đề cập đến lưu
thông trong chừng mực cần thiết để 1àm rõ quá trình sản xuất đó. Nhưng vì
chỉ dựa trên cơ sở lưu thông hàng hoá mới có quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa, nếu không phân tích hàng hoá, tiền tệ, lưu thông hàng hoá và lưu
thông tiền tệ thì không thể nào hiểu nổi tư bản, nên phần thứ nhất quyển I
phải bắt đầu từ phân tích hàng hoá và tiền tệ.
6


Quyển I không nghiên cứu quá trình sản xuất nói chung mà nghiên
cứu quá trình sản xuất tư bản. Nhưng quá trình này lại vừa là quá trình lao
động nói chung vừa là quá trình làm tăng thêm giá trị, nghĩa là nó vừa bao
hàm cái chung vừa mang tính chất đặc thù của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa mà nét tiêu biểu là sức lao động trở thành hàng hoá. Quyển I gồm
7 phần:
Phần thứ nhất nghiên cứu hàng hoá và tiền tệ, vạch rõ quan hệ sản
xuất của những người sản xuất hàng hoá thể hiện trong hàng hoá - tiền tệ. Sở
dĩ bắt đầu nghiên cứu từ hàng hoá vì cái thống trị trong xã hội tư bản chủ
nghĩa là hàng hoá, vì sản xuất tư bản chủ nghĩa là giai đoạn cao của sản xuất
hàng hoá, nó chỉ có thể ra đời trên cơ sở sản xuất hàng hoá giản đơn đã đạt
đến một trình độ phát triển nhất định. C.Mác viết: “Lưu thông hàng hoá là
điểm xuất phát của tư bản. Các tiền đề lịch sử cho tư bản ra đời là nền sản
xuất hàng hoá và lưu thông hàng hóa đã phát triển, tức thương nghiệp”.
Tuy nhiên, trọng tâm của quyển I là giá trị thặng dư (GTTD), trong
quyển này C.Mác phân tích thực chất của GTTD, điều kiện ra đời của
GTTD, các phương pháp sản xuất GTTD và sự chuyển GTTD thành tư bản.
Sự nghiên cứu GTTD bắt đầu từ phần thứ hai và kết thúc ở phần thứ bảy.
Nhưng tại sao phần thứ hai lại phân tích lưu thông của tư bản, bắt
đầu từ công thức chung của tư bản T – H – T’. Đó là vì GTTD chỉ biểu hiện
ra ở lợi nhuận, không có GTTD thì không có lợi nhuận, nhưng không có lưu

thông tư bản chủ nghĩa thể hiện bằng công thức T - H - T’ thì cũng không có
GTTD, vì nếu không có lưu thông tư bản chủ nghĩa thì sự chiếm đoạt lao
động không công của người khác chỉ có thể thực hiện được bằng cách cưỡng
bức trắng trợn và trực tiếp như dưới chế độ chiếm hữu nô lệ và chế độ phong
kiến. Chỉ có trên cơ sở lưu thông hàng hoá tự do, nhờ đó sự lưu thông hàng
hoá - sức lao động xuất hiện, thì sự chiếm đoạt lao động thặng dư mới trở
thành sự chiếm đoạt GTTD và GTTD mới mang hình thái lợi nhuận.
7


Phần thứ ba nghiên cứu “sự sản xuất ra GTTD tuyệt đối”. Từ phần
này C.Mác gạt giai đoạn lưu thông sang một bên, chỉ coi như một tiền đề có
sẵn, tập trung toàn bộ sự phân tích vào quá trình sản xuất. Sản xuất GTTD
tuyệt đối chỉ là kéo dài ngày lao động ra quá giới hạn mà trong đó người
công nhân làm thuê sản xuất ra một vật ngang giá với giá trị sức lao động
của họ và nhà tư bản chiếm hữu số lao động thặng dư ấy. Quá trình này được
thực hiện trên cơ sở của những PTSX mà CNTB đã kế thừa trong lịch sử, chỉ
khác là trong trường hợp này lao động thặng dư không bị cướp đoạt bằng
cách cưỡng bức trực tiếp mà thông qua mua bán sức lao động “một cách tự
nguyện”. Do đó, sự sản xuất ra GTTD tuyệt đối chỉ đòi hỏi sự phụ thuộc về
hình thức của 1ao động và tư bản. Sự sản xuất ra GTTD tuyệt đối tạo ra cơ
sở chung cho chế độ TBCN và là điểm xuất phát để sản xuất GTTD tương
đối nên trong phần này sản xuất GTTD tuyệt đối được xem xét theo hai khía
cạnh: vừa là hình thái chung, vừa là hình thái đặc biệt của sự sản xuất ra
GTTD, vừa đề cập những vấn đề thuộc về sản xuất GTTD nói chung (quá
trình lao động và quá trình làm tăng giá trị, tư bản bất biến và tư bản khả
biến; tỷ suất GTTD) vừa đề cập những vấn đề thuộc về sự sản xuất GTTD
tuyệt đối (ngày lao động).
Phần thứ tư nghiên cứu sự sản xuất GTTD tương đối. Điểm xuất phát
của việc nghiên cứu này là độ dài ngày lao động không đổi, còn thời gian lao

động cần thiết lại là một đại lượng thay đổi do việc nâng cao năng suất lao
động (NSLĐ), còn việc nâng cao năng suất lao động lại là kết quả của tiến
bộ kỹ thuật và của những sự thay đổi trong việc tổ chức sản xuất, cho nên
phần này nghiên cứu trong điều kiện phương thức sản xuất TBCN tiến bộ kỹ
thuật được thực hiện như thế nào qua việc sản xuất GTTD tương đối. Phần
này vừa bổ sung cho phần trước bằng cách nghiên cứu một hình thái khác
của GTTD vừa dựa trên cơ sở những nguyên tắc đã phát triển trong phần
trước. ở đây, làm rõ việc nâng cao năng suất lao động biến thành việc tăng
thêm GTTD như thế nào. Nếu trước đây mới chỉ nhận biết tư bản khống chế
8


1ao động như thế nào thì bây giờ hiểu thêm tư bản tổ chức lại lao động đó ra
sao. Phần trước nghiên cứu những phạm trù cơ bản biểu hiện quan hệ sản
xuất TBCN, nhưng chưa nghiên cứu lực lượng sản xuất phát triển như thế
nào trong điều kiện quan hệ sản xuất TBCN. Phần này chỉ rõ quan hệ sản
xuất TBCN không những là kết của sự phát triển lực lượng sản xuất mà còn
tác động đến lực lượng sản xuất, cách mạng hóa lực lượng sản xuất; đồng
thời sự phát triển về mặt lý luận được bổ sung bằng việc nghiên cứu về mặt
lịch sử. Nói đúng hơn, sự phân tích lôgíc gắn với việc minh hoạ bằng những
giai đoạn lịch sử cơ bản của quá trình cải tổ lao động dưới sự thống trị của
tư bản, từ hiệp tác giản đơn, qua công trường thủ công, lên đại công nghiệp
cơ khí.
Phần thứ năm tổng hợp và bổ sung cho hai phần trước. Hai phần
trước nghiên cứu sản xuất GTTD tuyệt đối và GTTD tương đối một cách
biệt lập. Đến đây khái quát một cách thống nhất hai hình thức GTTD, nghiên
cứu sự biến đổi về lượng của giá cả sức lao động và GTTD. Sự biến đổi đó
phụ thuộc vào sự biến đổi của độ dài ngày lao động, của năng suất lao động
và cường độ lao động, tức là phụ thuộc vào những nhân tố có liên quan đến
sản xuất GTTD tuyệt đối và tương đối. Phần này kết thúc bằng sự xem xét

các công thức về tỷ suất GTTD. Các công thức này có ý nghĩa quan trọng
đối với cả hai hình thức GTTD, một công thức không đúng sẽ xuyên tạc tính
chất của nền sản xuất TBCN.
Phần thứ sáu nghiên cứu tiền công. Sở dĩ phải trình bày lý luận về
tiền công sau khi đã hoàn tất việc nghiên cứu GTTD là bởi vì lý luận GTTD
dựa trên cơ sở mua bán hàng hoá - sức lao động, nhưng trên bề mặt xã hội
tiền công lại biểu hiện ra là giá cả lao động chứ không phải giá cả sức lao
động. Vì thế cần phải làm rõ tiền công là sự biểu hiện, là hình thức chuyển
hoá của giá trị sức lao động, như vậy cái nền tảng trên đó xây dựng lên lý
luận GTTD mới được củng cố vững chắc. Việc phân tích bắt đầu từ việc giải

9


quyết mâu thuẫn giữa phạm trù giá trị và giá cả sức lao động với phạm trù
giá cả lao động. Hai chương tiếp theo (XVIII và XIX) trình bày tiền công
theo thời gian và tiền công theo sản phẩm. Phần này kết thúc bằng cách nêu
lên căn cứ của sự khác nhau về mức tiền công giữa các dân tộc.
Phần thứ bảy “Quá trình tích luỹ tư bản”. Cũng như bất cứ nền sản
xuất nào, nền sản xuất TBCN không phải là một hành vi đơn nhất và ngẫu
nhiên mà diễn ra liên tục. Nhưng các phần trước mới nghiên cứu quá trình
sản xuất TBCN như một quá trình tự lớn lên của giá trị, cho nên tính liên tục
chỉ mới được nêu ra, chứ chưa được nghiên cứu. Trong phần này nghiên cứu
mối quan hệ sản xuất TBCN trong mối liên hệ thường xuyên và trong tiến
trình đổi mới không ngừng”, tức là nghiên cứu quá trình tái sản xuất của tư
bản cá biệt.
Đặc trưng của CNTB là tái sản xuất mở rộng, muốn tái sản xuất mở
rộng thì phải tích luỹ tư bản. Nhưng ở đây mới chỉ nghiên cứu sự tích lũy tư
bản một cách trừu tượng, tức là chỉ nghiên cứu nó như một yếu tố của quá
trình sản xuất trực tiếp chứ chưa đề cập đến tiến trình thực tế của sự tích luỹ,

vì việc tích lũy tư bản hiện thực diễn ra gắn với việc thực hiện và phân phối
GTTD mà những vấn đề này sẽ được nghiên cứu ở QII và QIII.
Phần này bắt đầu từ việc phân tích tái sản xuất giản đơn, tức là khi
chưa có tích luỹ, mặc dù tái sản xuất giản đơn không phải là hiện tượng điển
hình của CNTB. Sở dĩ như vậy là vì một mặt, quá trình tích luỹ là quá trình
tái sản xuất tư bản nói chung, nhưng mặt khác, nó lại là sự tái sản xuất tư
bản với qui mô mở rộng. Lúc đầu C.Mác nghiên cứu mặt thứ nhất, tức là
nghiên cứu bản thân sự tái sản xuất, và đó là tái sản xuất giản đơn. Sau đó,
mới nghiên cứu mặt thứ hai, đó là qui mô tái sản xuất mở rộng hay tích luỹ.
Sự phân tích tái sản xuất mở rộng lại cho phép rút ra một loạt kết luận
và vạch rõ những xu hướng phát triển cơ bản của sự tích luỹ tư bản. Những

10


xu hướng này được trình bày trong chương XXIII “Quy luật chung của tích
lũy TBCN”.
Nhưng còn một vấn đề cho đến đây vẫn chưa được giải đáp: Việc một
số người này bị tách khỏi tư liệu sản xuất phải bán sức lao động và một số
người khác chiếm đoạt được tư liệu sản xuất để trở thành nhà tư bản mua
sức lao động diễn ra như thế nào? Sự phân tích phương thức sản xuất TBCN
không trả lời được câu hỏi đó mà chỉ công nhận vấn đề đó thôi. Do đó
chương XXV “cái gọi là tích lũy ban đầu” hay còn gọi là “tích lũy nguyên
thủy”, đưa chúng ta trở về thế giới tiền TBCN, trở về quan hệ tiền TBCN vì
chính những quan hệ đó chuẩn bị cho quan hệ TBCN, đồng thời là sự mào
đầu của quan hệ sản xuất TBCN. Quá trình tích lũy ban đầu còn tiếp diễn sau
đó, nghĩa là nền kinh tế tự nhiên và nửa tự nhiên sẽ còn bị phá hủy bằng bạo
lực ngay trong điều kiện CNTB đã phát triển, tùy theo sự chinh phục TBCN
đối với những vùng đất mới. Nhưng nếu vì thế mà nói, như Rô-da Luýchdăm-bua, rằng không có tích lũy ban đầu CNTB không tồn tại được, thì lại là
sai lầm. ở chương này chỉ nói về tích lũy ban đầu với tư cách là sự chuẩn bị

tiền đề cho tích lũy TBCN, chứ không nói về quá trình xảy ra song song với
tích lũy TBCN và nuôi dưỡng tích lũy TBCN. C.Mác viết: “Do đó cái gọi là
tích lũy ban đầu chẳng qua chỉ là quá trình lịch sử của việc tách người sản
xuất ra khỏi tư liệu sản xuất. Nó là “ban đầu” vì nó tạo thành tiền sử của tư
bản và của phương thức sản xuất phù hợp với tư bản” (sđd, tr.997).
Quyển II có tiêu đề “Quá trình lưu thông của tư bản”.
Cần phân biệt lưu thông giản đơn với lưu thông tư bản. Lưu thông
giản đơn đã được nghiên cứu trong quyển I, phần thứ nhất, đặc biệt là
chương III “tiền tệ hay lưu thông hàng hóa”.
Trong quá trình phát triển sản xuất đã cải tạo lưu thông giản đơn
thành lưu thông TBCN. Không phải hàng hóa lưu thông mà là tư bản –

11


hàng hóa lưu thông, trong đó có hàng hóa đặc biệt là hàng hóa - sức lao
động cũng lưu thông.
Chỉ sau khi đã làm sáng tỏ bản chất của tư bản, làm sáng tỏ sự sản
xuất và tái sản xuất ra tư bản, mới có thể đặt ra vấn đề lưu thông tư bản.
Vấn đề lưu thông tư bản cũng đã được đề cập trong phần thứ hai,
quyển I “sự chuyển hóa của tiền thành tư bản”, khi phân tích công thức
chung T - H - T’, nhưng trong quyển I đặc điểm của toàn bộ sự tuần hoàn
của tư bản và đặc điểm của giai đoạn thứ nhất T - H chỉ được nghiên cứu
trong mức độ cần thiết để hiểu được giai đoạn thứ hai, đó là quá trình sản
xuất của tư bản. Vì thế lúc đó chưa bàn đến các hình thái khác nhau của tư
bản trong các giai đoạn tuần hoàn khác nhau của nó, các hình thái khác nhau
mà tư bản lần lượt khoác lấy rồi lại trút bỏ đi trong khi lặp đi lặp lại tuần
hoàn của nó. Các hình thái ấy giờ đây là đối tượng nghiên cứu trực tiếp.
Tái sản xuất TBCN là sự thống nhất của quá trình sản xuất và quá trình
lưu thông, trong đó sản xuất giữa địa vị hàng đầu. Quyển I đã nghiên cứu một

mặt của thể thống nhất đó là quá trình sản xuất. Quyển II nghiên cứu mặt kia
tức là quá trình lưu thông. Vận dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học,
mỗi mặt được nghiên cứu trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau thường xuyên.
C.Mác đã chỉ rõ: Tư bản với tư cách là giá trị tự tăng lên không những
bao hàm các quan hệ giai cấp, bao hàm tính chất xã hội nhất định mà còn là
một sự vận động. Chỉ có thể hiểu tư bản là một sự vận động chứ không phải
là vật đứng im. Nhiệm vụ của quyển I là phát hiện các quan hệ giai cấp bị
che lấp đằng sau sự vận động đó. Còn nhiệm vụ của quyển II là vạch rõ đặc
điểm sự vận động đó, tức là quá trình tuần hoàn của tư bản mà trong đó các
quan hệ giai cấp biểu hiện ra.
Nếu như trong quyển I các giai đoạn lưu thông được nghiên cứu trong
mức độ cần thiết để hiểu quá trình sản xuất của tư bản, thì trong quyển II,
quá trình sản xuất của tư bản được nghiên cứu trong mức độ cần thiết để

12


hiểu quá trình lưu thông tư bản về mặt là quá trình thay thế lẫn nhau của các
hình thái tư bản. Sự vận động của tư bản không chỉ đóng khung ở giai đoạn
lưu thông (tư bản – tiền tệ biến thành tư bản – hàng hóa và tư bản – hàng
hóa biến thành tư bản – tiền tệ) mà còn bao gồm cả giai đoạn sản xuất, tức là
bao gồm toàn bộ tuần hoàn của tư bản.
Trong quyển II tư bản được nghiên cứu về mặt là một quá trình tuần
hoàn, vì thế ở đây gạt bỏ tất cả những nhân tố hoàn toàn không liên quan gì
đến bản thân sự thay đổi và cấu thành các hình thái tư bản (giả định hàng
hóa bán đúng giá trị và trong những điều kiện không thay đổi; cấu thành hữu
cơ tư bản của tất cả các tư bản cá biệt như nhau, tốc độ lưu thông như nhau
và không thay đổi trong suốt quá trình tuần hoàn…); chưa đặt ra vấn đề phân
phối GTTD, ở đây giả định mỗi nhà tư bản công nghiệp đều thu được toàn
bộ GTTD được tạo ra trong xí nghiệp của họ. Hơn nữa, vì trong quyển II chỉ

nghiên cứu sự tuần hoàn của tư bản (tư bản cá biệt và tư bản xã hội), nên
không cần tách lĩnh vực lưu thông khỏi lĩnh vực sản xuất, tức là không cần
chia tư bản thành tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp và tư bản cho
vay. Vì điều đó không liên quan gì đến bản thân sự thay đổi và cấu thành các
hình thái. Các tư bản cá biệt và tư bản xã hội nói chung, được trình bày dưới
dạng chung nhất, dưới dạng tư bản công nghiệp là một thể thống nhất, coi
như những nhà tư bản công nghiệp đảm nhiệm toàn bộ hoạt động kinh doanh
và chiếm đoạt toàn bộ GTTD của xã hội.
Nhưng khi nghiên cứu tuần hoàn của tư bản thì bản chất của GTTD bị
xuyên tác, bị che đậy, GTTD biểu hiện ra bên ngoài thành kết quả của cả sản
xuất và lưu thông, biểu hiện thành lợi nhuận. Trong quyển II chưa nghiên
cứu GTTD dưới hình thái chuyển hóa của nó là lợi nhuận, nhưng đã nêu lên
điều kiện cơ bản của sự chuyển hóa đó. Từ đó, nảy sinh những phạm trù mới
như tỷ suất GTTD hàng năm (M’). Tư bản về mặt là sự vận động đã che đậy
tư bản về mặt là quan hệ giai cấp khi GTTD biểu hiện ra là “con đẻ” của
không những tư bản sản xuất mà cả tư bản lưu thông.
13


Quyển II gồm có 3 phần. Phần thứ nhất “Những biến hoá hình thái
của tư bản và tuần hoàn của những biến hóa hình thái ấy”. Đối tượng nghiên
cứu của phần này là sự vận động của tư bản cá biệt. Trong sự vận động của
mình tư bản lần lượt “mang” những hình thái khác nhau (hình thái tiền, hình
thái sản xuất và hình thái hàng hóa) mà nó khoác lấy rồi lại trút bỏ đi trong
quá trình lặp lại sự tuần hoàn của nó. Nếu nó ngừng lại ở giai đoạn thứ nhất
T – H thì tư bản tiền tệ sẽ đọng lại thành tiền tích trữ; nếu ngừng lại ở giai
đoạn thứ hai (giai đoạn sản xuất) thì một bên là tư liệu sản xuất sẽ nằm ì ra
và một bên là sức lao động sẽ không có việc làm; nếu ngừng lại ở giai đoạn
cuối H’ – T’ thì hàng hóa bị chất đống không bán được sẽ làm nghẽn luồng
lưu thông. Mặt khác, bản thân tuần hoàn lại làm cho tư bản phải nằm lại ở

mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Bởi vì “bản thân sự
vận động là một mâu thuẫn: một vật trong cùng một lúc vừa ở cùng một chỗ
lại vừa không ở chỗ đó. Sự xuất hiện thường xuyên và việc giải quyết đồng
thời các mâu thuẫn đó - chính là sự vận động”.
Nhưng sự vận động của tư bản là sự vận động vòng tròn và liên tục,
những vòng tuần hoàn không ngừng nối tiếp nhau. Vì vậy, mỗi biến hóa hình
thái có thể là điểm bắt đầu, vừa là điểm giữa, vừa là điểm kết thúc. Thí dụ:
H’ – T’ có thể là điểm kết thúc của tuần hoàn của tư bản tiền tệ (T – T’), có
thể là giai đoạn thứ hai của tuần hoàn của tư bản sản xuất (SX – SX’), và có
thể là giai đoạn đầu của tuần hoàn của tư bản hàng hóa (H’ – H”). Do đó
không những có ba hình thái của tư bản mà còn có ba hình thái tuần hoàn
của tư bản.
Ngoài ra, các hình thái tư bản không những nối tiếp nhau mà còn tồn
tại bên cạnh nhau. Trong mỗi xí nghiệp TBCN, tư bản đồng thời vừa tồn tại
dưới hình thái tiền (trong két, trong tài khoản gửi ngân hàng), vừa dưới hình
thái sản xuất (công xưởng), vừa dưới hình thái hàng hóa (kho tàng). Tư bản
dưới hình thái nói trên đều đang ở trong trạng thái vận động, tức là đang
trong quá trình tuần hoàn của nó. Trong thực tế, mỗi tư bản công nghiệp
14


cá biệt đều đồng thời ở trong cả ba tuần hoàn. Tuần hoàn của tư bản, dù
ở dưới hình thức nào, bao giờ cũng vẫn là sự thống nhất của các mặt đối
lập, sự thống nhất của sản xuất và lưu thông. Thời gian tuần hoàn của tư
bản chia ra thành thời gian lưu thông và thời gian sản xuất. Độ dài của
thời gian sản xuất lại do một số nhân tố khác quyết định. Những chi phí
lưu thông cũng khác về nguyên tắc với những chi phí sản xuất. Do đó,
nội dung của phần này gồm: 1/ Các hình thái của tư bản; 2/ Các hình thái
tuần hoàn của tư bản; 3/ Thời gian lưu thông và thời gian sản xuất; 4/ Chi
phí lưu thông.

Phần thứ hai “Chu chuyển của tư bản”: tuần hoàn của tư bản được
coi là một quá trình định kỳ, chứ không phải là một hành vi riêng biệt thì
gọi là chu chuyển của tư bản.
Sự vận động của tư bản là sự vận động tuần hoàn, hơn nữa nó là sự
tuần hoàn được lặp đi lặp lại một cách định kỳ. Phần thứ nhất nghiên cứu
sự vận động của tư bản với tư cách là sự tuần hoàn, phần này sẽ nghiên
cứu sự vận động tuần hoàn ấy trong sự lặp đi lặp lại định kỳ của nó. Nói
cách khác, phần trước nghiên cứu về mặt chất, mặt hình thái của sự vận
động, phần này nghiên cứu về mặt lượng, mặt tốc độ và thời gian của sự
vận động đó, tức là tốc độ chu chuyển của tư bản.
Nhưng không phải mọi bộ phận của tư bản đều chu chuyển với tốc
độ như nhau, đều thực hiện những vòng chu chuyển trong những quãng
thời gian giống nhau. Do đó, đứng về mặt chu chuyển mà xét, tư bản
chia ra thành những bộ phận khác nhau có những tính quy định riêng và
đòi hỏi được nghiên cứu riêng. Điều đó dẫn đến sự phân biệt tư bản cố
định và tư bản lưu động.
Vấn đề tốc độ vận động của tư bản trở thành quan trọng khi
nghiên cứu chu chuyển của tư bản, vì hình thái tư bản này thay thế hình
thái tư bản kia càng nhanh (hay càng chậm) bao nhiêu thì vòng chu

15


chuyển này của tư bản sẽ nối tiếp vòng chu chuyển kia càng nhanh (hay
càng chậm) bấy nhiêu, và cần phải ứng trước cho từng vòng chu chuyển
một số tư bản càng ít (hay càng nhiều) bấy nhiêu. Nghiên cứu chu
chuyển của tư bản cũng bao hàm việc nghiên cứu những điều kiện vận
động liên tục của tư bản: Các vòng chu chuyển của tư bản không những
nối tiếp nhau mà còn xen kẽ nhau. Từ đó dẫn đến sự phân chia mới: tư
bản hoạt động và tư bản không hoạt động, vòng chu chuyển sau của tư

bản sở dĩ có thể bắt đầu khi vòng chu chuyển trước chưa kết thúc, vì đã
dự trữ được một số tư bản khác mà trước đó chưa hoạt động.
Tốc độ chu chuyển của tư bản có ảnh hưởng đến tư bản ứng trước,
một tư bản nhỏ quay vòng nhanh cũng ngang như một tư bản lớn quay
vòng chậm. Điều đó tạo nên sự khác nhau giữa tỷ suất giá trị thặng dư
thực tế và tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm, cũng như sự khác nhau giữa
lượng tư bản khả biến ứng trước và lượng tư bản khả biến hoạt động.
Cuối cùng tốc độ chu chuyển của tư bản ảnh hưởng đến sự lưu
thông của giá trị thặng dư.
Tóm lại, phần thứ hai này nghiên cứu: 1/ Khái niệm chu chuyển
của tư bản; 2/ Tư bản cố định và tư bản lưu động; 3/ Tốc độ chu chuyển
của tư bản (những nhân tố quyết định tốc độ chu chuyển: thời kỳ lao
động, thời gian sản xuất, thời gian lưu thông); 4/ ảnh hưởng của tốc độ
chu chuyển của tư bản đối với lượng tư bản ứng trước; và đối với sự lưu
thông của giá trị thặng dư; 5/ Tính đặc thù của sự vận động của tư bản
khả biến (chương XVI).
Phần thứ ba “Tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội”
gồm 4 chương, từ chương XVIII đến chương XXI. Trong chương XVIII
C.Mác xác định đối tượng nghiên cứu của phần này đồng thời bàn về vai
trò của tư bản tiền tệ.

16


Đối tượng nghiên cứu của phần này là “Tái sản xuất và lưu thông
của tổng tư bản xã hội”. Nhưng phải đề cập đến vai trò của tư bản tiền
tệ là vì có sản xuất hàng hoá thì ắt phải có lưu thông hàng hoá và lưu
thông tiền tệ. Sự vận động của tư bản từ đầu đến cuối đều lấy tư bản
dưới hình thái tiền tệ làm tiền đề. Bên cạnh tư bản đang hoạt động luôn
phải có tư bản “tiềm tàng” tồn tại dưới hình thái tiền tệ, bởi vì mua bán

hàng hoá - sức lao động bao giờ cũng phải trả bằng tiền mặt và lượng tư
bản tiền tệ đó phụ thuộc vào độ dài của thời kỳ lao động và thời kỳ lưu
thông. Không thể đánh giá quá cao vai trò tiền tệ như phái trọng thương
nhưng cũng không thể coi tiền tệ chỉ là phương tiện lưu thông đơn thuần
như A.Smith. Việc bố trí cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư liên quan mật
thiết đến khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông, liên quan đến cung
cầu trên thị trường tiền tệ. Đầu tư vào những công trình quy mô lớn, dài
hạn thường phải ứng vào lưu thông một khối lượng tiền lớn để hút sức
lao động và tư liệu sản xuất mà trong thời gian dài không cung ứng hàng
hoá vào lưu thông, nên không thu được tiền về. Bởi vậy những sự rối
loạn trên thị trường tiền tệ sẽ làm cho những doanh nghiệp ấy bị đình chỉ
hoạt động, còn về phía mình thì chính những doanh nghiệp ấy lại cũng
gây ra những rối loạn thêm trên thị trường tiền tệ.
Chương XIX nghiên cứu những quan niệm trước C.Mác về tái sản
xuất, đặc biệt là biểu kinh tế của F.Quesnay và phê phán giáo điều của
A.Smith lẫn lộn tư bản xã hội và thu nhập. Chương XX nghiên cứu tái sản
xuất giản đơn, chương XXI nghiên cứu tích luỹ và tái sản xuất mở rộng.
Trong Quyển I, (phần thứ 7) đã nghiên cứu tái sản xuất của một tư
bản cá biệt, nhưng ở đó “sự thay đổi hình thái và trao đổi chất mà tư bản
trải qua trong lĩnh vực lưu thông” chỉ được lấy làm tiền đề chứ chưa
nghiên cứu tỉ mỉ. Còn trong phần này “xét quá trình lưu thông của những

17


tư bản cá biệt với tư cách là những bộ phận cấu thành của tổng tư bản xã
hội, tức là xét quá trình lưu thông của tổng tư bản xã hội đó”.
Sự khác nhau giữa hai phần đầu và phần này không phải là ở đối
tượng nghiên cứu, mà là ở các mức độ trừu tượng hoá trong khi nghiên
cứu cùng một đối tượng, tức là phương thức sản xuất TBCN. Việc

chuyển từ tư bản cá biệt sang tư bản xã hội là đi từ trừu tượng đến cụ
thể, mặc dù bản thân sự nghiên cứu tái sản xuất và lưu thông của tổng tư
bản xã hội vẫn còn hết sức trừu tượng, vẫn dựa trên những giả thiết như
2 phần trước. (Hàng hoá bán theo giá trị; giá trị không thay đổi trong
suốt thời gian chu chuyển của tư bản, trong lưu thông chỉ có tiền kim
loại, cấu thành hữu cơ tư bản không thay đổi; xã hội chỉ gồm hai giai cấp
- công nhân và tư sản và thu nhập của xã hội chỉ gồm tiền công và giá trị
thặng dư) và còn thêm giả định không xét đến ngoại thương. Bởi vậy,
cần lưu ý khi vận dụng các nguyên lý trừu tượng về tái sản xuất tổng tư
bản xã hội vào thực tiễn, một khi những giả định trên thay đổi thì kết
luận cũng phải thay đổi thích hợp. (Thí dụ: V.I. Lênin đã tính đến sự thay
đổi của cấu tạo hữu cơ tư bản dưới tác động của tiến bộ kỹ thuật và rút
ra những kết luận mới. Đọc V.I. Lênin, toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ, M.
1974, tr 96 - 99).
Mặc dù đặc trưng cơ bản của CNTB là tái sản xuất mở rộng, trong
phần này tái sản xuất giản đơn lại được chú trọng nhiều hơn là tái sản xuất
mở rộng vì những khó khăn chủ yếu xuất hiện không phải trong khi nghiên
cứu tích luỹ mà trong khi nghiên cứu tái sản xuất giản đơn, (phê phán quan
điểm sai lầm của phái Dân tuý ở Nga và Rô-Da Luc-xăm-bua coi mọi khó
khăn của vấn đề chủ yếu là ở tái sản xuất mở rộng, ở sự thực hiện GTTD,
V.I. Lênin đã chỉ rõ “thực ra, điều khó khăn trong khi giải thích sự thực hiện
chính là giải thích sự thực hiện tư bản bất biến”. Sự thực hiện tư bản bất biến
đã được giải thích trong khi phân tích tái sản xuất giản đơn), ở đây nghiên

18


cứu hình thái TBCN của sự vận động sản phẩm xã hội và của sự tái sản xuất
sản phẩm xã hội, vạch ra sự vận động thống nhất của tổng tư bản xã hội
được hình thành như thế nào từ vô vàn sự vận động hỗn loạn của các tư bản

cá biệt độc lập với nhau về hình thức.Trọng tâm của vấn đề là phát hiện ra
tính qui luật che dấu đằng sau sự hỗn loạn đó. Trong tái sản xuất giản đơn
vấn đề nói trên được đặt ra dưới dạng thuần túy nhất. Một khi vấn đề đó đã
được giải quyết thì vấn đề tái sản xuất mở rộng cũng sẽ được làm sáng tỏ
một cách dễ dàng.
Quyển III “Toàn bộ quá trình sản xuất TBCN”
Quyển I nghiên cứu riêng các mặt của quá trình sản xuất với tư
cách là quá trình sản xuất trực tiếp. Quyển II nghiên cứu quá trình lưu
thông. Nhưng quá trình sản xuất TBCN, xét toàn bộ, là sự thống nhất
giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông. Quyển III không thể nào
lại cứ nói những điểm chung chung về sự thống nhất ấy nữa. Trái lại “cần
phải tìm ra và mô tả được những hình thái cụ thể đẻ ra từ quá trình vận
động của tư bản với tư cách là một chỉnh thể” “vậy những biến thể của
tư bản,… trình bày trong quyển này sẽ từng bước một tiến gần đến cái
hình thái mà chúng thể hiện ra ở bề mặt của xã hội, trong sự tác động
qua lại giữa các tư bản khác nhau, trong sự cạnh tranh và trong ý thức
thông thường của bản thân những nhân viên sản xuất” (C.Mác và
Ph.Ăngghen - toàn tập, tập 25 - phần I - Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật
1994 - tr 47, 48).
Về mặt phương pháp luận, cái quan trọng nhất trong Quyển III là
các hình thái chuyển hoá; chi phí sản xuất là hình thái chuyển hoá của
giá trị; lợi nhuận là hình thái chuyển hoá của giá trị thặng dư; tỷ suất lợi
nhuận là hình thái chuyển hoá của tỷ suất giá trị thặng dư. Từ những hình
thái chuyển hoá chung nhất và do đó, trừu tượng nhất ấy, C.Mác đã đi
đến những hình thái chuyển hoá riêng cụ thể hơn, như lợi nhuận bình

19


quân và giá cả sản xuất, lợi nhuận thương nghiệp, sự phân chia lợi nhuận

bình quân thành lợi tức và lợi nhuận doanh nghiệp, sự chuyển hoá lợi
nhuận siêu ngạch thành địa tô.
C.Mác nói rằng nếu những hình thức biểu hiện và bản chất của sự
vật trực tiếp nhất trí với nhau thì mọi khoa học đều trở nên thừa. Hiện
tượng thường xuyên tạc bản chất, như trên bề mặt xã hội tư bản biểu
hiện thành tiền đẻ ra tiền; về bản chất giá trị thặng dư được tạo ra trong
quá trình sản xuất, đó là một bộ phận giá trị mới sáng tạo dư ra ngoài bộ
phận giá trị bù lại giá trị sức lao động, và tỷ lệ thuận với tư bản khả biến,
nhưng ở bên ngoài nó lại biểu hiện thành lợi nhuận, thành “con đẻ” của
toàn bộ tư bản ứng trước và tỷ lệ thuận với toàn bộ tư bản ứng trước đó.
Cũng như vậy, về bản chất, hàng hoá và tiền tệ vốn là hình thái hàng hoá
và hình thái tiền tệ của tư bản công nghiệp, nhưng ở bề ngoài xã hội hàng
hoá và tiền tệ lại có đời sống độc lập và biểu hiện thành tư bản thương
nhân và tư bản cho vay, do đó lợi nhuận lại biểu hiện thành lợi nhuận
thương nghiệp và lợi tức và thu được từ lưu thông, chứ không phải từ
sản xuất.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu phương thức sản xuất TBCN không
thể chỉ dừng lại ở sự phân tích một cách trừu tượng quá trình sản xuất và
quá trình lưu thông mà còn phải nghiên cứu “sự vận động hiện thực”
trong đó “các tư bản đối diện với nhau dưới những hình thái cụ thể”. Đó
là nhiệm vụ của Quyển III, nhiệm vụ này chỉ có thể thực hiện trên cơ sở
kết quả nghiên cứu của Quyển I và Quyển II. “Sự vận động hiện thực của
tư bản” cũng được trình bày theo trình tự đi từ trừu tượng đến cụ thể thí dụ: giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận - lợi nhuận chuyển
hoá thành lợi nhuận bình quân - rồi lợi nhuận bình quân ở giai đoạn hình
thành (tức là có cả tư bản thương nhân tham gia vào quá trình bình quân
hoá lợi nhuận) và cuối cùng là những hình thái cụ thể nhất trong đời

20



thường: lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức và địa tô. Hay là từ tư bản công
nghiệp như là một thể thống nhất, do phân công lao động xã hội tách ra
tư bản thương nhân, tư bản cho vay, tư bản ngân hàng và tư bản kinh
doanh nông nghiệp.
Quyển III gồm 7 phần. Phần thứ nhất nghiên cứu bằng cách nào
và do đâu mà cái bản chất là giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư
biểu lộ ra bên ngoài dưới hình thái lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận. Hay
nói cách khác, nghiên cứu sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận
và tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận. Trong phần này lợi
nhuận vẫn được nghiên cứu một cách trừu tượng nhất, vẫn giả định như
trước (1/ Hàng hoá bán theo giá trị; 2/ Mỗi nhà tư bản công nghiệp vẫn
thu toàn bộ giá trị thặng dư đã sản xuất ra; 3/ Lưu thông chưa tách khỏi
sản xuất). Nhưng ở đây lợi nhuận cũng đã không nhất trí với bản chất
của nó là giá trị thặng dư rồi. Nhìn bề ngoài hao phí lao động thành chi
phí sản xuất, giá trị thặng dư được coi là “con đẻ” của toàn bộ tư bản
ứng trước vì nó được thu về từ lưu thông dưới dạng số tăng thêm ngoài
chi phí sản xuất. Chính vì vậy phần này bắt đầu nghiên cứu từ chi phí
sản xuất. Bước chuyển từ cái không nhìn thấy được đến cái trực tiếp lộ
ra bên ngoài ở các hiện tượng, được bắt đầu từ sự phân tích 3 phạm trù
của đời sống hàng ngày: chi phí sản xuất, lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
Nói cách khác, ở đây nghiên cứu ba sự chuyển hoá chung nhất: hao phí
lao động chuyển hoá thành chi phí tư bản, sự chiếm đoạt lao động thặng
dư thành sự lớn lên của tư bản, và mức độ bóc lột thành mức độ tăng lên
của tư bản.
Phần thứ nhất gồm 7 chương. Trong chương I, mới thoạt nhìn
dường như có 2 đối tượng nghiên cứu là chi phí sản xuất và lợi nhuận.
Nhưng thực ra chỉ là một, vì chi phí sản xuất là một bộ phận của giá cả
(bằng giá trị) của hàng hoá mà nhà tư bản bán sản phẩm của họ, nên bộ

21



phận còn lại là số tăng thêm ngoài “giá thành”, được gọi là lợi nhuận.
Như vậy, bản thân việc qui giá trị hàng hoá thành chi phí sản xuất cũng
bao hàm việc qui giá trị thặng dư thành lợi nhuận. Nói đúng ra, chương I
này chưa nghiên cứu bản thân sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi
nhuận mà mới đặt cơ sở chung nhất cho sự chuyển hoá ấy. Bản thân sự
chuyển hoá ấy được nghiên cứu ở chương II “Tỷ suất lợi nhuận”; vì sự
chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận chỉ có thể rút ra một cách
đầy đủ từ sự chuyển hoá tỷ ruất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận.
Còn trong chương III và chương IV tỷ suất lợi nhuận được nghiên cứu về
mặt lượng. Tỷ suất lợi nhuận khác với tỷ suất giá trị thặng dư cả về chất
và về lượng; nó có qui luật vận động - tăng lên, giảm xuống - riêng của
nó. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận được phân tích cụ thể
trong chương IV, chương V, chương VI (tốc độ chu chuyển, sự tiết kiệm
trong việc sử dụng tư bản bất biến, và sự biến động của giá cả). Và
chương VII “Những nhận xét bổ sung”, trở lại chủ đề của toàn phần, tóm
tắt lại vấn đề: vì sao giá trị thặng dư chuyển hoá thành lợi nhuận và tỷ
suất giá trị thặng dư chuyển hoá thành tỷ suất lợi nhuận.
Phần thứ hai nghiên cứu sự chuyển hoá lợi nhuận thành lợi nhuận
bình quân. Khi phân tích sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận
chỉ cần xét sự vận động của tư bản cá biệt là đủ. Trong phần này, để vạch
ra được những nhân tố chuyển hoá lợi nhuận thành lợi nhuận bình quân
phải nghiên cứu tư bản xã hội. Nhiệm vụ của phần này tiếp nối phần thứ
ba của Quyển II trong đó đã nêu lên điều kiện vận động của tư bản xã
hội trên cơ sở giả định rằng hàng hoá bán theo giá trị và cấu thành hữu
cơ tư bản của các tư bản cá biệt bằng nhau. Còn ở phần này, tư bản xã
hội được nghiên cứu trong sự vận động cụ thể hơn; 1/ Với tư cách là tổng
thể những tư bản cá biệt có cấu thành hữu cơ khác nhau; 2/ Với tư cách
là tổng thể những tư bản cá biệt tác động lẫn nhau, tức là trong cuộc


22


cạnh tranh không ngừng của chúng, dẫn đến sự khác nhau về lượng giữa
giá trị thặng dư và lợi nhuận.
Trong mức độ chuyển hoá thứ nhất của giá trị ở các chương trước
ta thấy giá trị hàng hoá sản xuất theo lối TBCN biểu hiện ra ngoài xã hội,
trong giá cả thành tổng số chi phí sản xuất + lợi nhuận, ở đó về lượng giá
cả vẫn bằng giá trị, nhưng về chất đã khác nhau. Còn trong phần này ở
mức độ chuyển hoá thứ hai: lợi nhuận thành lợi nhuận bình quân, và giá
trị của hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất thì cả về mặt lượng giá
cả sản xuất cũng thường cao hơn hay thấp hơn giá trị của hàng hoá.
Phần thứ hai gồm 5 chương (từ chương VIII đến chương XII)
Chương VIII phân tích ảnh hưởng của những sự khác nhau về cấu
thành hữu cơ tư bản, về tốc độ chu chuyển tư bản giữa các tư bản kinh
doanh trong các ngành sản xuất khác nhau đối với tỷ suất lợi nhuận.
Trọng tâm của chương này là phát hiện mâu thuẫn sau đây: Những tư bản
khác nhau có cùng một lượng như nhau, nhưng có cấu thành hữu cơ và
tốc độ lưu thông khác nhau thì phải có những tỷ suất lợi nhuận khác
nhau. Điều này ngược với xu hướng của phương thức sản xuất TBCN là
những tư bản bằng nhau mang lại tỷ suất lợi nhuận bằng nhau, bất kể cấu
thành hữu cơ tư bản như thế nào. Như vậy, chương VIII đặt ra vấn đề cơ
bản phải giải quyết trong cả phần hai.
Chương IX vạch rõ tỷ suất lợi nhuận chung được hình thành như
thế nào, ở đây các ngành sản xuất khác nhau được xem như là những bộ
phận của một nền kinh tế thống nhất và các tỷ suất lợi nhuận khác nhau
hợp lại thành một tỷ suất lợi nhuận chung, thống nhất, đồng thời chứng
minh rằng giá cả sản xuất và giá trị không giống nhau cả về chất và về
lượng, chỉ trừ những hàng hoá của những tư bản có cấu thành hữu cơ

ngang với cấu thành hữu cơ trung bình của tổng tư bản xã hội thì giá cả
sản xuất mới bằng giá trị. Như vậy, giá cả sản xuất là hình thái chuyển
23


hoá của giá trị, còn giá trị chỉ có thể biểu hiện ở giá cả sản xuất; và giá
cả thị trường lên xuống xoay quanh giá cả sản xuất, chứ không phải xoay
quanh giá trị.
Tuy nhiên chương IX chưa vạch ra được cái cơ chế qui giá trị
thành giá cả sản xuất. Cơ chế đó là cạnh tranh, bao gồm cạnh tranh trong
nội bộ từng ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau. C.Mác viết:
“Điều mà cạnh tranh thực hiện được, và hơn nữa, thực hiện được trước
hết trong một khu vực sản xuất là: từ những giá trị cá biệt khác nhau của
các hàng hoá lập ra một giá trị thị trường và một giá cả thị trường như
nhau. Nhưng chỉ có sự cạnh tranh của những tư bản giữa các ngành khác
nhau mới tạo nên giá cả sản xuất, giá cả này san bằng các tỷ suất lợi
nhuận của các ngành khác nhau” (Sđd, tr 274 - 275). Chương X nghiên
cứu cả hai loại cạnh tranh, nhưng tập trung vào làm rõ loại cạnh tranh
thứ nhất, vì phân tích sự cạnh tranh trong nội bộ ngành là chìa khoá để
hiểu cả sự cạnh tranh giữa các ngành; vả lại, C.Mác không chủ tâm
nghiên cứu bản thân cạnh tranh mà quan tâm những hình thái do tác
động của cạnh tranh mang lại. Hơn nữa, giá cả sản xuất là kết quả của sự
cạnh tranh giữa các ngành đã được trình bày toàn diện ở chương IX.
Về thực chất, khi phân tích giá trị thị trường C.Mác đã trở lại với
việc nghiên cứu ở chương I, QI. ở đây đem áp dụng những điều đã nói về
một hàng hoá để xét lượng giá trị thị trường (giá trị xã hội) của khối
lượng hàng hoá của cả một ngành được đưa ra thị trường. Như vậy, khái
niệm giá trị thị trường cụ thể hơn khái niệm giá trị của từng hàng hoá với
tư cách là “hình thái nguyên tố của của cải” trong xã hội do phương thức
sản xuất TBCN chi phối, vì nó gắn với sự biến động của quan hệ cung

cầu và cạnh tranh.
Trong hai chương còn lại (XI và XII) “ảnh hưởng của những sự lên
xuống phổ biến của tiền công đối với giá cả sản xuất” và “Những nhận

24


xét bổ sung” dẫn ra những chi tiết bổ sung cho sự nghiên cứu ở các
chương trước.
Phần thứ ba vạch ra qui luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
xuống. Nếu hai phần trước đã nghiên cứu thực chất của tỷ suất lợi nhuận,
phương thức hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, thì phần này nêu lên
những xu hướng của tỷ suất lợi nhuận đã xác lập đối với tất cả các ngành sản
xuất. Mặt khác, phần này có liên quan đến phần thứ bảy của quyển I về quy
luật chung của tích lũy tư bản. Trong phần này, C.Mác không chỉ giải thích
một thực tế là tỷ suất lợi nhuận giảm xuống mà còn nói rõ thêm những mâu
thuẫn của sản xuất TBCN. Nếu đối với giai cấp công nhân tích lũy tư bản tạo
ra nạn nhân khẩu thừa và nạn bần cùng hóa thì đối với giai cấp tư sản tích
lũy tư bản làm nảy sinh quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống
và tạo ra tư bản “thừa” (tương đối) do không tìm đực nơi đầu tư có lợi
nhuận bình thường trong các ngành hiện có.
Quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống cũng là một trong
những yếu tố quyết định trầm trọng thêm khủng hoảng kinh tế chu kỳ. Vì
vậy, ở đây C.Mác cũng đề cập đến khủng hoảng kinh tế chu kỳ, và chỉ rõ
quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống nói lên giới hạn khách
quan về mặt lịch sử của phương thức sản xuất TBCN; tư bản thừa đi đôi với
nhân khẩu thừa; biểu hiện mâu thuẫn đã trở nên gay gắt giữa lực lượng sản
xuất xã hội hóa với quan hệ sản xuất TBCN. Đó là trung tâm của phần này.
Phần này gồm ba chương: chương XIII nghiên cứu “Bản thân quy
luật”, vạch ra bản chất của quy luật nói trên dưới hình thái chung nhất với tư

cách là biểu hiện chung nhất của quy luật chung của tích lũy tư bản trong
lĩnh vực lợi nhuận và giả cả. Chương XIV nghiên cứu những tác động ngược
lại làm cho quy luật trở thành quy luật chung mang tính xu hướng, giải thích
vì sao sự giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận không diễn ra liên tục. Chương
XV “Sự phát triển của các mâu thuẫn bên trong của quy luật” nêu lên những

25


×