Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH xã hội đối với CÔNG NHÂN các KHU CÔNG NGHIỆP ở TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 105 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

3

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI
CÔNG NHÂN Ở CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH
ĐỒNG NAI

11

1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách xã hội và thực hiện
chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu công
nghiệp tỉnh Đồng Nai
1.2. Thực trạng thực hiện chính sách xã hội đối với công

11

nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay Nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra

Chương YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THỰC HIỆN

26

2. CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN Ở
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH ĐỒNG NAI HIỆN
NAY


52

2.1. Yêu cầu thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân
ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay

52

2.2. Giải pháp cơ bản thực hiện chính sách xã hội đối với công
nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

61
82
85
91

2


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chính sách xã hội là chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội của
đời sống con người. Đầu tư cho xã hội thông qua các chính sách xã hội là đầu
tư cho sự phát triển, trước hết là phát triển kinh tế, cùng với phát triển kinh tế
là phát triển xã hội để phát triển con người. Từ nhận thức đó, càng thấy rõ
chính sách xã hội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động
tổ chức, điều hành và quản lý xã hội, trong việc giải quyết các vấn đề bức

bách của xã hội hiện nay.
Thực hiện chính sách xã hội là chủ trương, nhiệm vụ lớn của Đảng và
Nhà nước, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội, thể
hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta và có ý nghĩa quan trọng đối với ổn định
chính trị - xã hội và phát triển bền vững của đất nước. Trong đó, chính sách xã
hội ở nước ta đã cơ bản giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích
của công nhân. Việc đầu tư xây dựng giai cấp công nhân, bằng cách nâng cao
hiệu quả việc thực hiện các chính sách xã hội đặc thù đối với giai cấp công
nhân phải được coi là đầu tư cho con người, đầu tư cho chiều sâu, đầu tư cho
phát triển.
Hiện nay, Đồng Nai là một trong những tỉnh đi đầu trong chủ trương phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước và được coi là “bản lề chiến
lược” của các tỉnh phía Nam. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của
cả nước, tỉnh Đồng Nai đã có những chính sách ưu đãi, khuyến khích hợp lý nên
đã thu hút được nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư. Tình hình kinh
tế - xã hội của tỉnh phát triển mạnh mẽ, trong đó đội ngũ công nhân tăng nhanh
cả về số lượng và chất lượng. Đây là lực lượng quan trọng đưa nền kinh tế của
tỉnh phát triển mạnh mẽ, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của tỉnh
nói riêng, đất nước nói chung. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm là cơ bản song ở
các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai việc thực hiện chính sách xã
hội vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu kém còn kéo dài, chậm được khắc
3


phục như: tạo việc làm và giảm nghèo cho công nhân chưa bền vững; chăm
sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của người lao động; tỷ lệ người
tham gia bảo hiểm còn thấp; đời sống tinh thần, dân chủ của công nhân chưa
được quan tâm đúng mức; chưa bảo đảm được mức sống tối thiểu nhất là về
nhà ở, trường học, bệnh viện và sử dụng nước sạch... còn nhiều khó khăn.
Mặt khác, do ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường, đã tác

động đến quá trình thực hiện chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân
nói chung, công nhân tỉnh Đồng Nai nói riêng. Đây cũng chính là một
trong những thực trạng để các cấp lãnh đạo và doanh nhân tỉnh Đồng Nai
quan tâm, đề ra chủ trương, chính sách đúng đắn nhằm xây dựng đội ngũ
công nhân đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
tỉnh Đồng Nai nói riêng và đất nước nói chung.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Thực hiện chính sách xã hội
đối với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay” là vấn đề
có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm rõ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
* Nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về chính sách xã hội
Nguyễn Văn Nhớn (1996), Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với
việc nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Luận án Tiến sĩ Triết học, Viện
nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú (1999), Khung chính sách xã hội trong
quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, Nxb Thống kê, Hà Nội.
Bùi Đình Thành (2000), Xã hội học và chính sách xã hội, Nxb Khoa học,
Hà Nội.
Phạm Xuân Nam (2001), Quản lý sự phát triển xã hội theo nguyên tắc
tiến bộ và công bằng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4


Bùi Thế Cường (2002), Chính sách xã hội và công tác xã hội ở Việt
Nam thâp niên 90, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Thanh (2004), “Vai trò của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân
trong thực hiện chính sách xã hội”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số (6).
Nguyễn Thế Thắng (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội

nhìn từ góc độ xã hội học, Nxb Lao Động, Hà Nội.
Mai Ngọc Cường (2009), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách
an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Phạm Xuân Hảo (2012), “An sinh xã hội - nội dung quan trọng trong
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Tạp chí
Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số (1).
Mai Ngọc Cường (2013), Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nội dung các công trình khoa học trên đã luận giải làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách xã hội. Các tác giả đưa ra quan niệm
về chính sách xã hội, vai trò của chính sách xã hội, mục tiêu, quan điểm, chủ
thể, nhiệm vụ và giải pháp của chính sách xã hội ở nước ta. Những công trình
nghiên cứu trên liên quan đến hướng luận văn của tác giả, nên tác giả xem
đây là nguồn tài liệu phong phú, hữu ích để làm cơ sở nghiên cứu và kế thừa
trong quá trình viết luận văn của bản thân.
* Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách xã hội đối với giai cấp
công nhân
Bùi Đình Thành, “Chính sách xã hội đối với công nhân từ góc nhìn xã
hội học” [62], tác giả đã giới thiệu đề tài về chính sách xã hội đối với giai cấp
công nhân trong đời sống kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tác
giả đã đặt ra và trả lời 6 câu hỏi thuộc nội dung chính sách xã hội đối với
công nhân đó là: 1. Đảm bảo cho công nhân có việc làm; 2. Chế độ tiền
lương, tiền thưởng; 3. Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho công nhân

5


(được chú trọng vấn đề nhà ở); 4. Bảo đảm dịch vụ nhằm giảm nhẹ cho công
nhân trong việc nội trợ gia đình (đặc biệt là nữ công nhân); 5. Bồi dưỡng văn
hóa, chuyên môn, kỹ thuật cho công nhân; 6. Đào tạo năng lực quản lý cho

những người kế cận lãnh đạo, quản lý (chú trọng đến công nhân).
Tiếp cận, Chính sách xã hội nhằm phát huy nguồn lực giai cấp công
nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
[72], tác giả Trương Tư cho rằng: Chính sách xã hội đem lại cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động sự phát triển và tiến bộ không ngừng, một
cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng phong phú. Chính sách xã hội
cũng là công cụ quan trọng trong việc xây dựng, bảo vệ và phát triển những
giá trị chuẩn mực xã hội, phù hợp với bản chất của chế độ chính trị và bản
sắc dân tộc, hướng tới chân - thiện - mỹ.
Nghiên cứu về, Tác động của chính sách xã hội tới đời sống nữ công nhân
lao động trong các doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội [52], tác giả
Hoàng Thị Nga cho rằng: Chính sách xã hội đối với nữ công nhân lao động
không chỉ là sản phẩm phản ánh lợi ích và nguyện vọng của nữ công nhân lao
động mà nó còn đụng chạm tới quyền lợi của công nhân lao động và toàn xã hội.
Chính sách xã hội nhằm tạo điều kiện cho nữ công nhân lao động phát triển
năng lực của mình trong lao động sản xuất, đảm bảo công bằng xã hội và bình
đẳng giữa phụ nữ và nam giới.
Phạm Phương Lan, “Về chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân
trong giai đoạn hiện nay” [38], nội dung bài viết đề cập đến vấn đề Việt
Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá
trình này đã làm nảy sinh những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống
của công nhân như: thất nghiệp, khó khăn về nhà ở, bệnh tật; thu nhập
thấp, đời sống tinh thần thiếu thốn; chính sách an sinh xã hội không được
hưởng thụ. Việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội đối với

6


công nhân nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tạo động lực cho
công nhân gắn bó lâu dài với nghề đã lựa chọn là yêu cầu cấp thiết.

* Nhóm công trình nghiên cứu chính sách xã hội đối với công nhân tỉnh
Đồng Nai
Đinh Thị Thủy Bình, Thực hiện an sinh xã hội cho công nhân nữ ở các
khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay [5]. Tác giả cho rằng: Với xu thế mở
cửa, hội nhập quốc tế khá sâu, rộng của đất nước, cùng với những cơ chế,
chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Đồng Nai, các khu công nghiệp ở
địa phương có sự phát triển, quan tâm, thực hiện an sinh xã hội cho công nhân
các khu công nghiệp, nhất là công nhân nữ ngày càng tốt hơn. Mục đích của
thực hiện an sinh xã hội cho công nhân nữ là tạo sự ổn định việc làm, đời
sống, thu nhập cho mọi công nhân nữ ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Phạm Văn Quốc, “Đảm bảo đời sống cho người lao động tại các khu
công nghiệp Đồng Nai, thực trạng và giải pháp” [60]. Tác giả đã đánh giá
thực trạng sự tác động của các khu công nghiệp đến đời sống của công nhân ở
các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai. Đưa ra các giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao đời sống cho công nhân các khu công nghiệp của tỉnh nhằm mục tiêu phát
triển kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Những công trình khoa học đã đề cập trên những góc độ khác nhau cả về
phương diện lý luận và thực tiễn trong thực hiện chính sách xã hội nói chung và
chính sách xã hội đối với giai cấp công nói riêng. Tập trung vào những nội
dung sau: Chính sách xã hội là một trong những điểm mấu chốt, góp phần bảo
đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển và
giữ vững ổn định chính trị - xã hội; đã đặt ra một số vấn đề về chính sách xã
hội đối với giai cấp công nhân cần phải giải quyết; đưa ra một số giải pháp
thực hiện chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Tuy nhiên, chưa có công
7


trình nào nghiên cứu một cách độc lập, chuyên sâu và có tính hệ thống về

chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai
hiện nay. Do vậy, đề tài mà tác giả lựa chọn là vấn đề mới, không trùng lặp
với các công trình nghiên cứu có liên quan.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn về thực hiện chính
sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai; trên cơ
sở đó, đề xuất yêu cầu và một số giải pháp cơ bản để thực hiện tốt chính
sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện
nay; góp phần xây dựng giai cấp công nhân xứng đáng là giai cấp lãnh đạo
cách mạng là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
* Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận về chính sách xã hội và thực hiện chính
sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai.
Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở
các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, chỉ ra nguyên nhân của thực trạng đó và
một số vấn đề đặt ra.
Đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản thực hiện chính sách xã hội đối với
công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh
Đồng Nai hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách xã hội đối với
công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai trên các nội dung cơ bản
8



sau: chính sách về việc làm, chính sách về tiền lương, chính sách về nâng
cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần, chính sách về bảo hiểm xã hội,
chính sách trợ giúp xã hội...
Qua khảo sát ở một số khu công nghiệp như: Khu công nghiệp Biên Hòa
1, Khu công nghiệp Biên Hòa 2, Khu công nghiệp Tam Phước... Thời gian
khảo sát từ năm 2011 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người dưới
chủ nghĩa xã hội; Chính sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội; Đường lối, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
và chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Cơ sở thực tiễn
Đề tài dựa vào thực tiễn thực hiện chính sách xã hội đối với công
nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai từ năm 2011 đến nay; Báo cáo
tổng kết, đánh giá của tỉnh, khu công nghiệp; Công trình nghiên cứu của
các tác giả có liên quan đến đề tài luận văn và kết quả điều tra, khảo sát của
tác giả về tình hình thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, sử dụng các phương pháp
lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học và phương pháp
chuyên gia... để thực hiện các nhiệm vụ của đề tài đặt ra.
6. Ý nghĩa của đề tài

9



Đề tài góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất một
số giải pháp thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu công
nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay. Góp phần đưa ra những cơ sở khoa học để các
cấp lãnh đạo, quản lý ở tỉnh Đồng Nai tham khảo, vận dụng trong lãnh đạo,
chỉ đạo và đưa ra những quyết sách nhằm xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh
Đồng Nai vững mạnh, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng
dạy một số chủ đề của các bộ môn có liên quan.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục.

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN Ở CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH ĐỒNG NAI

1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách xã hội và
thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các
khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai
1.1.1. Chính sách xã hội và chính sách xã hội đối với giai cấp công
nhân Việt Nam
* Chính sách xã hội
Vào thế kỷ XIX cuộc cách mạng công nghiệp đã đưa đến sự thay đổi
lớn lao trong xã hội. Cuộc cách mạng công nghiệp đó, một mặt đem lại

những tiến bộ kinh tế và xã hội, mặt khác gây ra vô vàn những vấn đề xã
hội đã làm chấn động xã hội tây Âu lúc bấy giờ như: sự bùng nổ dân số,
nghèo đói, tội ác, thất nghiệp và tệ nạn xã hội gia tăng... sự biến đổi đó đã
làm cho con người trở nên mất tự tin, cảm thấy không an toàn, một tâm thế
thiên về bi quan phó mặc cho số phận. Cùng với những yếu tố trên, một
vấn đề bao trùm nhất trong xã hội tây Âu lúc bấy giờ là vấn đề công nhân.
Trong hoàn cảnh thực tế lúc bấy giờ có rất nhiều nhà trí thức tây Âu đã
nghiên cứu và tranh luận xung quanh cái gọi là “vấn đề xã hội”. Trước tình
hình đó, xã hội nảy sinh một yêu cầu cấp thiết cần phải có những chính
sách xã hội nhằm giải quyết những vấn đề xã hội đang nảy sinh, từ đó chính
sách xã hội ra đời.
Vào thời điểm đó, tuy C.Mác và Ph.Ănghen chưa đưa ra một quan
điểm hoàn chỉnh về chính sách xã hội, nhưng trong tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ănghen, đặc biệt là lý luận của các ông về xã hội, xã hội chủ nghĩa đã thể
hiện đậm nét quyền con người, tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Theo C.Mác Ph.Ănghen, xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình
11


thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người và người
làm nền tảng, xã hội biểu hiện những mối liên hệ và những quan hệ của các cá
nhân, “Là sản phẩm của tác động qua lại giữa những con người” [46, tr.125].
Mục đích là xóa bỏ chế độ tư hữu đó chính là xóa bỏ sự áp bức bóc lột, bất
công của chế độ người bóc lột người; xây dựng xã hội ấm no, tự do, hạnh
phúc, một xã hội mà “Nguyên tắc cơ bản là mọi cá nhân đều được phát triển
đầy đủ và tự do” [45, tr.835]. Đây là cơ sở lý luận để xác định mục tiêu cơ
bản của chính sách xã hội là vì con người.
Kề thừa những quan điểm của C.Mác và Ph.Ănghen về mô hình xây
dựng chủ nghĩa xã hội để tiến tới đảm bảo xã hội và tiến tới xã hội. V.I.Lênin
đã khái quát tầm quan trọng của chính sách xã hội đối với con người: “Không
những chỉ để thỏa mãn nhu cầu của các thành viên mà còn để đảm bảo phúc

lọi đầy đủ và sự phát triển tự do toàn diện của tất cả các thành viên trong xã
hội” [39, tr.293]. Trong đó, con người là yếu tố năng động, quyết định cho sự
phát triển của lực lượng sản xuất, đây chính là cội nguồn của động lực cách
mạng thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Cho đến nay, dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, do đó có nhiều
quan niệm khác nhau về chính sách xã hội. Vì vậy, chúng ta không nên và
không thể tìm ra một khái niệm tối hậu, bất biến về chính sách xã hội cũng
như tìm kiếm sự thống nhất tuyệt đối khái niệm chính sách xã hội. Điều quan
trọng là chúng ta xem xét quan niệm về chính sách xã hội trong hoàn cảnh
lịch sử của nó:
Theo quan niệm của các nhà quản lý: Chính sách xã hội là sự cụ thể
hóa và thể chế hóa đường lối, chủ trương giải quyết các vấn đề xã hội dựa
trên những tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo phù hợp với bản chất
chế độ chính trị - xã hội, phản ánh lợi ích và trách nhiệm của nhóm cộng đồng
nói chung và của từng nhóm xã hội nói riêng nhằm phát triển con người,

12


hướng tới mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng về
đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân.
Quan niệm này cho rằng, chính sách xã hội là chính sách của một nhà nước
nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. Tức là, giải quyết các vấn đề phát sinh từ các
quan hệ xã hội, liên quan đến lợi ích và sự phát triển con người, cộng đồng dân
cư, đó là những vấn đề có ý nghĩa chính trị cốt lõi của mỗi quốc gia. Do đó, chính
sách xã hội phải dựa trên tư tưởng, quan điểm của chủ thể lãnh đạo, đồng thời các
quan điểm, chủ trương đó được thể chế hoá để tác động vào các quan hệ xã hội
nhằm giải quyết những vấn đề xã hội, góp phần thực hiện công bằng, tiến bộ và
phát triển con người. Chính sách xã hội là tổng hợp các phương thức, các biện
pháp của nhà nước, nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân

dân, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị, góp phần
thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước.
Các quan hệ xã hội và các vấn đề xã hội rất rộng lớn, liên quan đến mọi
mặt của cuộc sống con người và các cộng đồng dân cư. Thuật ngữ chính sách
xã hội chỉ là thuật ngữ chung, bao trùm cho tất cả các chính sách xã hội cụ
thể. Vì vậy, khi đề cập đến nội hàm chính sách xã hội là đề cập đến một số
chính sách xã hội cụ thể như: chính sách giáo dục - đào tạo, chính sách việc
làm, chính sách bảo hiểm xã hội... Mặt khác, trong một chính sách xã hội cụ
thể lại bao gồm các chính sách xã hội cơ bản nhằm giải quyết các mặt, các
khía cạnh của vấn đề xã hội. Ví dụ, trong chính sách việc làm bao gồm các
chính sách: cho vay vốn tạo việc làm, chính sách thị trường lao động, chính
sách đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài... Mỗi chính sách xã
hội cụ thể có mục tiêu riêng. Tuy nhiên, mục tiêu bao trùm của chính sách xã hội là
thiết lập sự công bằng, trật tự an toàn xã hội, ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
Dưới góc độ chính trị - xã hội, trong từ điển Chủ nghĩa Cộng sản khoa
học định nghĩa: "Chính sách xã hội - bộ phận cấu thành chính sách chung của một
chính đảng hay một chính quyền nhà nước nhất định, nó bao gồm việc giải quyết
13


một phạm vi ít nhiều rộng rãi các vấn đề xã hội phù hợp với thực chất giai cấp và
những mục tiêu hoạt động của đảng đó, chính quyền nhà nước đó” [73, tr.44].
Qua khái niệm trên cho chúng ta thấy, chính sách xã hội là một bộ phận
cấu thành chính sách chung của Đảng và Nhà nước cầm quyền. Các chính
sách xã hội phải tuân thủ các qui định của pháp luật hiện hành. Chính sách xã
hội đề cập đến sự phát triển các quan hệ xã hội với tư cách là quan hệ giai
cấp, tầng lớp, các nhóm xã hội trong quá trình phát triển. Và mục tiêu cuối
cùng có tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa cộng sản là: “Đảm bảo phúc lợi
đầy đủ và sự phát triển tự do và toàn diện của tất cả các thành viên trong xã
hội” [20, tr.293].

Ở nước ta, thuật ngữ chính sách xã hội lần đầu tiên được chính thức sử
dụng trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986). Cho đến nay, khái niệm
chính sách xã hội ở nước ta được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Xuất phát từ
hoạt động thực tiễn của con người Việt Nam đang quá độ từ một cơ cấu xã hội
mang màu sắc “phương thức sản xuất châu Á”, chuyển sang một cơ chế dân chủ kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước, xem xét khái niệm chính sách xã
hội trong sự tác động của các loại hình vận động khác nhau của xã hội, như công
nghệ, kinh tế, xã hội, chính trị, tinh thần vào xã hội như một chỉnh thể.
Chính sách xã hội ở Việt Nam là: Sự cụ thể hóa, thể chế hóa bằng pháp luật
những chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và
các tổ chức chính trị - xã hội khác, nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh
thần ngày càng tăng của nhân dân, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội trong thời kỳ quá độ, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ công bằng, văn minh.
Qua khái niệm, cho thấy chính sách xã hội ở Việt Nam được tổ chức
và hoạt động thông qua một hệ thống nhất quán các biện pháp và phương
pháp tuân theo nguyên tắc chung của chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng tính
đến sự khác biệt xã hội giữa các giai cấp, giai tầng, những nhóm xã hội do
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Chính sách xã hội ở Việt Nam
14


nhằm phát huy nhân tố con người Việt Nam trên cơ sở đảm bảo quyền bình
đẳng, công bằng xã hội.
Phướng hướng, nhiệm vụ chính sách xã hội ở nước ta, Đại hội lần thứ VI
của Đảng ta đánh dấu một bước chuyển biến căn bản trong nhận thức và thực
hiện chính sách xã hội ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp
tục tinh thần đổi mới đó, Đại hội lần thứ VII của Đảng đã vạch ra phương hướng
chính sách xã hội ở nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất bước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội đã xác định: “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là:
Phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền

lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; giữa
đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng nhu cầu trước mắt và chăm
lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội” [21, tr.13].
Năm 2012 Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành
một nghị quyết chuyên đề về “Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 2020” trong đó rút ra các bài học kinh nghiệm, một trong các bài học kinh nghiệm
đó là: Thực hiện tốt chính sách xã hội là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh
và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Đến năm 2020, cơ bản đảm bảo an
sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở,
nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, đảm
bảo cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển quan điểm của các kỳ Đại hội
trước. Đại hội XII Đảng ta khẳng định: “Xây dựng và thực hiện các
chính sách phù hợp với các giai tầng xã hội, có các giải pháp quản lý
hiệu quả để giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, ngăn chặn, giải quyết
những vấn đề xã hội bức xúc, những mâu thuẫn có thể dẫn đến xung đột
xã hội” [26, tr.135]. Vì vậy, đề ra và thực hiện nhất quán chính sách xã
hội phù hợp là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Là điều
kiện cơ bản đảm bảo sự công bằng và thống nhất của xã hội, đảm bảo sự
15


ổn định về chính trị, là điều kiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng và phát triển toàn diện con người mới xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện phương hướng trên, nhiệm vụ chủ yếu của chính sách xã
hội phải tập trung vào: tạo cho quần chúng lao động những điều kiện sống,
điều kiện lao động, điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hóa, chính trị và xã hội
ngày càng tốt hơn; hình thành những nhu cầu của con người theo những tiêu
chuẩn hợp lý, tạo ra những định hướng đúng cho hoạt động của con người,
khiến họ phát huy tối đa tính tích cực trong lao động, trong hoạt động xã hội,
hoạt động chính trị nhằm phục vụ xã hội, xây dựng và phát triển lối sống xã

hội chủ nghĩa; điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa các giai cấp, các tầng lớp
và các nhóm xã hội nhằm không ngừng phát triển, hoàn thiện cơ cấu xã hội giai cấp xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chính sách xã hội được xác định là động lực phát triển và nói lên bản chất
của xã hội ta. Áp dụng một “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người
là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội” [20, tr.86] chính là điều kiện đảm bảo sự thành công
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước, tác
giả quan niệm: Chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay là bộ phận cấu thành
chính sách chung của Đảng, Nhà nước hướng tới lĩnh vực xã hội, nhằm giải
quyết vấn đề liên quan đến cuộc sống con người, đến lợi ích của các nhóm xã
hội, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội
phù hợp với mục tiêu của đất nước.
Theo quan niệm trên, trong sự phát triển của đất nước đòi hỏi có một hệ
thống chính sách xã hội phù hợp nhằm phát huy mọi tiềm lực của xã hội,
nhưng không nên gây xáo trộn và mất ổn định về chính trị. Nó đòi hỏi ở Đảng
và Nhà nước một bản lĩnh chính trị vững vàng, vừa năng động, một nghệ
thuật lãnh đạo và quản lý vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết. Vì vậy, chính sách xã
16


hội phải dựa trên những tư tưởng, quan điểm của Đảng lãnh đạo, phải phù
hợp với bản chất chế độ chính trị - xã hội. Nhằm mục đích xây dựng và phát
triển con người, đem lại cuộc sống hạnh phúc cho con người, góp phần lành
mạnh hóa xã hội và phát triển bền vững đất nước. Chính sách xã hội mang
tính nhân văn cao cả, tất cả vì con người, tất cả vì hạnh phúc của con người.
Vai trò thực hiện chính sách xã hội ở nước ta hiện nay
Một là, thực hiện tốt chính sách xã hội là nhân tố thúc đẩy tính tích
cực, tự giác của người lao động
Chính sách xã hội không chỉ áp dụng riêng cho một mặt, hoặc một lĩnh vực

mà: “Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao
động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ
dân tộc... coi nhẹ chính sách xã hội, tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội” [20, tr.86]. Chính vì vậy, việc nhận thức và thực hiện
đúng chính sách xã hội là tạo động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội,
thúc đẩy quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chính sách xã hội đúng đắn sẽ khơi
dậy và phát huy mọi tiềm năng của nhân dân lao động, nâng cao tính tích cực sáng
tạo, thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Việc xác định và thực hiện tốt chính sách xã hội trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa là một trong vấn đề cơ bản nhằm phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc; đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa các lĩnh vực của
xã hội, cho mục tiêu ổn định tình hình xã hội, giải phóng sức sản xuất tăng
năng suất lao động, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
Hai là, thực hiện chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là
mục tiêu vừa là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn cách
mạng mới
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XI) chỉ rõ: “Chính sách xã hội có vai trò
đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững
trong mọi giai đoạn phát triển” [25, tr.55]. Mục tiêu cơ bản của chính sách xã hội
17


là bảo đảm ổn định xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển, hướng
tới sự công bằng, tiến bộ xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần và cuộc sống tốt đẹp, bình đẳng, hạnh phúc của nhân dân. Chính
sách xã hội bao trùm trên mọi mặt của đời sống con người như: điều kiện lao
động, sinh hoạt, giáo dục, văn hóa, chăm sóc sức khỏe… và luôn gắn chặt, phụ
thuộc rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế, bản chất chính trị - xã hội của mỗi
quốc gia, dân tộc.
Chính sách xã hội đúng đắn không những có tác dụng điều tiết các hoạt

động kinh tế, khơi dậy và phát huy được mọi tiềm năng của nhân dân lao
động, mà còn tác động to lớn đến việc hoàn thiện các quan hệ chính trị, xã
hội lành mạnh, hình thành một công cụ xã hội mới. Cương lĩnh của Đảng ta
đã khẳng định: “Chính sách xã hội tác động trực tiếp đến việc hình thành
một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư
đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ, góp phần xây
dựng nước Việt Nam giàu mạnh” [20, tr.15].
Ba là, thực hiện tốt chính sách xã hội là nhân tố quan trọng để xóa bỏ
bất công, tiến tới công bằng xã hội và ổn định chính trị - xã hội
Dưới chủ nghĩa xã hội chính sách xã hội luôn hướng tới việc xóa bỏ
mọi bất công trong xã hội. Đấu tranh kiên quyết chống những biểu hiện tiêu
cực, để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, bình đẳng. Góp phần to lớn
vào việc hoàn thiện các quan hệ chính trị - xã hội giữa các giai cấp, các tầng
lớp, làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, hoàn thiện nhân cách và lối sống
của con người xã hội chủ nghĩa.
Chính sách xã hội đúng đắn, phù hợp với từng lĩnh vực, từng đối tượng
sẽ phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, thúc đẩy kinh tế, văn hóa xã hội phát
triển, công bằng xã hội được thực hiện đầy đủ, lợi ích của người lao động được cải
thiện, các quan hệ xã hội lành mạnh góp phần quan trọng làm cho tình hình chính

18


trị - xã hội ổn định, niềm tin của mỗi người càng được củng cố vững chắc vào chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Ngày này, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
xây dựng mục tiêu, quan điểm, nội dung, giải pháp thiết thực để thực hiện
chính sách xã hội trong điều kiện mới. Chính sách xã hội chỉ thực hiện có
hiệu quả khi được gắn kết chặt chẽ với phát triển kinh tế, nhằm phục vụ con
người và phát huy nhân tố con người, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế

và phát triển văn hóa xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của
con người trong xã hội.
* Chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân Việt Nam
Trong công cuộc đổi mới của đất nước Đảng, Nhà nước ta không
ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội nói chung và chính sách xã
hội đối với giai cấp công nhân nói riêng. Ngay từ những ngày đầu xây
dựng chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm và đề ra chính
sách xã hội đối với giai cấp công nhân. Người nhắc nhở chúng ta: “Nhiều
nơi thiếu giáo dục công nhân về kỷ luật lao động, ý thức về làm chủ và về
bảo hộ lao động, điều đó rất đáng tiếc. Chúng ta phải quý trọng con người,
nhất là công nhân, vì công nhân là vốn quý nhất của xã hội. Chúng ta hết
sức phải bảo vệ, không để xảy ra tai nạn lao động” [47, tr.343].
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, giai cấp
công nhân là nguồn lực có vai trò to lớn, có ý nghĩa quyết định. Để phát huy
một cách mạnh mẽ nguồn lực giai cấp công nhân cần chú ý đến việc tổ chức
lao động và quản lý xã hội một cách khoa học; quan tâm đến việc giải quyết
những vấn đề xã hội cơ bản, bức xúc; khuyến khích lợi ích vật chất thích đáng
đồng thời với việc khích lệ về tinh thần đối với những người công nhân thông
qua những phương thức tác động chủ yếu đến quá trình lao động và tổ chức
cuộc sống của họ. Kế thừa những yếu tố hợp lý, những thuộc tính bản chất
của các quan niệm chính sách xã hội. Do đó:
19


Chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân Việt Nam là: Chính
sách của Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp tạo động lực vật chất và tinh thần
đối với giai cấp công nhân, kích thích tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
giai cấp công nhân thông qua việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã
hội có liên quan đến lao động, cống hiến và tổ chức đời sống của giai cấp
công nhân, làm cho giai cấp công nhân trở thành nguồn lực chủ yếu của sự

nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Mục tiêu chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân Việt Nam là,
tạo động lực vật chất và tinh thần cho giai cấp công nhân, chính sách xã hội
không phải đơn thuần là sự bảo trợ xã hội, hay phân phối lại nguồn thu
nhập bằng các biện pháp y tế, dịch vụ công cộng... mà thực hiện sự bảo đảm
xã hội nhằm mục tiêu: Mang lại quyền lợi hay phúc lợi xã hội cho công nhân
thuộc tất cả các khu vực kinh tế, trước tiên cho những công nhân dễ bị tổn
thương (công nhân thương tật, mất sức lao động, công nhân nữ…).
Vai trò của chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân Việt Nam hiện
nay, có vai trò to lớn trong hệ thống chính sách nói chung cũng như người lao
động ở các khu công nghiệp nói riêng. Chính sách xã hội mang lại cho người lao
động điều kiện sinh sống, bảo đảm điều kiện cơ bản đầu tiên cho người lao động
là ăn, ở, mặc, học tập, đi lại, chăm sóc sức khỏe… Ngoài ra, chính sách xã hội còn
giúp cho người lao động phòng ngừa, hạn chế và khắc phục rủi ro trong cuộc sống
và đảm bảo công bằng trong xã hội.
Hệ thống chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân hiện nay, bao
gồm bảy nhóm lớn để cung ứng phúc lợi cho người lao động đó là: chính
sách tiền lương và thu nhập, chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách giáo
dục và đào tạo, chính sách nhà ở, chính sách văn hóa và thể thao, chính
sách quan hệ lao động, chính sách di chuyển lao động và di cư. Đây là hệ
thống chính sách xã hội toàn diện đối với giai cấp công nhân Việt Nam, hệ
thống chính sách này có ý nghĩa thiết thân đến đời sống của công nhân. Là
20


nguồn động lực chủ yếu để giai cấp công nhân cống hiến vì sự phát triển
của đất nước.
Trong đó, cần giải quyết đúng đắn vấn đề tiền công và thu nhập thực
tế. Nhận thức rõ thu nhập của công nhân là một yếu tố của sản xuất, chứ
không phải yếu tố của tiêu dùng. Thực tế đã chỉ rõ, vì thu nhập không đảm

bảo tái sản xuất sức lao động đã nảy sinh ra nhiều tiêu cực trong sản xuất,
đời sống, thậm chí làm tha hóa giai cấp công nhân. Chính vì thế, cần coi
thu nhập là giá cả của hàng hóa. Sức lao động phải tuân theo quy luật giá
trị và quy luật tái sản xuất sức lao động trong việc trả lương theo sản phẩm
nhằm đảm bảo người lao động có thể sống được bằng tiền lương, tiền công
và thu nhập theo lao động của họ ở xí nghiệp, nhà máy.
Trên cơ sở lương tối thiểu, Nhà nước có trách nhiệm quản lý tiền
lương trên toàn xã hội. Mức lương cụ thể được ghi trên hợp đồng là cơ sở
pháp lý bảo vệ quyền của người lao động và người sử dụng lao động để
Nhà nước quản lý và kiểm soát tiền lương.
Về nguyên tắc, đối với công nhân cả trong lẫn ngoài quốc doanh, tiền
lượng và tiền công phải trở thành nguồn thu nhập chính, đủ tái sản xuất sức
lao động, có tác dụng kích thích người lao động làm việc có chất lượng và
hiệu quả. Đồng thời phải khuyến khích trả lương theo việc làm, nhằm xóa
bỏ những bất công do chủ doanh nghiệp tạo ra.
Cùng với việc quản lý về tiền lương và tiền công, Nhà nước cần đổi
mới chế độ bảo hiểm xã hội. Nhà nước ban hành hệ thống các chế độ bảo
hiểm xã hội, tổ chức bộ máy quản lý thống nhất công việc bảo hiểm xã hội,
bảo trợ cho quỹ bảo hiểm xã hội, đặc biệt là bảo đảm cho quỹ này được ổn
định, phục vụ chắc chắn và lâu dài cho người lao động. Người sử dụng lao
động chịu trách nhiệm trước pháp luật việc đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã
hội theo quy định thống nhất của Nhà nước. Mọi người lao động ở trong
hay ngoài quốc doanh cũng đều có quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm
21


xã hội, và có trách nhiệm đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội. Trên cơ sở
phát triển bảo hiểm xã hội, người công nhân trong hay ngoài quốc doanh
đều có thể hưởng trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, chế độ tử tuất, chế độ hưu trí.

Để cải thiện đời sống cho công nhân đang bị phân hóa và khác biệt
hóa xã hội ngày càng cao, một phướng hướng xã hội hóa chính sách xã hội
đối với công nhân là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công đoàn.
Công đoàn là tổ chức đại diện cho người lao động về nghĩa vụ và lợi ích xã
hội thiết yếu, và quyền tự do cá nhân của công nhân, trực tiếp là trước “giới
chủ” và các giám đốc. Tổ chức công đoàn có khả năng liên kết công nhân
cùng nghề nghiệp (chứ không phải cùng ngành hoặc cùng đơn vị hành
chính bao cấp) ở các trình độ khác nhau, với các xu hướng xã hội khác
nhau, làm cho mối liên hệ giữa công đoàn và người lao động sâu sắc hơn.
Cùng với việc đổi mới chính sách tiền lương (tiền công), chính sách
bảo hiểm xã hội, và các hình thức cứu trợ xã hội, thì công đoàn là một cơ
sở cho việc xã hội hóa chính sách xã hội đối với nhóm công nhân. Dù cho
chính sách xã hội đối với công nhân có được pháp chế hóa bao nhiêu,
nhưng nếu không có tổ chức công đoàn thực sự mạnh thì không thể biến
những mục tiêu xã hội được pháp luật bảo đảm thành hiện thực, nhất là tại
các doanh nghiệp.
1.1.2. Quan niệm, nội dung thực hiện chính sách xã hội đối với công
nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay
* Đặc điểm tình hình tỉnh Đồng Nai và công nhân ở các khu công
nghiệp tỉnh Đồng Nai
Đặc điểm tình hình tỉnh Đồng Nai
Tỉnh Đồng Nai, là một tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng
điểm phía Nam. Có vị trí chiến lược quan trọng thuộc miền Đông Nam bộ có
nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là công nghiệp. Tỉnh
22


Đồng Nai, có địa giới hành chính chung với 5 tỉnh và thành phố: phía Đông
giáp tỉnh Bình Thuận; phía Đông Bắc giáp tỉnh Lâm Đồng; phía Tây Bắc giáp
tỉnh Bình Dương và Bình Phước; phía Tây giáp Thành phố Hồ Chí Minh; phía

Nam giáp Bà Rịa - Vũng Tàu. Đồng Nai cách Thành phố Hồ Chí Minh 30 km
cách Thành phố Vũng Tàu 79 km và cách Thủ đô Hà Nội 1.768 km. Hiện nay
tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính gồm: Thành phố Biên Hoà là trung
tâm phát triển kinh tế chính trị, văn hoá của tỉnh, thị xã Long Khánh và 9
Huyện là Vĩnh Cửu, Định Quán, Xuân Lộc, Tân Phú, Trảng Bom, Long
Thành, Nhơn Trạch, Thống Nhất, Cẩm Mỹ.
Trong những năm qua, tỉnh Đồng Nai luôn quan tâm xây dựng và tổ
chức thực hiện tốt các chính sách để phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội. Nguồn lực phát triển các lĩnh vực xã hội ngày càng lớn, được tăng cường
đầu tư từ ngân sách Nhà nước và các nguồn lực xã hội khác. Các lĩnh vực xã
hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu
đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn... đời sống vật chất và tinh thần của người có công, người
nghèo, đồng bào dân tộc được cải thiện, góp phần vào sự ổn định chính trị xã hội của tỉnh Đồng Nai nói riêng và đất nước nói chung. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện các chính sách vẫn còn nhiều hạn chế, một số mặt yếu
kém kéo dài, chậm được khắc phục. Đây là thực trạng đòi hỏi các cấp lãnh đạo
cần quan tâm và hoạch định nhiều chính sách hơn nữa nhằm nâng cao đời sống
của nhân dân trên đia bàn tỉnh.
Đặc điểm công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay
Hiện nay, tỉnh Đồng Nai có 36 khu công nghiệp được Chính phủ phê
duyệt, trong đó có 32 khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Tính đến cuối
năm 2016, tổng số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh là 22.744 doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển nhanh các khu công nghiệp, tỉnh Đồng Nai đã thu
hút một lượng công nhân lao động lớn từ nhiều địa phương khác, trong nước
23


và cả nước ngoài. Nguồn nhân lực trong các khu công nghiệp của tỉnh Đồng
Nai chủ yếu từ khu vực nông thôn từ các tỉnh phía Bắc, Duyên hải Nam Trung
Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long di chuyển đến.

Năm 2016 tổng số lao động đang làm việc ở các khu công nghiệp
tỉnh Đồng Nai là 648.421 người. Trung bình hàng năm, các khu công
nghiệp thu hút thêm 20.000 người lao động. Trong đó, ngành dệt may và
giày da sử dụng lao động nhiều nhất chiếm 54,5% [3, tr.4].
Thu nhập bình quân của công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai
khoảng 4,5 - 6,9 triệu đồng/tháng; trong đó mức lương chính chiếm 80 - 85%
thu nhập hàng tháng còn lại là thu nhập làm thêm giờ, trợ cấp xăng xe, tiền
thưởng, chuyên cần [42, tr.5].
Trong những năm qua, tỉnh Đồng Nai thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư
nước ngoài, có nhiều khu công nghiệp phát triển. Trong đó, các khu công
nghiệp của tỉnh Đồng Nai đã thực tốt chính sách xã hội đối với người lao
động. Do đó, đời sống của người lao động từng bước được cải thiện về
mọi mặt, tình hình an ninh, chính trị luôn ổn định. Tuy nhiên, phần lớn
các doanh nghiệp ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai đều thuộc thành
phần kinh tế ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Việc thực
hiện chính sách xã hội đối với công nhân còn nhiều bất cập, công nhân đã
và đang đối diện với rất nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những bất cập
trong vấn đề việc làm, tiền lương, thu nhập và điều kiện ăn, ở, sinh hoạt,
tổ chức cuộc sống gia đình... Thực tế trên đòi hỏi các cấp, các ngành và tổ
chức công đoàn cần tiếp tục nghiên cứu và có những chính sách phù hợp
với điều kiện và nhu cầu của người lao động.
* Quan niệm thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay
Thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp
tỉnh Đồng Nai hiện nay là một vấn đề cấp bách, cần được sự quan tâm của các
24


chủ thể trong quá trình thực hiện. Là động lực quan trọng nhằm đảm bảo cho
người lao động có cuộc sống ổn định, góp phần phát triển doanh nghiệp, kinh

tế - xã hội tỉnh Đồng Nai. Do đó:
Thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay là tổng thể các hoạt động
của Nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức xã hội
nhằm thực hiện đầy đủ, hiệu quả các chính sách xã hội cho
công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai.
Mục đích thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai là, tạo động lực vật chất và tinh thần cho công
nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai. Chính sách xã hội không phải
đơn thuần là sự “bảo trợ”, sự “giúp đỡ”, “ưu đãi” hay phân phối lại nguồn
thu nhập bằng các biện pháp y tế, dịch vụ công cộng đối với công nhân,
quan trọng hơn trong giai đoạn hiện nay là xác định vai trò động lực của
giai cấp ấy trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chính sách xã
hội, tạo ra những đảm bảo xã hội, những khuyến khích xã hội nhằm chăm
lo đời sống của người công nhân. Chính sách xã hội đó cũng chính là việc
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu và lợi ích chính đáng của công nhân ở
các khu công nghiệp thông qua việc giải quyết những vấn đề cơ bản về việc
làm, đời sống và công bằng xã hội.
Chủ thể tham gia thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các
khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai là, Nhà nước, Hệ thống chính trị của tỉnh
Đồng Nai trong đó: Đảng bộ tỉnh phải chủ động xây dựng đường lối chiến
lược phát triển giai cấp công nhân, tạo mọi điều kiện để cho các tổ chức thực
hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp; công đoàn ra
sức phối hợp với các tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công nhân;
người sử dụng lao động là cán bộ chủ chốt trong các doanh nghiệp là lực
lượng quan trọng, quyết định trong việc thực hiện chính sách xã hội đối với
25


công nhân; bản thân công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai nhận

thức vị trí, tầm quan trọng trong quá trình tham gia, thực hiện chính sách xã
hội. Ngoài ra, cần phải phát huy cả tổ chức tôn giáo, tổ chức NGO, các tổ
chức từ thiện của thế giới... trong quá trình thực hiện chính sách xã hội đối
với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Phương thức thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai, khá phong phú và đa dạng như: thực hiện thông
qua chính sách, qui định pháp luật của Đảng và Nhà nước, chính sách của
doanh nghiệp, công ty; thực hiện thông qua các tổ chức xã hội và xã hội hóa...
Do đó, quá trình tiến hành phải chủ động, tích cực vận dụng linh hoạt, sáng
tạo các hình thức, biện pháp chung của Đảng, Nhà nước cũng như hình thức
đặc thù hoạt động tại các doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Xây dựng và hoạch định chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai phải căn cứ và tình hình thực tiễn tại các doanh
nghiệp để những chính sách đó đi vào cuộc sống đảm bảo cho công nhân
được hưởng những chính sách xã hội đã đề ra. Trong quá trình thực hiện, chú
ý bổ sung việc hoạch định chính sách xã hội với những điều chỉnh cần thiết và
hợp lý. Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các
khu công nghiệp tỉnh Đồng Nai, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho công nhân. Thông qua các hình thức như tiền, hiện vật, phương tiện nhằm
mục đích giảm thiểu những khó khăn khi họ thất nghiệp, gặp những biến cố, rủi
ro, khó khăn về kinh tế, nhà ở, việc làm... để họ hòa nhập vào cộng đồng, đảm
bảo ổn định và phát triển xã hội.
* Nội dung thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu
công nghiệp tỉnh Đồng Nai hiện nay
Chính sách xã hội đối với công nhân ở các khu công nghiệp tỉnh Đồng
Nai được thể chế hoá thành các văn bản, các qui phạm pháp luật của Đảng,
Nhà nước, thành một hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện
26



×