Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

“Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng đa lộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.58 KB, 59 trang )

Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Bìa


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Lời cảm ơn


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Lời cam đoan


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

MỤC LỤC


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp



DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU

1.

Lý do lựa chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hội nhập hiện nay, các doanh nghiệp luôn đứng
trước những cơ hội và thách thức. Đặc biệt khi Việt Nam tham gia sâu rộng vào các tổ
chức quốc tế, các hiệp định phát triển như: WTO, TPP, APEC, ASEAN… thì các
doanh nghiệp luôn đòi hỏi phải đổi mới và hoàn thiện mình để cạnh tranh với doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Để đáp ứng những yêu cầu trên, vừa tạo uy tín cạnh tranh
với đối thủ, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải xác định các tiềm lực của
bản thân đơn vị. Vì vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề
cốt lõi được chú trọng đặc biệt, để sử dụng làm sao có hiệu quả các nguồn lực của
doanh nghiệp sao cho phù hợp nhất, tránh tình trạng thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả.
Qua quá trình tìm hiểu chung về Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa
Lộc cũng như đi sâu tìm hiểu về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Em nhận thấy trong thời gian gần đây công ty đang gặp khó khăn về hoạt động sản
xuất kinh doanh. Nhận thức rõ vai trò và ý nghĩa quan trọng của vấn đề này, trong thời
gian tìm hiểu, thực tập tại Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc một
công ty hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực xây lắp công trình và kinh doanh
vật liệu xây dựng em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc”.


2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng của Công ty để tìm ra
nguyên nhân tồn tại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần đầu tư
phát triển xây dựng Đa Lộc nhằm đưa ra những giải pháp phù hợp nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của công ty.

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là hoạt động sản xuất kinh doanh của
Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc. Đề tài sẽ nghiên cứu số liệu, tình
hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong phạm vi thời gian từ năm 2014
đến năm 2016.

4.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh bao gồm một hệ thống
các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, mối quan
hệ bên trong và bên ngoài nhằm đánh giá tình hình sử dụng nguồn lực của công ty. Về
lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong đề tài
này sử dụng phương pháp thu thập và xử lý số liệu, phương pháp chi phí - lợi ích,
phương pháp chi tiết và phương pháp so sánh.
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

6


Đại học Kinh tế Quốc dân


5.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Kết cấu chuyên đề
Kết cấu của chuyên đề như sau:
LỜI MỞ ĐẦU
Chương I: Cơ sở lý luận chung về nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
Doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công

ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc
Chương III: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh của Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc
KẾT LUẬN

NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

7


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1.. Tổng quan về hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.1. Khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh

1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động sản xuất kinh doanh
Ngày nay, hoạt động sản xuất tạo ra hàng hóa và dịch vụ gắn liền với cuộc sống
của con người, nếu như sản phẩm sản xuất ra được thị trường chấp nhận thì công việc
sản xuất đi theo đúng hướng. Để được như vậy, chủ thể sản xuất phải có khả năng kinh
doanh. Nếu loại bỏ các phần khác nhau nói về phương tiện, phương thức, kết quả cụ
thể của hoạt động kinh doanh thì có thể hiểu “kinh doanh là các hoạt động kinh tế
nhằm mục tiêu sinh lời của chủ thể kinh doanh trên thị trường”.
Hoạt động sản xuất kinh doanh, theo luật định, là việc thực hiện một hoặc một
số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất tiêu thụ sản phẩm hoặc
thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Hoạt động kinh doanh có đặc điểm:
- Hoạt động kinh doanh do một chủ thể thực hiện (chủ thể kinh doanh), chủ thể
kinh doanh ở đây có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp.
- Kinh doanh phải gắn với thị trường, các chủ thể kinh doanh có mối quan hệ
mật thiết với nhau, đó là quan hệ với nhà cung ứng, với khách hàng, với đối thủ cạnh
tranh, với Nhà nước. Những mối quan hệ này giúp cho các chủ thể kinh doanh duy trì
hoạt động kinh doanh đưa doanh nghiệp của mình phát triển.
- Hoạt động kinh doanh phải có sự vận động của đồng vốn: vốn là yếu tố quyết
định của công việc kinh doanh, không có vốn thì không thể có hoạt động kinh doanh.
Chủ thể kinh doanh sử dụng vốn mua nguyên liệu, máy móc thiết bị, thuê lao động...
- Mục đích chủ yếu của hoạt động kinh doanh là mang lại lợi nhuận.
1.1.1.2. Khái niệm về hiệu quả kinh tế
Đối với mỗi doanh nghiệp, mỗi đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền
kinh tế xác định với cơ chế quản lý khác nhau thì nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động cũng
khác nhau. Bản thân mỗi doanh nghiệp trong từng giai đoạn cũng có những mục tiêu
khác nhau. Tuy nhiên, có thể nói rằng, trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay,
mọi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh đều có mục tiêu bao trùm là tối đa
hóa lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này, mọi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình
một chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp thích ứng với các biến động khó
lường của thị trường, phải thực hiện việc xây dựng các kế hoạch kinh doanh, phương

NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

8


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

án kinh doanh, phải kế hoạch hóa các hoạt động của doanh nghiệp và đồng thời phải tổ
chức thực hiện chúng có hiệu quả.
Trong quá trình tổ chức, xây dựng và thực hiện các hoạt động trên, các doanh
nghiệp phải luôn kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn kiểm tra đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung hay của từng bộ phận
bên trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải thực hiện việc tính hiệu quả kinh tế của
các hoạt động sản xuất kinh doanh đó. Vậy thì hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp là gì? Để hiểu được phạm trù này trước hết ta tìm
hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung là gì.
Từ trước đến nay có nhiều quan điểm về hiệu quả kinh tế:
Theo P. Samerelson và W. Nordhaus thì: "hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội
không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá mà không cắt giảm một loạt sản lượng
hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của
nó". Quan điểm này đề cập đến việc phân bổ có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế và
mức hiệu quả mà tác giả đưa ra được coi là lý tưởng nhất.
Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm này là
tác giả Manfred Kuhn, ông cho rằng: "tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết
quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh". Đây là quan điểm được nhiều
nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các quá trình
kinh tế.

Hai tác giả Wohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là
hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị.
Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. Khái niệm hiệu quả kinh tế
tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy móc thiết bị và
hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của hoạt động quản
trị chi phí.
Một khái niệm được nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý và
sử dụng phổ biến đó là: “hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế
là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật
lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định”.
1.1.1.3. Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh
Từ các quan điểm trên về hiệu quả kinh tế thì có thể đưa ra khái niệm về hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như sau: hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực để đạt
được mục tiêu đã đặt ra, nó biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và những
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

9


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

chi phí bỏ ra để có được kết quả đó, độ chênh lệch giữa hai đại lượng này càng lớn thì
hiệu quả càng cao.
1.1.2. Phân biệt giữa kết quả và hiệu quả sản xuất kinhdoanh
Có thể nói hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phạm trù này phản ánh
trình độ sử dụng các nguồn lực có sẵn của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất
trong sản xuất kinh doanh với chi phí bỏ ra là thấp nhất.

Như vậy, giữa “kết quả” và “hiệu quả” có sự khác nhau như thế nào? Kết quả
sản xuất kinh doanh là phản ánh toàn bộ sản phẩm đầu ra của một quá trình sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
Bất kỳ hoạt động nào của con người đều mong muốn đạt được một lợi ích nào
đó. Kết quả đạt được trong sản xuất kinh doanh mới chỉ đáp ứng được một phần nào
nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và toàn xã hội. Tuy nhiên kết quả đó được tạo ra ở mức
nào, với mức giá nào là vấn đề cần được xem xét vì nó phản ánh khía cạnh chất lượng
của hoạt động sản xuất tạo ra kết quả. Mặt khác, nhu cầu của con người bao giờ cũng
lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ, bởi vậy người ta quan tâm đến việc làm thế
nào để với khả năng hiện có giới hạn của mình lại làm ra nhiều sản phẩm nhất. Từ đó
nảy sinh vấn đề: lựa chọn cách nào để đạt được kết quả cao nhất.
Như vậy, cần có sự so sánh giữa: đầu ra với đầu vào, chi phí bỏ ra của quá
trình sản xuất kinh doanh và kết quả thu được của quá trình đó. Từ so sánh đó ta đánh
giá về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã hiệu quả hay chưa. Kết quả
chính là cơ sở để xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.3. Bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh
Từ khái niệm về hiệu quả sản xuất kinh doanh, ta có thể thấy hiệu quả sản xuất
kinh doanh là phản ánh mặt chất lượng của các hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được các
mục tiêu. Tuy nhiên để hiểu rõ và ứng dụng được phạm trù hiệu quả sản xuất kinh
doanh vào việc tạo lập các chỉ tiêu cụ thể để đánh giá tính hiệu quả các hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp thì chúng ta cần:



Thứ nhất: phải hiểu rằng hiệu quả sản xuất kinh doanh thực chất chính là mối quan
hệ so sánh giữa kết quả có được và chi phí bỏ ra nhưng có tính đến các mục tiêu của
doanh nghiệp
Mối quan hệ so sánh ở đây có thể là so sánh tuyệt đối hoặc tương đối.
Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả sản xuất kinh doanh là:

H=K-C




H : là hiệu quả sản xuất kinh doanh
K : là kết quả đạt được

NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

10


Đại học Kinh tế Quốc dân



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

C : là chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào

Còn về so sánh tương đối thì:
Để tính được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước hết ta phải
tính kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Nếu xét mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả
thì kết quả nó là cơ sở để xác định tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh,
kết quả sản xuất kinh doanh là những đại lượng có khả năng cân, đo, đong, đếm được
như số sản phẩm bán ra, doanh thu bán hàng, lợi nhuận... Như vậy kết quả sản xuất
kinh doanh thường là mục tiêu của doanh nghiệp.




Thứ hai: phải phân biệt hiệu quả xã hội, hiệu quả kinh tế xã hội với hiệu quả sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của xã hội nhằm đạt
được các mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục tiêu của xã hội thường là: giải quyết
công ăn việc làm cho người lao động trong phạm vi toàn xã hội hay phạm vi khu vực,
nâng cao trình độ văn hoá, nhận thức, nâng cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi
trường... Còn hiệu quả kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm
đạt được các mục tiêu cả về kinh tế và xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc
dân cũng như trên phạm vi từng vùng miền, từng khu vực trong nền kinh tế. Trong khi
mỗi doanh nghiệp có một mục tiêu riêng của mình. Tuy nhiên ở Việt Nam, có một mục
tiêu bao trùm của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh là tối đa hóa lợi
nhuận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hiệu quả xã hội và hiệu quả
kinh tế xã hội có thể đồng nhất hoặc không. Hành động của doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh dựa vào việc cân nhắc có lợi cho bản thân doanh nghiệp trước. Một doanh
nghiệp có thể sản xuất ra sản phẩm mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp nhưng không
đem lại hiệu quả xã hội, thậm chí còn gây nên những gánh nặng. Ví dụ như doanh
nghiệp thu mua chế biến và tiêu thụ nguyên liệu thuốc lá, họ mang lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp mình, tuy nhiên lại ảnh hưởng không tốt đến vấn đề chăm sóc sức khỏe
người dân vì hút thuốc lá không có lợi cho sức khỏe.



Thứ ba: phân biệt được hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài
Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều
vào các mục tiêu của doanh nghiệp, do vậy mà tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh ở các giai đoạn khác nhau cũng là khác nhau. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu
quả của toàn thể các hoạt động sản xuất kinh doanh trong cả quá trình hoạt động của
doanh nghiệp (hiệu quả lâu dài) là lợi nhuận và các chỉ tiêu về doanh lợi. Còn xét về
tính hiệu quả hiện tại thì nó phụ thuộc vào các mục tiêu trước mắt mà doanh nghiệp

đang theo đuổi. Trên thực tế, khi thực hiện mục tiêu lâu dài của doanh nghiệp là tối đa
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

11


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

hoá lợi nhuận có nhiều doanh nghiệp hiện tại lại không đạt mục tiêu là lợi nhuận mà
lại thực hiện các mục tiêu khác như: nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, nâng
cao uy tín danh tiếng của doanh nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều rộng và chiều
sâu... Do đó mà các chỉ tiêu về lợi nhuận là không cao nhưng các chỉ tiêu có liên quan
đến các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp là cao thì chúng ta phải kết luận là doanh
nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, không thể kết luận là doanh nghiệp đang hoạt
động kém hiệu quả, mà. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả trước mắt có thể là trái với các
chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục đích cuối cùng của nó lại là nhằm thực hiện chỉ
tiêu hiệu quả lâu dài.
1.1.4. Phân loại hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.4.1. Hiệu quả kinh doanh cá biệt và hiệu quả kinh doanh xã hội
Hiệu quả kinh doanh cá biệt là hiệu quả sản xuất kinh doanh thu được từ hoạt
động sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Biểu hiện chung là lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Hiệu quả kinh doanh xã hội là sự đóng góp của hoạt động sản xuất kinh doanh
trong lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động vào việc phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu
kinh tế, tăng năng suất lao động, tăng thu cho ngân sách...
1.1.4.2. Hiệu quả của chi phí bộ phận và chi phí tổng hợp
Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không những đánh giá
hiệu quả tổng hợp của các loại chi phí trong sản xuất và ngoài sản xuất mà còn phải

đánh giá hiệu quả của từng loại chi phí. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung đươc tạo thành trên cơ sở hiệu quả các loại chi phí cấu thành.
1.1.4.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả so sánh
Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án cụ thể
bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra.
Hiệu quả so sánh được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt
đối của các phương án với nhau. Đó chính là mức chênh lệch về hiệu quả tuyệt đối của
các phương án.
1.1.5. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.1.5.1. Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường khẳng định sự tồn tại
của doanh nghiệp, trong khi nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại đó là hiệu quả kinh
doanh, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là tồn tại và phát triển một cách bền
vững. Do vậy, một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt
động trong nền kinh tế thị trường hiện nay là việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

12


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của
doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn lực của quá
trình sản xuất chỉ thay đổi trong giới hạn thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh
nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu quả kinh doanh là nhân tố
rất quan trọng trong việc bảo đảm sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một cách

nhìn khác, sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hóa, của cải
vật chất và các dịch vụ phục vụ cho nhu cầu và tạo tích lũy cho xã hội. Để thực hiện
được điều đó thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên và đứng vững trên thị trường để
đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra và có lợi nhuận trong quá trình hoạt động
kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế hiện
nay. Như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, sự tồn tại mới
chỉ là yêu cầu mang tính chất cơ bản còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp
mới là yêu cầu mang tính chất quan trọng. Bởi vì doanh nghiệp muốn tồn tại luôn luôn
phải đi kèm với sự phát triển mở rộng, đòi hỏi phải có sự tích lũy bảo đảm cho quá
trình mở rộng sản xuất theo đúng quy luật của sự phát triển.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự cạnh tranh và
tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp
phải tự tìm tòi, đầu tư phát triển để tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Doanh nghiệp
kinh doanh chấp nhận cơ chế thị trường cũng là chấp nhận sự cạnh tranh. Thị trường
ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau ngày càng khốc
liệt và gay gắt hơn. Cạnh tranh không còn về mặt hàng, chất lượng, giá cả mà còn phải
cạnh tranh với nhiều yếu tố khác nữa. Nếu phát triển là mục tiêu của doanh nghiệp thì
cạnh tranh là yếu tố làm cho doanh nghiệp đó mạnh lên nhưng ngược lại đây cũng có
thể là yếu tố làm cho doanh nghiệp không còn chỗ đứng trên thị trường. Để đạt được
mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp phải giành được chiến thắng
trong cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường. Do đó doanh nghiệp cần phải có
hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt, bên cạnh đó giá cả phải hợp lý.
Việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là nhân tố tiền đề tạo ra cho
doanh nghiệp sự thắng lợi trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường. Muốn
tạo ra được chiến thắng trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh, khả năng để tồn tại và phát triển của
mỗi doanh nghiệp.


NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

13


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1.1.5.2. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với nền kinh tế thị trường nói chung và bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng trong
điều kiện các nguồn lực khan hiến như hiện nay.
Đối với nền kinh tế quốc dân thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ
tận dụng và tiết kiệm được nguồn lực của đất nước. Không chỉ vậy nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh con thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, giúp đất nước đi nhanh
vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế với tốc độ nhanh.
Đối với doanh nghiệp thì mục tiêu cơ bản của mọi doanh nghiệp trong nền kinh
tế thị trường là nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp tham gia vào
nền kinh tế thị trường được tự do hoạt động kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong
hoạt động kinh doanh của mình phải coi hiệu quả sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ
trọng tâm hàng đầu. Vì suy cho cùng đây chính là yếu tố đưa doanh nghiệp đi tới thành
công hay làm doanh nghiệp thất bại, quyết định xem doanh nghiệp có đạt được mục
tiêu kinh doanh của mình hay không, có bảo toàn được vốn của doanh nghiệp không.
Hay nói cách khác, đây chính là yếu tố quyết định đến sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn là cơ sở để doanh nghiệp tái
sản xuất mở rộng, nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần cho cán bộ công nhân
viên hoạt động trong doanh nghiệp.
1.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh tổng hợp

1.2.1.1. Chỉ tiêu doanh lợi doanh thu (ROS)
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp
dịch vụ sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định.
Lợi nhuận sau thuế
ROS =
× 100%
Doanh thu thuần
Trong đó:
- Doanh thu thuần: là khoản doanh thu bán hàng sau khi đã trừ các khoản giảm
trừ doanh thu như: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, các khoản chiết khấu
thương mại, giảm giá hàng bán, doanh thu bán hàng bị trả lại.
- Lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận ròng): tính bằng lợi nhuận trước thuế trừ đi
phần thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho ngân sách nhà nước trong kỳ. Lợi
nhuận trước thuế tính bằng doanh thu thuần trừ đi các khoản: giá vốn hàng bán, chi phí
bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp.

NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

14


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Tỷ số này mang giá trị dương tức là doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng lớn
nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số này mang dấu âm tức là doanh nghiệp làm ăn thua lỗ.
1.2.1.2. Chỉ tiêu doanh lợi trên tài sản (ROA)
ROA đo lường hoạt động của một doanh nghiệp trong việc sử dụng tài sản để
tạo ra lợi nhuận trong một thời kỳ nhất định, không phân biệt tài sản này được hình

thành bởi nguồn vốn vay hay vốn chủ sở hữu. Ý nghĩa của ROA cho biết hiệu quả hoạt
động đầu tư của doanh nghiệp.
Lợi nhuận sau thuế
ROA =

× 100%
Bình quân tổng giá trị tài sản

Trong đó:
- Tổng tài sản: là tổng giá trị của toàn bộ tài sản hiện có của công ty tính đến
thời điểm lập báo cáo.Bình quân tổng giá trị tài sản tính bằng trung bình cộng của giá
trị đầu kỳ và giá trị cuối kỳ.
Nếu tỷ số này lớn hơn 0, thì nghĩa là doanh nghiệp làm ăn có lãi. Tỷ số càng
cao cho thấy doanh nghiệp làm ăn càng có lãi. Nếu nhỏ hơn 0 thì doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ.
1.2.1.3. Chỉ tiêu doanh lợi trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Chỉ tiêu này cho thấy kết quả của việc sử dụng tài sản để tạo ra lợi nhuận cho
chủ sở hữu. ROE có liên quan đến chi phí trả lãi vay, vì vậy nó là chỉ tiêu tổng hợp
phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của chủ sở hữu dưới tác động của đòn bẩy tài chính (hệ
số nợ và hệ số thanh toán lãi vay).
Lợi nhuận sau thuế
ROE =

× 100%
Bình quân tổng vốn chủ sở hữu

Trong đó:
- Vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc sở hữu của công ty, vốn chủ sở hữu
thường bao gồm: vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu mới, các
quỹ của công ty.Bình quân tổng vốn chủ sở hữu tính bằng trung bình cộng của giá trị

đầu kỳ và cuối kỳ.
ROE < R (R là tỷ lệ lãi vay ngân hàng): lợi nhuận tạo ra chỉ để trả lãi vay ngân
hàng. ROE càng cao càng tốt vì điều đó chứng tỏ rằng doanh nghiệp sử dụng đồng vốn
hiệu quả của cổ đông. ROE > R: lợi nhuận thu được dư trả chi phí lãi vay, cũng phải
xem xét liệu ROE có tăng hay không.

NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

15


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1.2.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh lĩnh vực hoạt động
1.2.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn



Vòng quay hàng tồn kho

Số vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ. Vòng quay hàng tồn kho được xác định theo công thức:
Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho =
Bình quân giá trị hàng tồn kho
Trong đó:
- Giá vốn hàng bán là toàn bộ chi phí để tạo ra một thành phẩm. Đối với một
công ty thương mại thì giá vốn hàng bán là tổng chi phí cần thiết để hàng có mặt tại

kho (giá mua từ nhà cung cấp, vận chuyển, bảo hiểm…). Đối với một công ty sản xuất
thì cũng tương tự nhưng phức tạp hơn một chút do đầu vào của nó là nguyên liệu chứ
chưa phải thành phẩm.
- Hàng tồn kho của doanh nghiệp là những tài sản được giữ để bán trong kỳ sản
xuất, kinh doanh bình thường; đang trong quá trình sản xuất, kinh doanh dở dang;
nguyên liệu; vật liệu; công cụ, dụng cụ (gọi chung là vật tư) để sử dụng trong quá trình
sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ. Bình quân giá trị hàng tồn kho bằng trung
bình cộng của giá trị đầu kỳ và giá trị cuối kỳ.
Hệ số này lớn cho thấy tốc độ quay vòng của hàng hóa trong kho là nhanh và
ngược lại, nếu hệ số này nhỏ thì tốc độ quay vòng hàng tồn kho thấp. Cần lưu ý, hàng
tồn kho mang đậm tính chất ngành nghề kinh doanh nên không phải cứ mức tồn kho
thấp là tốt, mức tồn kho cao là xấu.
Hệ số vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy doanh nghiệp bán hàng
nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa là doanh nghiệp sẽ ít rủi ro
hơn nếu khoản mục hàng tồn kho trong báo cáo tài chính có giá trị giảm qua các năm.
Tuy nhiên, hệ số này quá cao cũng không tốt, vì như vậy có nghĩa là lượng hàng
dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì rất có khả
năng doanh nghiệp bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Hơn
nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến
dây chuyền sản xuất bị ngưng trệ. Vì vậy, hệ số vòng quay hàng tồn kho cần phải đủ
lớn để đảm bảo mức độ sản xuất và đáp ứng được nhu cầu khách hàng.



Vòng quay vốn lưu động

Vòng quay vốn lưu động phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng.
Công thức xác định như sau:
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH


16


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Doanh thu thuần

Vòng quay vốn lưu động =
Tài sản lưu động bình quân
Trong đó:
- Tài sản lưu động bao gồm tiền và các khoản tương đương với tiền, đầu tư
ngắn hạn, khoản phải thu ngắn hạn, hàng tồn kho và tài sản ngắn hạn khác. Tài sản
lưu động bình quân bằng trung bình cộng của giá trị đầu kỳ và cuối kỳ.
Việc tăng vòng quay vốn lưu động có ý nghĩa lớn đối với doanh nghiệp. Nó có
thể giúp cho doanh nghiệp giảm được vốn lưu động cần thiết trong sản xuất kinh
doanh, giảm số lượng vốn vay hoặc có thể mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trên
cơ sở vốn hiện có.



Hiệu suất sử dụng tài sản cố định

Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng nguyên giá tài sản cố định tham gia vào hoạt
động kinh doanh thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu bán hàng. Công thức tính:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Tài sản cố định bình quân
Trong đó:
- Tài sản cố định là tất cả tài sản của doanh nghiệp có giá trị lớn, có thời gian sử

dụng, luân chuyển, thu hồi trên một năm hoặc trên một chu kỳ kinh doanh (nếu chu kỳ
kinh doanh lớn hơn hoặc bằng một năm). Tài sản cố định ở đây là giá trị còn lại đến
thời điểm lập báo cáo. Tài sản cố định bình quân bằng trung bình cộng của giá trị đầu
kỳ và cuối kỳ.
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp cao hơn mức trung bình của
ngành là tốt.



Hiệu suất sử dụng tổng tài sản

Tỷ số này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó cho biết hiệu quả sử
dụng toàn bộ các loại tài sản của doanh nghiệp, hoặc thể hiện một đồng vốn đầu tư vào
doanh nghiệp đã đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Công thức tính:
Doanh thu thuần
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Bình quân tổng giá trị tài sản
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản là chỉ tiêu phản ánh hiệu suất sử dụng tổng hợp
toàn bộ tài sản của doanh nghiệp, chỉ tiêu này cao hơn mức trung bình của ngành là
tốt.
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

17


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Giá trị của chỉ tiêu càng cao, chứng tỏ cùng một tài sản mà thu được mức lợi

ích càng nhiều, do đó trình độ quản lý tài sản càng cao thì năng lực thanh toán và năng
lực thu lợi của doanh nghiệp càng cao. Nếu ngược lại thì chứng tỏ các tài sản của
doanh nghiệp chưa được sử dụng có hiệu quả.
1.2.2.2. Hệ số về khả năng thanh toán



Hệ số khả năng thanh toán hiện hành

Hệ số khả năng thanh toán hiện hành là mối quan hệ giữa tài sản lưu động với
các khoản nợ ngắn hạn, công thức:
Tài sản lưu động
Hệ số thanh toán hiện hành =
Tổng nợ ngắn hạn
Trong đó:
- Tổng nợ ngắn hạn là những khoản nợ phải trả trong khoảng thời gian dưới
một năm, bao gồm các khoản vay ngắn hạn, phải trả cho người bán, thuế và các khoản
phải nộp cho Nhà nước, phải trả cho công nhân viên, nợ dài hạn đến hạn trả, các khoản
phải trả khác.
Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền để
trang trải các khoản nợ ngắn hạn, vì thế hệ số này cũng thể hiện mức độ đảm bảo
thanh toán của tài sản lưu động với các khoản nợ ngắn hạn.
Nếu hệ số này thấp thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp ở mức độ thấp và
cũng là dấu hiệu báo trước khó khăn về tài chính mà doanh nghiệp có thể gặp phải
trong việc trả nợ. Khi hệ số này cao cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc
sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp hệ số này quá cao chưa chắc đã phản ánh
năng lực thanh toán của doanh nghiệp là tốt, nghĩa là khi đó có một lượng tài sản lưu
động tồn trữ lớn, phản ánh việc sử dụng tài sản không hiệu quả vì bộ phận này không
vận động, không sinh lời (có quá nhiều tiền mặt nhàn rỗi, nợ phải đòi, hàng tồn kho ứ

đọng...). Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc ngành nghề kinh doanh. Ngành nghề nào
chiếm tỷ trọng tài sản lưu động lớn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn càng tốt và
ngược lại.
Tài sản lưu động trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ phải được chuyển
đổi thành tiền. Trong tài sản lưu động hiện có thì vật tư, hàng hoá chưa có thể chuyển
đổi ngay thành tiền được và do đó khả năng thanh toán kém nhất. Vì thế hệ số khả
năng thanh toán nhanh là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn khả năng thanh toán của
đơn vị. Đó là thước đo khả năng trả nợ ngay, không dựa vào bán các loại vật tư, hàng
hoá tồn kho.
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

18


Đại học Kinh tế Quốc dân



Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Hệ số khả năng thanh toán nhanh

Hệ số khả năng thanh toán nhanh được xác định bằng mối quan hệ giữa tài sản
lưu động - hàng tồn kho với tổng số nợ ngắn hạn, công thức:
Tài sản lưu động - Hàng tồn kho
Hệ số khả năng thanh toán nhanh

=
Tổng nợ ngắn hạn


Ở đây hàng tồn kho bị loại trừ ra vì được coi là tài sản không dễ dàng chuyển
đổi nhanh thành tiền và cũng thấy rằng tài sản dùng để thanh toán nhanh còn được xác
định là: tiền cộng với tiền tương đương. Tiền tương đương là các khoản có thể chuyển
đổi thành một lượng tiền biết trước (thương phiếu, các loại chứng khoán ngắn hạn...).
Thông thường khả năng thanh toán của công ty được đánh giá an toàn khi hệ số
này > 0,5 lần vì công ty có thể trang trải các khoản nợ ngắn hạn mà không cần đến các
nguồn thu hay doanh số bán.



Hệ số khả năng thanh toán tức thời

Hệ số khả năng thanh toán tức thời đo lường mức độ đáp ứng nhanh của vốn
lưu động trước các khoản nợ ngắn hạn. Hệ số khả năng thanh toán tức thời cho biết với
một đồng nợ ngắn hạn doanh nghiệp có thể đảm bảo chi trả bằng bao nhiêu đồng mà
không cần vay mượn thêm hay bán hàng tồn kho. Công thức sau:
Vốn bằng tiền
Khả năng thanh toán tức thời

=

Tổng nợ ngắn hạn

Trong đó:
- Vốn bằng tiền là một bộ phận của tài sản lưu động trong doanh nghiệp, tồn tại
trực tiếp dưới hình thức tiền tệ, có tính thanh khoản cao nhất, bao gồm tiền mặt tại quỹ
doanh nghiệp, tiền gửi tại ngân hàng, và các khoản tiền đang chuyển.
Hệ số này càng lớn thì doanh nghiệp càng nhiều tiền để đảm bảo thanh toán,
ngược lại hệ số này càng nhỏ thì doanh nghiệp càng thiếu tiền để chi trả cho các khoản
nợ của mình. Tuy nhiên thừa hay thiếu tiền đều gây ảnh hưởng không tốt tới tình hình

tài chính của doanh nghiệp. Nếu thừa sẽ gây ứ đọng vốn, còn nếu thiếu sẽ không bảo
đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Thông thường, nếu hệ số này > 0,5 thì
lượng tiền của doanh nghiệp quá nhiều thừa khả năng thanh toán, còn nếu hệ số này <
0,1 thì doanh nghiệp lại không đủ tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn.
 Tóm lại, khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà cao thì rủi ro thanh toán
sẽ thấp, tuy nhiên lợi nhuận có thể thấp vì khoản phải thu nhiều và hàng tồn kho nhiều.
Khả năng thanh toán mà thấp thì rủi ro thanh toán cao, xong lợi nhuận có thể cao vì tài
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

19


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

sản lưu động sử dụng có hiệu quả, nguồn vốn đầu tư vào tài sản lưu động nhỏ, ROA và
ROE có thể tăng.
1.2.2.3. Hệ số về cơ cấu tài chính



Hệ số nợ tổng tài sản

Tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ
doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Công thức tính tỷ số tổng nợ trên
tổng tài sản như sau:
Nợ phải trả
Hệ số nợ tổng tài sản =
Tổng tài sản

Trong đó:
- Nợ phải trả là những nghĩa vụ tiền tệ mà đơn vị phải thanh toán cho các bên
cung cấp nguồn lực cho đơn vị trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng nợ và tổng
tài sản được lấy từ quý hoặc năm gần nhất, tùy theo ta định tính tỷ số này cho quý hay
năm.
Thông thường các chủ nợ muốn tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này
càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản.
Trong khi đó, các chủ sở hữu doanh nghiệp lại muốn tỷ số này cao vì họ muốn lợi
nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Tỷ số này cao thể
hiện sự bất lợi đối với các chủ nợ nhưng lại có lợi cho chủ sở hữu nếu đồng vốn được
sử dụng có khả năng sinh lợi cao. Tuy nhiên, nếu tỷ số tổng nợ trên tổng tài sản quá
cao, doanh nghiệp dễ bị rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.



Tỷ suất tự tài trợ

Tỷ số này cho biết khả năng tự đảm bảo và mức độ độc lập về tài chính của
doanh nghiệp. Nó được xác định qua công thức sau:
Vốn chủ sở hữu
Tỷ suất tự tài trợ =
Tổng tài sản
Tỷ số này phản ánh tỷ trọng nguồn vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của doanh
nghiệp. Để xác định mức độ phù hợp về tỷ lệ vốn chủ sở hữu trong trong nguồn vốn
của doanh nghiệp sẽ phụ thuộc rất lớn vào hoạt động và chính sách của từng doanh
nghiệp cũng như từng ngành. Tỷ suất tự tài trợ cao chứng tỏ khả năng tự chủ tài chính
của doanh nghiệp và đảm bảo an toàn cho các món nợ, nhưng cũng cho thấy doanh
nghiệp chưa tận dụng đòn bẩy tài chính nhiều.




Hệ số thanh toán lãi vay

NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

20


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Hệ số thanh toán lãi vay cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi
như thế nào. Nếu công ty quá yếu về mặt này, các chủ nợ có thể đi đến gây sức ép lên
công ty, thậm chí dẫn tới phá sản công ty. Hệ số khả năng thanh toán lãi vay được tính
bằng tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) trên lãi vay:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Hệ số thanh toán lãi vay =
Lãi vay phải trả
Trong đó: lợi nhuận trước thuế và lãi vay cũng như lãi vay phải trả là của năm
cuối hoặc là tổng của 4 quý gần nhất.
Việc tìm xem một công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng rất quan
trọng. Rõ ràng, khả năng thanh toán lãi vay càng cao thì khả năng thanh toán lãi của
doanh nghiệp cho các chủ nợ của mình càng lớn.
Tỷ số trên nếu lớn hơn 1 thì công ty hoàn toàn có khả năng trả lãi vay. Nếu nhỏ
hơn 1 thì chứng tỏ hoặc công ty đã vay quá nhiều so với khả năng của mình, hoặc công
ty kinh doanh kém đến mức lợi nhuận thu được không đủ trả lãi vay.
Tỷ số khả năng trả lãi chỉ cho biết khả năng trả phần lãi của khoản đi vay, chứ
không cho biết khả năng trả cả phần gốc lẫn phần lãi ra sao.
1.2.2.4. Chỉ số cơ cấu tài sản

Hệ số cơ cấu tài sản được xác định theo công thức sau:
Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động
Hệ số cơ cấu tài sản =
× 100%
Tổng tài sản
Cơ cấu tài sản cho biết tỷ lệ tài sản cố định và tài sản lưu động trong tổng tài
sản như thế nào. Cơ cấu này cũng tùy thuộc vào từng loại hình kinh doanh của doanh
nghiệp. Mỗi một đơn vị khác nhau hoặc ở mỗi thời điểm khác nhau thì hệ số này khác
nhau. Thông thường để đánh giá, người ta dùng cơ cấu tài sản của ngành để làm chuẩn
mực so sánh.
1.2.2.5. Hiệu quả sử dụng lao động
Năng suất lao động cho biết giá trị được xác định bằng giá trị sản phẩm được
sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Công thức tính như sau:
Doanh thu thuần
Năng suất lao động =
Số lao động

NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

21


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

Năng suất lao động phản ánh năng lực tạo ra của cải. Đây cũng là chỉ tiêu quan
trọng nhất thể hiện tính chất và trình độ tiến bộ của một doanh nghiệp, một đơn vị sản
xuất hay của một phương thức lao động.
1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh

1.3.1. Nhân tố vĩ mô
1.3.1.1. Môi trường chính trị - pháp luật
Là các nhân tố tác động đến doanh nghiệp theo các hướng khác nhau. Chúng có
thể tạo ra cơ hội, trở ngại, thậm chí là rủi ro cho doanh nghiệp. Chính phủ là người tiêu
dùng lớn nhất trong nền kinh tế; Sự ổn định về chính trị, sự nhất quán về quan điểm
chính sách lớn là sự hấp dẫn các nhà đầu tư. Hệ thống luật pháp được xây dựng và
hoàn thiện sẽ là cơ sở để kinh doanh ổn định. Chẳng hạn luật về bảo vệ môi trường là
điều mà các doanh nghiệp phải tính đến.
Với ngành xây dựng cơ bản nói chung và Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây
dựng Đa Lộc nói riêng yếu tố luật pháp và chính trị ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và
phát triển cũng như lợi nhuận của các doanh nghiệp. Cụ thể:
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có vị trí hết sức quan trọng trong
nền kinh tế thị trường. Xây dựng cơ bản là quá trình xây dựng mới, xây dựng lại, cải
tạo, hiện đại hoá, khôi phục công trình nhà máy, xí nghiệp, đưòng xá, nhà cửa nhằm
phục vụ cho dời sống, sản xuất của xã hội. Chi phí cho đầu tư xây dựng cơ bản chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng Ngân sách Nhà nước cũng như Ngân sách của doanh nghiệp..
Ngành xây dựng của nước ta có triển vọng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) cao, để ngành xây dựng có thể tận dụng hiệu quả những cơ hội sẽ đến
trong năm 2016, các doanh nghiệp cần học hỏi và phát triển, sử dụng công cụ quản trị
hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Doanh nghiệp cần tham gia các hiệp hội, cộng đồng
và nghiêm chỉnh tuân thủ các quy tắc ứng xử kinh doanh trong cộng đồng. Ngoài ra,
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ thi công, sản xuất nguyên
nhiên liệu xây dựng cũng là những yêu cầu cấp bách của ngành này.
Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần thúc đẩy sự tin cậy, tăng cường hợp
tác và thực hiện tốt những giải pháp đã đề ra. Có như vậy, ngành xây dựng mới phát
triển bền vững việc sản xuất, kinh doanh và tạo được vị thế, vươn lên cạnh tranh trong
khu vực, cũng như quốc tế.
Qua các phân tích ở trên cho thấy yếu tố luật pháp và chính trị đồng thời tạo ra
các cơ hội, và thách thức cho các doanh nghiệp trong ngành xây dựng cơ bản nói
chung và Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc nói riêng.


NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

22


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

1.3.1.2. Môi trường kinh tế
Thực trạng nền kinh tế và xu hướng trong tương lai có ảnh hưởng đến thành
công và chiến lược của một doanh nghiệp. Các nhân tố chủ yếu mà nhiều doanh
nghiệp thường phân tích là: tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, lãi suất, tỷ giá hối đoái
và tỷ lệ lạm pháp;
Tốc độ tăng trưởng: Theo thống kê của ngành xây dựng Việt Nam (tháng
5/2015) tốc độ tăng trưởng ngành xây dựng của Việt Nam đứng thứ 3 trong khu vực
Châu Á. Chu kỳ của ngành xây dựng Việt Nam chịu tác động mạnh từ chu kỳ của tăng
trưởng kinh tế thường kéo dài từ 3 tới 10 năm. Với Luật Nhà Ở (sửa đổi) 2014 và
những chính sách hỗ trợ kích cầu, tình hình thị trường BĐS đang ấm dần lên và kéo
theo đó là sự đi lên của phân khúc xây dựng dân dụng.
Mặt khác, Việt Nam vẫn là quốc gia đang phát triển vì vậy nhu cầu thay đổi cơ
sở hạ tầng kỹ thuật vẫn đòi hỏi ở mức cao, kể cả trong tương lai. Đây có thể được xem
như cơ hội của ngành xây dựng nói chung và Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây
dựng Đa Lộc nói riêng.
Chính sách tiền tệ và tỉ giá hỗi đoái:Trên thực tế, nếu tỷ lệ lạm phát cao là mối
đe dọa dẫn đến doanh nghiệp không thể làm chủ việc kiểm soát giá cả, chi phí và tiền
công, cụ thể nó gây ra tăng chi phí sản xuất, tăng chi phí tiền lương trong trường hợp
nhà nước có quyết định điều chỉnh mức lương cơ bản để bù giá. Nếu không cũng gây
khó khăn cho đời sống của người làm công ăn lương dẫn đến giảm nhiệt tình và năng

suất lao động. Lạm phát và tỷ giá tăng lên, dự án đầu tư trở nên mạo hiểm hơn, rút cục
các doanh nghiệp sẽ giảm nhiệt tình đầu tư phát triển sản xuất.
Với Công ty cổ phần đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc các chính sách tiền tệ,
tỷ giá hối đoái và lạm phát cao như giai đoạn hiện tại có gây tăng chi phí nhập khẩu
thiết bị dự phòng và thay thế thường xuyên, những ảnh hưởng này không thực sự lớn
và không tác động xấu đến động sản xuất của Công ty. Tuy nhiên, lạm phát sẽ ảnh
hưởng mạnh đến Công ty khi thực hiện các dự án đầu tư trong giai đoạn tới. Nó gây ra
tăng chi phí chi phí nhập khẩu thiết bị, chi phí xây dựng, đồng thời phát sinh các rủi ro
dự án đầu tư của Công ty…
1.3.1.3. Môi trường văn hóa xã hội
Mỗi quốc gia đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội mang tính đặc
trưng, và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó.
Những giá trị văn hóa là những yếu tố làm nên một xã hội, có thể vun đắp cho
xã hội đó tồn tại và phát triển. Chính vì thế các yếu tố văn hóa thông thường được bảo
vệ hết sức quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là các văn hóa tinh thần. Bên cạnh văn hóa,
các đặc điểm về xã hội cũng khiến các doanh nghiệp quan tâm khi nghiên cứu thị
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

23


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

trường, những yếu tố xã hội sẽ chia cộng đồng thành các nhóm khách hàng, mỗi nhóm
có những đặc điểm, tâm lý, thu nhập… khác nhau:
- Tuổi thọ trung bình, tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, ăn uống;
- Thu nhập trung bình, phân phối thu nhập;
- Lối sống, học thức, các quan điểm về thẩm mỹ, tâm lý sống;

- Điều kiện sống;
Đây là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Nó quyết
định mức độ chất lượng, số lượng, chủng loại, gam hàng… Doanh nghiệp cần thiết
phải nắm bắt những yếu tố này và nghiên cứu làm sao phù hợp với sức mua, thói quen
của người tiêu dùng, mức thu nhập bình quân của tầng lớp dân cư. Những yếu tố này
tác động một cách gián tiếp lên quá trình sản xuất cũng như công tác marketing và
cuối cùng là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.1.4. Môi trường thông tin
Sự phát triển như vũ bão ngày nay của cách mạng khoa học kỹ thuật đang làm
thay đổi nhanh chóng nhiều lĩnh vực sản xuất, trong đó thông tin là yếu tố đóng vai trò
rất quan trọng. Thông tin được coi là hàng hoá, đối tượng kinh doanh và nền kinh tế
thị trường hiện nay là một nền kinh tế thông tin hoá. Để đạt được thành công khi sản
xuất kinh doanh trong điều kiện môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt
các doanh nghiệp rất cần nhiều thông tin chính xác về cung cầu thị trường hàng hoá,
về người mua, về đối thủ cạnh tranh... Ngoài ra doanh nghiệp rất cần đến các thông tin
về kinh nghiệm thành công hay thất bại của các doanh nghiệp khác, các thông tin về
các thay đổi trong chính sách kinh tế của Nhà nước. Kinh nghiệm thành công của
nhiều doanh nghiệp cho thấy nắm được thông tin cần thiết, biết xử lý và sử dụng thông
tin đó một cách kịp thời là một điều kiện rất quan trọng để doanh nghiệp ra các quyết
định kinh doanh cao, đem lại cho doanh nghiệp những thắng lợi trong cạnh tranh.
Những thông tin chính xác kịp thời là cơ sở vững chắc để xác định phương hướng kinh
doanh của doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch
định các kế hoạch sản xuất ngắn hạn. Nếu như không được cung cấp thông tin một
cách thường xuyên, liên tục không có thông tin cần thiết trong tay và xử lý một cách
kịp thời thì doanh nghiệp không có cơ sở để ban hành các quyết định kinh doanh dài
và ngắn hạn và do đó dẫn đến thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.3.1.5. Môi trường quốc tế
Không ai phủ nhận toàn cầu hóa đang là xu thế tất yếu. Xu thế này tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp, các quốc gia trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh.


NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

24


Đại học Kinh tế Quốc dân

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp

- Toàn cầu hóa tạo ra sức ép cạnh tranh cho các doanh nghiệp, các đối thủ đến
từ mọi khu nơi trên thế giới. Quá trình hội nhập sẽ khiến các doanh nghiệp phải điều
chỉnh phù hợp với lợi thế so sánh, phân công lao động của khu vực và của cả thế giới.
- Điều quan trọng là khi hội nhập, các rào cản về thương mại sẽ dần dần được
gỡ bỏ, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội giao thương với các đối tác ở cách xa khu vực
địa lý, khách hàng của các doanh nghiệp lúc này không chỉ là khách hàng trong nước
nơi doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh mà còn các khách hàng đến từ khắp mọi
nơi, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3.1.6. Môi trường tự nhiên
Quá trình xây dựng chiến lược cần quan tâm đến yếu tố môi trường khí hậu và
sinh thái. Sự đe dọa của những thay đổi không dự báo đựơc về khí hậu phải được các
doanh nghiệp sản xuất có tính mùa vụ xem xét một cách cẩn thận. Công ty cổ phần
đầu tư phát triển xây dựng Đa Lộc là doanh nghiệp thi công xây dựng nên hoạt động
thi côngthường diễn ra ngoài trời, chịu sự tác động trực tiếp của thiên nhiên, thời tiết
nên việc thi công ở mức độ nào đó mang tính thời vụ. Do đặc điểm này, trong quá
trình thi công cần quản lý lao động, vật tư chặt chẽ, thi công nhanh, đúng tiến độ khi
điều môi trường, thời tiết thuận lợi. Trong điều kiện thời tiết không thuận lợi ảnh
hưởng đến chất lượng công trình có thể phải đi làm lại và các thiệt hại phát sinh do
ngừng sản xuất. Doanh nghiệp cần có chế độ điều độ cho phù hợp, nhằm tiết kiệm chi
phí, hạ gía thành.
1.3.2. Nhân tố vi mô

1.3.2.1. Lực lượng lao động
Cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất thì khoa học kỹ thuật công nghệ
đã trở thành lực lượng lao động quan trọng. Điều kiện tiên quyết quan trọng để tăng
hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp là áp dụng kỹ thuật hiện đại. Tuy nhiên dù
máy móc tiên tiến đến đâu đều do con người tạo ra. Nếu không con người với óc sang
tạo của mình thì không thể có các máy móc thiết bị đó. Mặt khác, máy móc thiết bị dù
có hiện đại thì cũng phải phù hợp với trình độ phân công tổ chức, kỹ thuật, trình độ sử
dụng máy móc thiết bị của người lao động. Thực tế đã cho thấy nhiều doanh nghiệp do
trình độ của người lao động để thích nghi với máy móc hiện đại đòi hỏi phải trải qua
quá trình đào tạo tốn kém thời gian, do đó năng suất lao động không cao dẫn đến hiệu
quả sản xuất kinh doanh thấp.
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, lao động của doanh nghiệp có thể sáng
tạo ra công nghệ, kỹ thuật và đưa những công nghệ hiện đại đó vào sử dụng tạo ra tiềm
năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Cũng chính lực lượng lao
động sáng tạo ra sản phẩm mới và kiểu dáng phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng
NGUYỄN HỮU CƯỜNG MINH

25


×