Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

BÀI GIẢNG KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYÊN đề KINH tế VI mô và các mục TIÊU KINH tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.38 KB, 18 trang )

1
Chuyên đề
KINH TẾ VĨ MÔ VÀ CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ
1. Những vấn đề chung về kinh tế học vĩ mô
1.1. Khái niệm
Kinh tế học vĩ mô - một phân ngành của kinh tế học - nghiên cứu sự vận
động và những mối quan hệ kinh tế chủ yếu của một đất nước trên bình diện toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế vĩ mô là một khái niệm nói đến những vấn đề chung, bao trùm cả
nền kinh tế. Kinh tế vĩ mô nghiên cứu những vấn đề kinh tế cơ bản của một quốc
gia. Cụ thể là nghiên cứu sự lựa chọn những mục tiêu kinh tế chủ yếu và những
công cụ thích hợp để điều tiết toàn bộ nền kinh tế phù hợp với những mục tiêu đã
đặt ra.
1.2. So sánh kinh tế vĩ mô với kinh tế vi mô và kinh tế chính trị
Giữa kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô có sự khác nhau về phạm vi tiếp cận.
Nói đến kinh tế vi mô là nói đến những vấn đề kinh tế cụ thể của các tế bào của
nền kinh tế quốc dân (DN, hộ tiêu dùng) như cung, cầu, giá cả của 1 mặt hàng cụ
thể để các chủ thể kinh tế đó quyết định SX hay TD’ một loại hàng hoá, DV nào
đó, lựa chọn 1 loại công nghệ cụ thể v.v... Trong khi đó, nói đến kinh tế vĩ mô
người ta dành sự quan tâm đến những vấn đề kinh tế chung, bao trùm của quốc gia
như: AD, AS, lạm phát, thất nghiệp, (GNP), (GDP), tiêu dùng, tiết kiệm, đầu
tư, công bằng XH.v.v.
Với kinh tế chính trị (Đối tượng và phương pháp nghiên cứu của kinh tế
chính trị (xem lại GT).
1.3. Nội dung và các phạm trù cơ bản của môn học
Kinh tế vĩ mô quan tâm nghiên cứu bao gồm mức sản xuất, thất nghiệp, mức
giá cả chung và cán cân thương mại của một nền kinh tế. Phân tích kinh tế vĩ mô
hướng vào giải đáp câu hỏi: Điều gì quyết định giá trị hiện tại của các biến số này?
Điều gì quyết định sự thay đổi của các biến số này trong ngắn hạn và dài hạn?.



2
Nói một cách khác, kinh tế vĩ mô nghiên cứu sự lựa chọn của mỗi quốc gia
trước những vấn đề kinh tế - xã hội (hay các phạm trù) cơ bản như: Tăng trưởng
kinh tế, lạm phát, thất nghiệp, xuất nhập khẩu hàng hoá và tư bản, sự phân phối
nguồn lực và phân phối thu nhập giữa các thành viên trong nền kinh tế.
Một quốc gia có thể có những lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào các ràng
buộc về nguồn lực kinh tế và hệ thống chính trị - xã hội. Song sự lựa chọn đúng
đắn nào cũng cần đến sự hiểu biết sâu sắc về các hoạt động mang tính khách quan
về hệ thống kinh tế.
1.4. Phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế vĩ mô
Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế
vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng thể. Theo phương
pháp này, kinh tế vĩ mô xem xét sự cân bằng đồng thời của tất cả các thị trường:
thị trường hàng hoá, thị trường các yếu tố đầu vào, thị trường tài chính. Xem xét
đồng thời khả năng cung cấp sản lượng và khả năng tiêu dùng của toàn bộ nền KT,
từ đó xác định đồng thời mức giá cả và sản lượng cân bằng của nền kinh tế. Đây là
nhân tố quyết định đến hiệu quả của hệ thống kinh tế.
Kinh tế vĩ mô còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu, phân tích phổ
biến như tư duy trừu tượng, phân tích thống kê, mô hình toán và đặc biệt là các mô
hình kinh tế lượng chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong phân tích kinh tế vĩ
mô. Hay nói cách khác, kinh tế học vĩ mô sử dụng tích cực phương pháp mô hình
hóa; gần như mỗi một hiện tượng kinh tế vĩ mô lại được mô tả bằng một mô hình
riêng với những giả thiết riêng; do cách nhìn nhận các giả thiết khác nhau, nên
trong kinh tế học vĩ mô tồn tại nhiều trường phái.
1.5. Tổ chức nền kinh tế và vai trò kinh tế của chính
phủ
* Ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế: Do khả năng sản xuất của nền kinh tế có
giới hạn, đồng thời do nguồn tài nguyên khan hiếm cho nên con người cần phải
giải đáp ba vấn đề cơ bản sau (kể cả đối với các QG giàu hay nghèo hoặc bất cứ
một tổ chức KT nào):



3
- Sản xuất cái gì, bao nhiêu (What): mỗi xã hội cần phải quyết định xem nên
sản xuất nhiều thực phẩm hay súng đạn, nhiều hàng cao cấp hay hàng chất lượng
thấp, nhiều hàng dành cho tiêu dùng hiện tại hay hàng đầu tư để phục vụ cho sản
xuất và tương lai,….
- Sản xuất như thế nào (How): Nên sản xuất bằng nguồn lực nào, dùng loại
kỹ thuật gì, ai là người quyết định cho quá trình sản xuất đó?
- Sản xuất cho ai (Who): Xã hội nên phân chia thu nhập cho mọi người
ngang bằng nhau hay chênh lệch nhau, nên có một ít người giàu bên cạnh nhiều
người nghèo hay không, nên danh nhiều thu nhập cho quan chức hay bác sỹ và
công nhân,…
* Các phương thức giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản của các nền kinh tế
- Kinh tế truyền thống: Ba vấn đề trên được quyết định theo tập quán, được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Nền kinh tế thị trường thuần túy (Market Economy). Đó là nền kinh tế theo
đuổi các mục đích kinh doanh thuần túy. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường thuần
túy cũng có rất nhiều nhược điểm: như độc quyền, cá lớn nuốt cá bé, lạm phát và
thất nghiệp, dịch vụ công và các lợi ích công cộng bị bỏ rơi, luôn ở trong tình trạng
khan hiếm hoặc thiếu hụt, cuối cùng là khủng hoảng của nền kinh tế.
- Nền kinh tế chỉ huy (command Economy). Ngược lại kinh tế thị trường,
trong nền kinh tế chỉ huy CP là người quyết định toàn bộ, điển hình là nền kinh tế
Liên Xô cũ. Việt Nam trước đây cũng định hướng theo mô hình kinh tế chỉ huy.
Trong nền kinh tế này, ủy ban kế hoạch nhà nước là trung tâm điều khiển mọi hoạt
động kinh tế đi theo một kế hoạch thống nhất. Mọi người chỉ cần thực hiện nhiệm
vụ của mình theo sự phân công trực tiếp hay gián tiếp của CP.
- Nền kinh tế thị trường: Các vấn đề cơ bản được giải quyết thông qua cơ
chế thị trường, trong đó cá nhân người tiêu dùng và doanh nghiệp tác động lẫn
nhau trên thị trường để xác định giá cả, sản lượng, lợi nhuận, thu nhập…

- Nền kinh tế hỗn hợp: Các vấn đề cơ bản của nền kinh tế được thực hiện
thông qua cả cơ chế thị trường và sự điều tiết vĩ mô của nhà nước được mô tả bằng


4
việc vỗ tay bởi hai bàn tay.
* Vai trò kinh tế của chính phủ
Trong nền kinh tế hỗn hợp, chính phủ đồng thời cũng là người sản xuất và
người mua nhiều hàng hóa, dịch vụ. Ngoài nhiệm vụ thông thường về công an, tòa
án, an ninh, giáo dục…chính phủ còn cung cấp các dịch vụ vận tải, thông tin liên
lạc, năng lượng…chính phủ còn sở hữu nhiều doanh nghiệp. Với tư cách là người
sản xuất, chính phủ tác động vào giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản giống như
doanh nghiệp tư nhân, song động lực thúc đẩy thực hiện nhiệm vụ này phức tạp
hơn nhiều.
Ở tầm vĩ mô, vai trò kinh tế của Chính phủ thể hiện 3 chức năng chủ yếu:
- Chức năng nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu dùng. Thực hiện chức năng
này nhằm hạn chế tác động tiêu cực bên trong (cạnh tranh không hoàn hảo hay có
nhân tố độc quyền) và bên ngoài thị trường (gây ô nhiễm mà không trả phí) bằng
các đạo luật chống độc quyền hay đạo luật điều tiết hoạt động của doanh nghiệp
hoặc cá nhân để nhằm ngăn chặn các tiêu cực bên ngoài thị trường.
- Chức năng thực hiện công bằng trong phân phối bằng các biện pháp và
chính sách phân phối lại thu nhập, chính sách thuế, chính sách hỗ trợ, bảo hiểm,
chi tiêu ngân sách…
- Chức năng duy trì ổn định kinh tế. Trong nền kinh tế do có sự thăng trầm
của chu kỳ kinh doanh làm cho kinh tế vĩ mô không ổn định, chính phủ phải dùng
chính sách tài khóa và tiền tệ để tác động đến sản lượng, việc làm, lạm phát…để
giảm thiểu những dao động của chu kỳ kinh doanh.
1.6. Lịch sử phát triển của lý thuyết kinh tế vĩ mô (các
trường phái kinh tế học vĩ mô)
* Trường phái Keynes chính thống

Kinh tế học Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết
tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết tổng
quát) của John Maynard Keynes (1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu
hữu hiệu làm nền tảng. Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng


5
hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu
tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng), thì sản xuất
và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Mặc dù ủng hộ thị trường tự do, song trường phái Keynes vẫn cho rằng vai
trò ổn định kinh tế vĩ mô của chính phủ là không thể thiếu vì thị trường không
hoàn hảo. Các nhà kinh tế trường phái Keynes tin rằng tổng cầu chịu tác động của
một loạt các quyết định kinh tế - cả của tư nhân lẫn của nhà nước - và thường thiếu
ổn định. Trường phái Keynes còn khẳng định những biến động của tổng cầu có tác
động rất lớn trong ngắn hạn tới sản lượng thực tế và tới việc làm, nhưng không tác
động tới vật giá - hay vật giá cứng nhắc. Chính vì vật giá cứng nhắc nên khi chi
tiêu cho tiêu dùng, đầu tư hay chi tiêu của chính phủ thay đổi thì tổng cầu cũng sẽ
thay đổi. Chính sách tài khóa (thuế, chi tiêu cộng cộng), vì thế, có sức mạnh đáng
kể để khắc phục sự thiếu ổn định của tổng cầu. Tuy nhiên, chính sách tiền tệ không
có hiệu lực gì cả.
* Trường phái tổng hợp
Kinh tế học vĩ mô tổng hợp là một trường phái kinh tế học vĩ mô dựa
trên việc tổng hợp các học thuyết của kinh tế học tân cổ điển với kinh tế học vĩ
mô Keynes.
Kinh tế học vĩ mô tổng hợp là một trường phái kinh tế học vĩ mô dựa trên
việc tổng hợp các học thuyết của kinh tế học tân cổ điển với kinh tế học vĩ mô
Keynes. Trường phái này lấy cân bằng tổng thể của kinh tế học tân cổ điển làm
khung, bổ sung thêm lý luận cầu hữu hiệu của kinh tế học Keynes, và sử dụng tích
cực phân tích IS-LM của Hicks. Phái này cho rằng dựa vào chính sách điều chỉnh

cầu hữu hiệu của nhà nước có thể đạt được trạng thái toàn dụng nhân lực như kinh tế
học tân cổ điển nhìn nhận và đẩy mạnh được tăng trưởng kinh tế. Các mô hình kinh
tế lượng sẽ giúp nhà nước tính toán và điều chỉnh cầu hữu hiệu một cách hiệu quả.
* Trường phái trọng tiền
Trường phái Trọng tiền (còn gọi là phái Chicago) đứng đầu là Milton
Friedman1 đã cổ vũ nhiệt tình cho một nền kinh tế thị trường tự do không có sự can
1

Milton Friedman (1912 - 2006) Nhà kinh tê' học Mỹ, được giải Nobel Kinh tê' năm 1976.


6
thiệp của chính phủ. Theo phái Trọng tiền, sự can thiệp của nhà nước thường phá
vỡ những cân bằng tự nhiên của thị trường - do vậy có hại cho nền kinh tế... Milton
Friedman chủ trương để cho nền kinh tế thị trường tự do điều tiết, nhà nước can
thiệp chỉ làm xấu thêm tình hình của thị trường, vì nếu thị trường có khuyết tật thì
bản thân nhà nước cũng có khuyết tật của nó. Một số đại biểu khác thì khẳng đinh
trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không thể bác bỏ nhà nước, nhưng họ đòi hỏi
nhà nước phải điều tiết, điều chỉnh nền kinh tế theo những qui tắc có tính chuẩn
mực đồng thời kiên quyết phản đối cách điều tiết theo kiểu tuỳ hứng của các chủ
thể quản lý. Họ cho rằng, đó là một khuynh hướng khó tránh khỏi, vì theo kinh
nghiệm, khi ban hành các quyết định quản lý, chính phủ thường thiên về lợi ích
của bản thân mình hơn là lợi ích của dân chúng. Chính vì vậy cần xác lập một hệ
thống nguyên tắc của chính sách mang tính khách quan, độc lập với ý muốn chủ
quan tuỳ tiện của Chính phủ. Trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô, chính sách
cơ bản và quan trọng nhất chính là chính sách tiền tệ.
Tóm lại: Trường phái trọng tiền là hệ thống các học thuyết và lý luận kinh tế
vĩ mô liên quan đến tiền tệ, một biến số kinh tế quan trọng. Trường phái trọng tiền
không ủng hộ việc lạm dụng chính sách tiền tệ để ổn định chu kỳ kinh tế. Họ đề
nghị để tiền tệ trung lập hoặc chỉ nên giữ cho tốc độ tăng cung tiền chậm, ổn định

và vừa đúng bằng tốc độ tăng sản lượng thực tế. Các lý luận chính của chủ nghĩa
tiền tệ gồm: Hàm cầu tiền của Friedman, thuyết số lượng tiền tệ mới, khái niệm tỷ
lệ thất nghiệp tự nhiên, v.v...
* Phái

Trọng cung thì cho rằng, nguyên nhân làm nền kinh tế Mỹ suy yếu cả

ở trong nước và cả trên thị trường quốc tế những năm 1970 nằm ngay trong chính
sách kinh tế của nhà nước Mỹ. M. Feldstein2 khẳng định: “.. .việc nhà nước sử
dụng sai chính sách tiền tệ - tín dụng đã làm toàn bộ nền sản xuất bất ổn định và
nạn lạm phát phát triển nhanh chóng.” 3 Trường phái trọng cung phủ nhận tính hiệu
quả của chính sách tài khoá và hiệu lực khuyếch đại vào sản lượng của “lý thuyết
số nhân” của J.M. Keynes. Họ đề cao một chính sách kinh tế giảm bớt sự can thiệp
2
3

Chủ tịch hội đồng cố' vân kinh tế' của tổng thống Mỹ R. Reagan.
L. S. Economy in the translation peniod, Chicago Univesity Press,1980.


7
trực tiếp của nhà nước bằng cách kết hợp giữa giảm thuế và bãi bỏ các qui định
hạn chế gây cản trở cho sức cung. Hơn nữa, họ còn cho rằng nhà nước cần phải từ
bỏ chính sách phân phối lại, vì “nhà nước càng ra tay can thiệp để chữa trị bệnh
nghèo túng thì số người nghèo túng càng tăng lên.”
Tóm lại: Trường phái trọng cung đề cao mặt cung cấp của các hoạt động
kinh tế. Nhấn mạnh việc nâng cao năng suất lao động và nâng cao năng lực cung
cấp của nền kinh tế nhằm mục đích nâng cao tốc độ tăng trưởng tiềm năng.
* Trường phái kinh tế vĩ mô mong đợi hợp lý cho rằng, đa số chính sách của
nhà nước ít có tính hiệu quả, hoặc chỉ đạt hiệu quả ở mức rất thấp. Xuất phát từ giả

đính trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ứng xử kinh tế của mọi người đều dựa
trên những dự liệu hợp lý, dân chúng có thể hiểu biết về tình trạng của nền kinh tế
không kém gì nhà nước và các nhà kinh tế học chuyên nghiệp. Cùng với kinh
nghiệm của mình, dân chúng có thể dự liệu một cách hợp lý những tình huống kinh
tế có thể xảy ra trong tương lai gần, và từ đó sẽ điều chỉnh hoạt động kinh tế. Vì
vậy, chính sách kinh tế của nhà nước chỉ có hiệu quả nhất định đối với mức sản
lượng và việc làm khi sự điều chỉnh này gây ra sự bất ngờ đối với dân chúng, khiến
cho dân chúng hiểu sai tình hình kinh tế. Tuy nhiên, hiệu quả của các chính sách
điều tiết của chính phủ cũng chỉ là nhất thời vì trong điều kiện thiết chế tự do dân
chủ được xác lập vững chắc, dân chúng hoàn toàn có thể chủ động trong việc tự
điều chỉnh cách ứng xử, và cách gây bất ngờ của chính phủ ở những lần ra chính
sách khác sẽ không có hiệu quả.
* Trường phái chính hiện đại. Đại biểu là P.A. Samuelson4 với quan điểm về
nền kinh tế hỗn hợp. Samuelson cho rằng, “điều hành một nền kinh tế không có
chính phủ hoặc thị trường thì cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay.” [8] Để đảm
bảo được ba tiêu chí cơ bản của nền kinh tế: hiệu quả, công bằng và ổn định, cách
tốt nhât là phải áp dụng mô hình kinh tế hỗn hợp trong đó cơ chế thị trường xác
định giá cả và sản lượng, nhât là đối với các lĩnh vực quan trọng, còn chính phủ
điều tiết thị trường bằng những chương trình thuế, các hoạt động chi tiêu và luật lệ.
Cả hai bên: chính phủ và thị trường đều có tính thiết yếu, nhưng phải xác định thật
4

P. A. Samuelson (sinh năm 1915-2009), nhà kinh tế' Mỹ, được giải Nobel kinh tế' năm 1970


8
rõ ranh giới, ở đâu, lĩnh vực nào thì để thị trường điều tiết còn ở đâu, lĩnh vực nào
thì chính phủ phải điều tiết. Tuy nhiên, trên thực tế, điều khó khăn nhất đối với
điều hành kinh tế của các chính phủ là xác đinh được ranh giới này.
- Vận dụng trên thế giới và ở Việt Nam

Từ những lý thuyết kinh tế chính trên thế giới và các mô hình thực tiễn về
vai trò của nhà nước trong kinh tế thị trường ở một số quốc gia, cho thấy: Nền kinh
tế mới của thế giới đang định hình, đòi hỏi tư duy thích ứng về bàn tay quản lý của
nhà nước trong khi thực hiện các nguyên tắc kinh tế thị trường, tránh cực đoan,
phiến diện trong nhận thức, tăng cường sự phối hợp đồng bộ các công cụ và cấp độ
quản lý, giám sát chặt chẽ và chủ động xử trí kịp thời các tác động mặt trái của
kinh tế thị trường. Do vậy, sự linh hoạt của nhà nước trong điều hành kinh tế, việc
vận dụng “hai bàn tay” - cả vô hình lẫn hữu hình mới là yếu tố quan trọng thúc đẩy
nền kinh tế thị trường phát triển.
Ở Việt Nam, vận dụng các trường phái vào nền kinh tế, chúng ta có thể kiểm
nghiệm lại việc giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước với thị trường thời gian qua.
Trải qua gần 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những thành công bước đầu trong
việc hình thành và hoàn thiện cơ chế thị trường, cũng như điều chỉnh vai trò tương
ứng của nhà nước trong nền kinh tế. Trước hết, đó là sự thay đổi cơ bản quan niệm
về chức năng của nhà nước trong nền kinh tế. Nếu Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII chỉ dừng lại ở mức độ xác định nhiệm vụ: “Bộ máy nhà nước từng bước
chuyển sang chức năng quản lý nhà nước, khắc phục dần sự can thiệp vào điều
hành kinh doanh...” thì đến Đại hội VIII, quan điểm này được cụ thể hóa hơn:
“Nhà nước định hướng phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực, thiết lập
khuôn khổ pháp luật, xây dựng chính sách nhất quán, phân phối lại thu nhập, hạn
chế tiêu cực của cơ chế thị trường.” Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác
định rõ định hướng đổi mới chính sách căn bản là: “Tiếp tục đổi mới các công cụ
quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Đổi mới hơn nữa công tác kế
hoạch hóa, nâng cao công tác xây dựng các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội.” Nhà nước cũng đã bước đầu phát huy vai trò của mình


9
trong việc sửa chữa những “khiếm khuyết của thị trường” thông qua các chính sách
bảo trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tuy nhiên,

những chuyển biến tích cực trong việc xác định lại vai trò kinh tế của Nhà nước
thời gian qua vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thời kỳ phát triển mới. Nhiều
thách thức mới nảy sinh như: chưa có sự phân định rõ vai trò “nhà nước là chủ thể
quản lý kinh tế” và vai trò “nhà nước là một nhà đầu tư phát triển;” phương thức
quản lý nhà nước về kinh tế còn nặng về can thiệp hành chính, còn mang tính ngắn
hạn và bị động; nhà nước còn can thiệp quá sâu vào quá trình vận hành của kinh tế
thị trường; năng lực bộ máy quản lý nhà nước còn hạn chế. Những thách thức trên
cho thấy, việc xác định vai trò kinh tế của nhà nước là một quá trình khó khăn,
phức tạp.
2. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
2.1. Tăng trưởng kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của sản lượng thực tế trong một thời kì
nhất định. Mục tiêu của Chính phủ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và
vững chắc, đạt mức sản lượng thực tế cao. Có nhiều tiêu chí để đo lường tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Hiện nay các nước đi theo mô hình KTTT đều dựa vào các chỉ
tiêu đo lường sản lượng quốc gia là: tổng sản phẩm quốc dân (GNP), tổng sản
phẩm quốc nội (GDP).
- GNP là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và DV
cuối cùng mà một quốc gia SX ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm)
bằng các yếu tố SX của mình.
Dùng thước đo tiền tệ để đo lường giá trị SP là thuận lợi vì thông qua giá cả
thị trường có thể cộng giá trị của các loại HH, DV có hình thức và nội dung vật
chất khác nhau. Tuy nhiên, giá cả lại là một thước đo co dãn. Do vậy để khắc phục,
người ta thường sử dụng cặp khái niệm GNP danh nghĩa và GNP thực tế.
n
GNP = Σ

qi . pi ( qi là sản lượng và pi là giá hàng thứ i, với i =1

n)

i=1


10
+ GNP danh nghĩa là GNP tính theo giá hiện hành (Ký hiệu: GNPn)
+ GNP thực tế đo lường tổng sản phẩm quốc dân theo giá cố định ở một
thời kỳ lấy làm gốc. (Ký hiệu: GNPr)
Chỉ tiêu GNP danh nghĩa và GNP thực tế được dùng cho các mục tiêu phân
tích khác nhau. Khi muốn nghiên cứu mối quan hệ tài chính, ngân hàng người ta
thường dùng GNP danh nghĩa; còn khi phân tích tốc độ tăng trưởng kinh tế người
ta lại dùng GNP thực tế.
- GDP là tổng giá trị bằng tiền của các hàng hoá và DV cuối cùng được sản
xuất ra trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nhất định thường là một
năm, không kể ai là chủ sở hữu của các yếu tố sản xuất.
GDP không bao gồm kết quả hoạt động của công dân nước sở tại tiến hành ở
nước ngoài, song lại tính cả kết quả của công dân nước ngoài sản xuất tại nước đó.
Giữa GNP và GDP có mối quan hệ với nhau, theo đó:
GNP = GDP + Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài
Hay

GDP = GNP - Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài

(Thu nhập ròng từ tài sản ở nước ngoài – thuật ngữ chỉ phần chênh lệch giữa
thu nhập của công dân nước ta ở nước ngoài và của công dân nước ngoài ở nước ta)
- Để tính tốc độ tăng trưởng kinh tế, người ta dựa vào công thức sau đây:
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế GNP =
thời gian t so với thời gian t-1

GNPrt - GNPrt-1
x 100

GNPrt-1

- Chỉ tiêu GNP và GDP là những thước đo về thành tựu KT của một đất
nước. Người ta thường dùng chỉ tiêu này và chỉ tiêu GNP/người, GDP/người để so
sánh quy mô SX của các nước. Tuy nhiên những thước đo này cũng có nhiều
khuyết tật, vì chúng không phân biệt những SX tốt và xấu, đánh đồng việc SX
phục vụ nâng cao đời sống với SX vũ khí, các loại HH gây ô nhiễm môi trường.
Do vậy, từ những năm 80 của thế kỷ XX người ta đưa ra một loạt chỉ tiêu khác để
đo lường thành tựu KT của các nước, thí dụ như:
+ Phúc lợi kinh tế ròng (NEW)


11
NEW = GNP + Thu nhập không báo + giá trị của việc - Thiệt hại do
cáo, không trao đổi
hưởng thụ thời
hoạt động KT
trên thị trường
gian nhàn rỗi
gây ra
+ Chỉ số phát triển nhân lực (HDI). HDI dựa vào 3 biến số: tuổi thọ bình
quân, trình độ học vấn, GDP bình quân trên đầu người.
+ GDP, GNP bình quân tính theo sức mua tương đương (PPP).
Sức mua tương đương (PPP - purchasing power parity) là một kiểu tính tỷ
giá hối đoái giữa đơn vị tiền tệ của hai nước. Các nhà kinh tế học tính xem cùng
một lượng hàng của cùng một thứ hàng hóa khi bán ở hai nước khác nhau bằng
đơn vị tiền tệ của hai nước đó thì số tiền phải bỏ ra ra sao, rồi từ đó so sánh lượng
hai đơn vị tiền tệ.
Phương pháp sức mua tương đương là để loại bỏ yếu tố của giá cả hay nói
cách khác là trả lời câu hỏi với một mức GDP bình quân đầu người của Việt Nam

thì mua được bao nhiêu hàng hoá và dịch vụ ở các nước khác. Ví dụ: Việt Nam
theo số liệu công bố của Liên Hợp Quốc, GDP bình quân đầu người năm 2000 là
1980 USD theo PPP.
2.2. Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp
- Việc làm và thất nghiệp trong nền KTTT là hai vấn đề được toàn XH đặc
biệt quan tâm. Khi không có việc làm thì người LĐ trở thành người thất nghiệp.
Nạn thất nghiệp là một thực tế nan giải của mọi nền KTTT.
- Khi thất nghiệp ở mức cao, SX sút kém, tài nguyên không được sd hết, thu
nhập của dân cư giảm sút. Khó khăn KT sẽ tràn sang lĩnh vực XH. Nhiều hiện
tượng tiêu cực sẽ phát triển. Đó là tác hại của thất nghiệp.
- Có nhiều khái niệm khác nhau về thất nghiệp. Dưới đây là một khái niệm
được nhiều nhà KT tán đồng. Theo đó, thất nghiệp là những người đang ở trong
độ tuổi LĐ, có khả năng LĐ mà hiện chưa có việc làm, dù đang mong muốn và cố
gắng kiếm việc làm.
- Tỷ lệ thất nghiệp là tỷ lệ % số người thất nghiệp so với tổng số người trong
độ tuổi LĐ. Tỷ lệ thất nghiệp là một tiêu chí phản ánh khái quát tình trạng thất
nghiệp của một quốc gia.


12
- Thất nghiệp là 1 hiện tượng phức tạp, có nhiều cách phân loại thất nghiệp:
+ Phân loại theo nguồn gốc thất nghiệp, người ta chia thành thất nghiệp tạm
thời, thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp do thiếu cầu. Loại thứ nhất xảy ra khi có
một số người LĐ đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm tốt hơn,
phù hợp với ý muốn riêng, hoặc những người mới bước vào thị trường LĐ đang
tìm kiếm việc làm hay đang chờ đợi việc làm. Loại thứ hai xảy ra khi có sự mất
cân đối giữa cung và cầu các loại LĐ: ngành nghề, khu vực,... Loại này gắn liền
với sự biến động cơ cấu KT và khả năng điều chỉnh cung của các thị trường LĐ:
đào tạo lại, môi giới... Loại thứ ba xảy ra khi mức cầu chung về LĐ giảm xuống
mà nguồn gốc chính là sự suy giảm AD. Loại này còn được gọi là thất nghiệp chu

kỳ, gắn liền với thời kỳ suy thoái của chu kỳ KD.
+ Phân loại theo hành vi thất nghiệp, người ta chia thành 2 loại: thất nghiệp tự
nguyện và thất nghiệp không tự nguyện. Thất nghiệp tự nguyện là bộ phận LĐ không
có việc làm do công việc và tiền lương không đáp ứng nguyện vọng của họ. Thất
nghiệp không tự nguyện là một bộ phận của lực lượng LĐ không có việc làm do sự
suy thoái của tổng cầu mặc dù họ mong muốn làm ở mức lương hiện hành.
- Ngoài ra người ta còn đưa ra một khái niệm mới là tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên dựa trên cơ sở xem xét sự cân bằng của thị trường LĐ. Đó là tỷ lệ thất
nghiệp khi thị trường LĐ đạt được sự cân bằng. Tại đó thất nghiệp chỉ bao gồm
những người LĐ không muốn đi làm do mức tiền lương k0 như mong muốn. Đó
chính là tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất mà XH có thể chấp nhận được mà không đi
kèm lạm phát cao. Người ta gọi đó là tình trạng toàn dụng nhân công.
- Mục tiêu của CP’ là phải tạo nhiều công ăn việc làm, hạ thấp tỷ lệ thất
nghiệp và duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên, hoặc ở mức kiểm soát được. Ở nước
ta, theo Ban chỉ đạo điều tra lao động và việc làm quốc gia thì mức tỷ lệ thất
nghiệp dưới 5% được coi là kiểm soát được.
Để thực hiện mục tiêu này, cần phải thực hiện nhiều chính sách, biện pháp
nhằm khuyến khích đầu tư, thay đổi công nghệ sản xuất, dạy nghề, đào tạo và đào tạo
lại lao động…


13
2.3. Ổn định mức giá chung và kiêm soát lạm phát
- Lạm phát là hiện tượng phổ biến của nền KTTT. Biểu hiện của nó là mức
giá chung của nền KT tăng lên. Trường hợp ngược lại gọi là thiểu phát.
- Mục tiêu của kinh tế vĩ mô là kiểm soát được lạm phát ở mức thấp.
- Người ta phân loại lạm phát theo nhiều tiêu chí khác nhau:
+ Phân loại theo tỷ lệ, người ta có lạm phát vừa phải là lạm phát chấp nhận
được với tỷ lệ < 10% (gọi là lạm phát một con số); lạm phát phi mã với tỷ lệ ≥
10% và ≤ 200%; siêu lạm phát với mức > 200%.

+ Phân loại theo mức độ tác động của lạm phát, người ta thấy có 2 loại là
lạm phát ỳ (thấy được) và lạm phát bất thường (không dự kiến được). Đặc trưng
của lạm phát ỳ là loại lạm phát vừa phải; giá cả tăng một cách đều đặn trong thời
gian dài và mọi hoạt động đều phải điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát đã tính được
trước đó. Ngược lại lạm phát bất thường sẽ gây nhiều tác hại cho SX và đ/sống do
người ta không thể dự kiến trước được mức độ lạm phát.
- Nguyên nhân lạm phát đến từ nhiều lý do, mà suy cho cùng là do số lượng
tiền giấy phát hành trong lưu thông > số lượng tiền cần thiết cho lưu thông.
- Lạm phát tác động mạnh mẽ đến các HĐ SX và Đs:
+ Phân phối lại một cách không hợp lý thu nhập, của cải trong XH, đặc biệt
là gây khó khăn cho đ/sống của người làm công, ăn lương.
+ Làm biến dạng cơ cấu sản xuất và việc làm trong nền kinh tế .
+ Nếu siêu lạm phát kéo dài có thể gây ra sự bùng nổ XH, dẫn đến sự đổ vỡ
của CP’ do không đủ năng lực điều tiết nền KT.
- Để XĐ chỉ số lạm phát, người ta dựa vào chỉ số giá TD’ CPI (consumer
price index), đó là chỉ số giá đo lường chi phí để mua 1 số loại hàng hoá, DV được
ấn định, đại diện cho sự mua hàng người TD’ ở thành thị.
Để tính toán chỉ số giá tiêu dùng người ta tính số bình quân gia quyền theo
công thức Laspeyres của giá cả của kỳ báo cáo (kỳ t) so với kỳ cơ sở. Để làm được
điều đó phải tiến hành như sau:


14
1. Cố định goit hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng
hàng hoá, dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại
mỗi thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng
nhân với giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng

bằng công thức sau:
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.

CPI t = 100% x

Công thức tính chỉ số lạm phát như sau:
CPI t _ CPI t -1
Tỷ lệ lạm phát của năm t =
so với năm (t-1)

x 100
CPI t - 1

Chẳng hạn, tính chỉ số lạm phát CPI năm 2011 so với năm 2010 như sau:
CPI năm 2011 - CPI năm 2010
CPI năm 2010
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu

Chỉ số lạm phát 2011 = 100 x

dùng bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch
vụ so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu
dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn
được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục
đích sử dụng. Ngoài CPI người ta cũng tính toán chỉ số giá bán buôn là mức giá của
giỏ hàng hóa do các doanh nghiệp mua vào, khác với CPI là giá do người tiêu dùng
mua vào (giá bán lẻ). Lưu ý chỉ số giá tiêu dùng năm gốc luôn bằng 1
2.4. Cân bằng xuất - nhập khẩu

Đây cũng là một trong những mục tiêu mà sự điều tiết của CP’ cần hướng tới
trong lĩnh vực KT đối ngoại, nhằm cân bằng cán cân thanh toán. MT hướng tới là
phấn đấu sao cho XK và NK, xét theo giá trị kim ngạch phải cân bằng cán cân


15
thanh toán qtế để k0 có nợ nước ngoài.
Nếu giá trị kim ngạch XK > giá trị kim ngạch NK, gọi là xuất siêu. Nếu
ngược lại, gọi là nhập siêu.
Nếu xuất siêu thì nước xuất siêu sẽ là chủ nợ. Còn nếu nhập siêu thì nước
nhập siêu sẽ thành con nợ. Thông thường, các CP’ đều mong muốn duy trì thăng
bằng hoặc xuất siêu một chút. Còn nếu phải nhập siêu trong một thời gian nào đó
thì cũng chỉ nhập siêu tối thiểu, chủ yếu là TLSX để phục vụ CNH HĐH, do quy
mô đầu tư đòi hỏi rất lớn mà việc SX ra SP để XK phải có thời gian nên thường
xảy ra tình trạng nhập siêu. Điều đáng chú ý là nhập siêu giá trị hàng hoá thuộc
loại TLSX không đáng ngại bằng nhập siêu giá trị hàng hoá TD’. Ngày nay người
ta đưa ra nhiều cách tính giới hạn nhập siêu an toàn. Một trong số đó là tính tỷ lệ
nhập siêu so với xuất khẩu; theo đó, sẽ là an toàn nếu tỷ lệ nhập siêu so với xuất
khẩu ≥ - 25% .
- XK (EX) được tính là tổng giá trị HH XK cùng với thu nhập từ tài sản ở nước
ngoài (thuộc quyền sở hữu của nước XK). XK phản ánh nhu cầu của người nước
ngoài về Hh và DV của nước XK; nó tạo công ăn việc làm cho LĐ trong nước.
- NK (IM) được tính là tổng giá trị hàng hoá NK cùng với thu nhập của
người nước ngoài ở trên đất nước NK. NK phản ánh nhu cầu của trong nước đối
với HH của nước ngoài; nó tạo ra công ăn việc làm cho LĐ nước ngoài.
- Nếu đem tổng giá trị xuất khẩu trừ đi tổng giá trị nhập khẩu ta được một
đại lượng gọi là xuất khẩu ròng, kí hiệu là NX.
NX = EX - IM
ở đây NX > 0 -----> Đó là xuất siêu; NX < 0 -----> Đó là nhập siêu.
2.5. Ổn định tỷ giá hối đoái

- Tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền một nước này so với đồng tiền của
một nước khác. Thông thường người ta ngầm hiểu “Tỷ giá hối đoái” là số lượng
đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ. Thí dụ: 22.000 VNĐ mua
được 1 USD hiện nay.
Người ta thường biểu diễn tỷ giá hối đoái theo cả 2 cách. Thí dụ về tỷ giá


16
giữa đồng Việt nam và USD: VNĐ/ USD hoặc USD/VNĐ.
- Trong thực tế có 2 loại tỷ giá hối đoái cơ bản:
+ Tỷ giá hối đoái cố định: là tỷ giá được (NHTW) mỗi nước quy định gắn
với một đồng tiền nhất định mà mọi việc mua, bán đồng tiền đó đều được tính theo
tỷ giá này. Một trong những hệ thống tỷ giá hối đoái cố định được người ta nói đến
nhiều là hệ thống tỷ giá cố định Bretton Woods (1944-1971) được hình thành tại
hội nghị đa quốc gia nhóm họp ở Bretton Woods, New Hamphise (Mỹ). Tiền của
các nước tham gia hệ thống này được cố định theo đồng Đôla Mỹ và các NHTW
của các nước tham gia có trách nhiệm duy trì các tỷ giá hối đoái của họ bằng việc
mua và bán Đôla trên thị trường ngoại tệ. Hệ thống này bị xoá bỏ vào tháng 8.1971
khi các nước tham gia hệ thống không thể đảm bảo được rằng những đồng USD
cũng có thể chuyển đổi được thành vàng.
+ Hệ thống tỷ giá hối đoái linh hoạt (thả nổi). Đó là các hệ thống tỷ giá hối
đoái được XĐ hoàn toàn bởi các lực lượng cung và cầu của thị trường ngoại hối,
không có sự can thiệp nào của CP’. Tuy nhiên, do tính bất thường và những tác
động mặt trái của KTTT tự do làm cho hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi lên, xuống
thất thường, gây khó khăn lớn cho sự phát triển ổn định của các nền KT.
+ Kết hợp 2 hệ thống tỷ giá hối đoái cơ bản nêu trên, hình thành hệ thống tỷ
giá linh hoạt có quản lý. Đó là hệ thống mà tỷ giá hối đoái được biến đổi phù hợp
với các điều kiện của thị trường, nhưng CP’ vẫn can thiệp để ngăn k0 cho nó vận
động ra ngoài các giới hạn nhất định. Đi theo hướng này, từ năm 1989 nhà nước ta
đã bắt đầu áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có kiểm soát; đồng thời t/xuyên điều

chỉnh cho phù hợp với tỷ giá trên thị trường tự do.
- Mục tiêu của CP’ là duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái chứ k0 phải là
cố định tỷ giá hối đoái (KS’). Sự cần thiết phải duy trì sự ổn định của tỷ giá hối
đoái vì mọi sự biến động xa ra ngoài giới hạn cần thiết của nó đều đem bất lợi cho
tình hình XK hay NK của một quốc gia, do đó ảnh hưởng đến trạng thái cân bằng
cán cân thương mại nói riêng, cán cân thanh toán nói chung. Trong khi đó, bất cứ
quốc gia nào cũng đều vừa tiến hành XK, vừa NK.


17
Nếu dùng phương pháp trực tiếp để chỉ tỷ giá hối đoái thì tỷ giá hối đoái
tăng hay giảm ngược chiều với giá trị đồng nội tệ. Theo đó:
+ Nếu tỷ giá hối đoái giảm so với thực tế, đồng nghĩa với việc lên giá đồng tiền
nội địa, làm cho giá hàng XK trở nên “tương đối đắt” trên thị trường TG, làm giảm
sức cạnh tranh, do đó hạn chế XK; ngược lại, khuyến khích tình trạng NK.
+ Nếu tỷ giá hối đoái tăng cao so với thực tế lại đồng nghĩa với việc giảm
giá đồng nội tệ. Nghĩa là để mua một đơn vị ngoại tệ như cũ, phải bỏ ra số lượng
đồng nội tệ nhiều hơn. Tình hình này làm cho giá hàng XK trở nên “tương đối rẻ”
trên thị trường TG, tăng sức cạnh tranh và khuyến khích XK; hạn chế nhập khẩu.
Để ổn định tỷ giá, điều quan trọng vẫn phải là duy trì sự tăng trưởng ổn định
và liên tục của SX trong nước, giữ được giá trị đồng nội tệ, đồng thời phải có dự
trữ ngoại tệ mạnh để lúc cần thiết nhà nước có thể can thiệp vào thị trường nhằm
duy trì tỷ giá ổn định. Mặt khác, CP’ phải thường xuyên điều chỉnh tỷ giá cho sát
với tỷ giá thực tế trên thị trường, tránh để có khoảng cách lớn giữa tỷ giá kiểm soát
và tỷ giá trên thị trường.
2.6. Cân bằng ngân sách nhà nước và thực hiện công bằng xã hội
Cân bằng NS cũng được xem là một mục tiêu quản lý KTVM, gắn liền với
việc cân bằng cán cân thanh toán. Việc thâm thủng NS lớn phản ánh ở mức bội chi
NS lớn so với thu NS sẽ dẫn đến việc CP’ phải quyết định phát hành và đưa vào
kênh lưu thông tiền tệ quá nhiều tiền giấy. Hệ quả sẽ ảnh hưởng xấu đến sự ổn định

KTVM. Vì thế vấn đề thăng bằng NS lành mạnh có tầm quan trọng đặc biệt, việc
quyết định duy trì mức bội chi NS thường do Quốc hội quyết định
Trong nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, vấn đề công bằng XH được coi
là một mục tiêu quan trọng bởi bản thân cơ chế thị trường thường tự phát dẫn đến sự
phân hoá giàu nghèo, nảy sinh sự mất công bằng mà không thể tự giải quyết. Do đó,
cần phải có sự can thiệp của Nhà nước. Ngay cả ở những nước TB phát triển hiện nay
người ta cũng phải đặt ra việc giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng KT và công bằng
XH, song khác về nguyên tắc và bản chất đối với các nước XHCN.
* Nghiên cứu những mục tiêu trên cần lưu ý:


18
- Những mục tiêu nói trên thể hiện một trạng thái lý tưởng, trong đó sản
lượng đạt mức sản lượng tiềm năng, lạm phát thấp, thất nghiệp ở mức tự nhiên, cán
cân thanh toán cân bằng, tỷ giá hối đoái ổn định. Trong thực tế, các chính sách
KTVM chỉ có thể tối thiểu hoá các sai lệch so với trạng thái lý tưởng.
- Các mục tiêu thường bổ sung cho nhau, trong chừng mực hướng vào việc
đảm bảo tăng trưởng sản lượng của nền KT. Song trong một số trường hợp có thể
xuất hiện những xung đột, mâu thuẫn cục bộ mà các nhà KT thường khái quát
thành mô hình “tứ giác huyền ảo”; ở đó có ba cặp quan hệ:
+ Tăng trưởng và thất nghiệp quan hệ với nhau theo xu hướng: tăng trưởng
cao thì thất nghiệp giảm và ngược lại, thời kỳ nào mà tăng trưởng giảm thì thất
nghiệp tăng. Người ta đã định lượng được mối quan hệ này theo định luật Ocun;
theo đó, khi tăng trưởng 2% thì thất nghiệp giảm 1% và ngược lại.
+ Tăng trưởng và lạm phát cũng có qhệ với nhau theo xu hướng: thời kỳ
tăng trưởng cao liên tục thường kéo theo lạm phát tăng và kiềm chế lạm phát thì lại
làm giảm tốc độ tăng trưởng, do CP’ áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ.
+ Giữa lạm phát và thất nghiệp cũng có quan hệ trong ngắn hạn. Theo đó,
thời kỳ lạm phát cao, thất nghiệp thường thấp và ngược lại, kiềm chế lạm phát lại
kéo theo thất nghiệp tăng cao, do áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, hạn chế đầu tư.

KẾT LUẬN



×