Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

BÀI GIẢNG KINH tế CHÍNH TRỊ CHUYÊN đề một số CHÍNH SÁCH KINH tế vĩ mô CHỦ yếu TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.01 KB, 29 trang )

1

Chuyên đề
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ CHỦ YẾU TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

I. CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG
TRONG HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ
1. Chính sách kinh tế vĩ mô và cách phân loại
* Khái niệm về chính sách kinh tế vĩ mô
Nền kinh tế thị trường thường xuyên có những yếu tố tác động đến tổng
cầu (AD) và tổng cung (AS) tạo nên những biến động kinh tế như: lạm phát,
thất nghiệp, suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Do đó, nhiệm vụ của chính phủ
là phải sử dụng các chính sách và công cụ kinh tế vĩ mô để đưa nền kinh tế trở
lại trạng thái ổn định và phát triển bền vững.
Có nhiều quan niệm nhau về chính sách kinh tế vĩ mô, song có thể hiểu
khái quát: Chính sách KT vĩ mô là tổng thể các phương thức tác động vào nền
kinh tế được thể chế hoá thông qua các công cụ kinh tế như tài chính, tiền tệ,
thu nhập, giá cả… nhằm hướng vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô xác định.
* Cách phân loại chính sách kinh tế vĩ mô
Có thể phân loại theo các cách tiếp cận khác nhau:
Phân loại theo các công cụ tác động, gồm có: Chính sách tài khoá, tiền
tệ, thu nhập, xuất nhập khẩu…
Phân theo mục tiêu kinh tế vĩ mô, thì có: Nhóm các chính sách ổn định
(điều tiết kinh tế) và nhóm các chính sách tăng trưởng (điều chỉnh kinh tế).
Theo phạm vi, lĩnh vực tác động, gồm: Chính sách kinh tế đối nội và
chính sách kinh tế đối ngoại.
Theo thời gian ảnh hưởng thì có: Chính sách kinh tế ngắn hạn và chính


2



sách kinh tế dài hạn.
1.3. Những đặc trưng trong hoạch định và thực thi chính sách kinh
tế vĩ mô
Hoạch định và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô là quá trình nhận
thức và vận dụng các quy luật kinh tế trong thực tế. Do đó, quá trình này
thường xuất hiện những khả năng, xu hướng thúc đẩy hoặc cản trở sự tác
động của các chính sách đó, như độ trễ và cơ chế tự động ổn định… làm cho
hiệu quả thực hiện không được như mong muốn.
* Độ trễ khi thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô
Độ trễ bao gồm hai loại:
Độ trễ trong: Là khoảng thời gian từ lúc xuất hiện cú sốc tác động vào
nền kinh tế đến khi đưa ra và thực thi chính sách được để phản ứng lại.
Độ trễ ngoài: Là khoảng thời gian từ lúc thực thi chính sách đến khi nó
phát huy ảnh hưởng đối với nền kinh tế (vì các chính sách không phát huy tác
dụng ngay lập tức).
* Cơ chế tự ổn định của một số chính sách kinh tế vĩ mô được thiết kế
để làm giảm độ trễ gắn với chính sách ổn định
Đó là những chính sách tự nó kích thích hoặc giảm nhiệt nền kinh tế mà
không cần có sự thay đổi nào khác, như hệ thống thuế và trợ cấp thất nghiệp…sẽ
kích thích tổng cầu, góp phần thu hẹp biên độ của các chu kì kinh tế.
II. HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH KINH TẾ VĨ MÔ
1. Chính sách tài khóa
a. Khái niệm
* Ngân sách chính phủ và thâm hụt ngân sách
NSNN là quỹ tiền tệ quốc gia, dùng để chi tiêu hàng năm cho toàn bộ
hoạt động chung của quốc gia.
Theo luật NSNN năm 2002 thì:“NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi



3

của NN đã được cơ quan NN có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong 1 năm, để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của đất nước”.
* Các quy tắc của ngân sách
Gọi B là hiệu số giữa thu và chi ngân sách, ta có:
B=T-G

(*)

B > 0 ta có thặng dư ngân sách.
B < 0 ta có thâm hụt ngân sách.
B = 0 thì ngân sách cân bằng.
Qui tắc bao trùm là “Cân bằng NS” ⇒ T = G.
* Thuế và bảo hiểm
Thuế
Vấn đề lĩnh vực thu, thu từ hoạt động kinh tế nào. Sự phân biệt đối xử một
cách có ý thức đó đối với các ngành nghề kinh tế thể hiện qua chính sách đối với
các ngành nghề kinh tế thể hiện qua chính sách về ngành nghề chịu thuế.
Vấn đề đối tượng thu, thu từ đối tượng nào hoặc từ chủ thể kinh tế nào.
Sự phân biệt đối xử một cách cố ý đối với người chịu thuế thể hiện qua chính
sách về đối tượng chịu thuế.
Vấn đề mức độ thu, thu nhiều hay ít so với tổng thu nhập quốc dân.
Điều đó dựa trên tỉ lệ tích lũy và tiêu dùng thông qua mức thu thuế là chính
sách về tích lũy và tiêu dùng.
Bảo hiểm
b. Chính sách tài khóa lý thuyết và những nhân tố ảnh hưởng trong thực tiễn
* Chính sách tài khóa lý thuyết:
Chính sách tài khoá là việc chính phủ sử dụng thuế và chi tiêu công
cộng để điều tiết mức chi tiêu chung của nền kinh tế.

Xét về mặt lý thuyết, chính phủ sử dụng chính sách tài khoá này như
thế nào?


4

- Khi nền kinh tế suy thoái (Yrộng, Ggiảm T và tăng G.
+ Tăng G, tức là tăng tiền mua hàng, trực tiếp làm tăng tổng cầu.
+ Giảm T ⇒YD ⇑(YD = Y – T) ⇒ C⇑⇒AD⇑
- Khi nền kinh tế bị lạm phát (Y>Yp): áp dụng chính sách tài khóa thu
hẹp: tăng T và giảm G.
AD nằm tại AD2 ⇒ Y2 > Yp ⇒ nền kinh tế bị áp lực LP cao ⇒ muốn
chống LP phải giảm AD ⇒ giảm G hoặc tăng T.
+ G giảm ⇒AD giảm
+ Tăng T ⇒Yd giảm ⇒ C ⇓.
AD2

E2

AD

AD
AD1

E1

E0
Y


Y1

Yp

Y2

Tuy nhiên, trong thực tế, chính sách tài khoá không có đủ sức mạnh
đến như vậy, đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại. Trước khi nghiên cứu những
vấn đề áp dụng chính sách tài khoá trong thực tiễn, hãy xem xét một cơ chế
đặc biệt của chính sách này. Đó là cơ chế ổn định tự động. Cơ chế này bao
gồm những nhân tố ổn định tự động mạnh mẽ, đó là những nhân tố có tác
dụng hạn chế phần nào sự dao động của sản lượng như thuế thu nhập luỹ tiến,
trợ cấp thất nghiệp,... Chẳng hạn khi suy thoái, thuế luỹ tiến làm giảm nguồn
thu của Chính phủ nhanh hơn đồng thời trợ cấp thất nghiệp tăng, có tác dụng


5

kìm hãm sự sụt giảm của tổng cầu, giảm bớt mức độ suy thoái. Khi lạm phát
cao thì tình hình diễn ra ngược lại.
Tuy nhiên, những nhân tố ổn định tự động chỉ có tác dụng làm giảm
một phần các dao động của nền kinh tế, mà không xoá bỏ hoàn toàn dao động
đó. Phần còn lại là trách nhhiệm của chính phủ.
* Chính sách tài khoá trong thực tế
Trong thực tế, tác động của chính sách tài khoá bị nhiều hạn chế. Do:
- Khó tính toán một cách chính xác liều lượng cần thiết của chính sách.
Để tính toán liều lượng, giảm chi tiêu và thuế một cách chính xác, trước hết
cần xác định được số nhân chi tiêu và thuế trong thực tế.
Số nhân chi tiêu:


∆C
MPC =

∆Y

- Có sự khác nhau về quan điểm, cách đánh giá và nhìn nhận khác nhau
trước các sự kiện kinh tế. Đồng thời có sự không chắc chắn cố hữu trong các
quan hệ kinh tế.
- Chính sách tài khoá có độ trễ khá lớn: Độ trễ bao gồm độ trễ bên
trong và độ trễ bên ngoài.
+ Độ trễ bên trong: Đó là thời gian thu thập thông tin, xử lý thông tin
và ra quyết định.
+ Độ trễ bên ngoài: Bao gồm quá trình phổ biến, thực hiện và phát huy
tác dụng.
- Chính sách tài khoá thường được thực hiện thông qua các dự án công
cộng, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển việc làm và trợ cấp xã hội. Thực tế
cho thấy, ngoài một số dự án công cộng thực hiện thành công, đa số các dự án
tỏ ra kém hiệu quả kinh tế.
+ Cơ chế ổn định tự động…


6

+ Cơ chế chủ động sử dụng các công cụ thuế và chi tiêu ngân sách để
xác lập sự ổn định và cân bằng kinh tế vĩ mô.
* Những nhân tố ảnh hưởng trong thực tiễn:
+ Khó xác định chính xác liều lượng cần thiết của các chính sách tác động
+ Độ trễ của chính sách tác động trong thực tế
+ Hiệu quả của việc thực hiện chính sách tài khoá thông qua các dự án công cộng
Thâm hụt ngân sách và các biện pháp khắc phục

Các trạng thái thâm hụt NSNN
Phân biệt 3 khái niệm thâm hụt ngân sách:
(1) Thâm hụt ngân sách thực tế: Đó là thâm hụt khi số chi thực tế vượt
số thu thực tế trong một thời kỳ nhất định.
(2) Thâm hụt ngân sách cơ cấu: Đó là thâm hụt tính toán trong trường
hợp nếu nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng.
(3) Thâm hụt ngân sách chu kỳ: Đó là thâm hụt ngân sách bị động do
tình trạng của chu kỳ kinh doanh.
Để dung hoà, một số nhà kinh tế đề nghị áp dụng 1 kiểu ngân sách gọi
là “NS cân đối theo chu kỳ”. Theo đó, NS nên thâm hụt trong thời kỳ suy
thoái, nhưng tình trạng thâm hụt phải được khắc phục trong thời kỳ hưng
thịnh. Như vậy về lâu dài thì tổng các khoản thâm hụt và tổng các khoản
thặng dư phải bù trừ cho nhau, tạo ra khuynh hướng cân bằng ngân sách xét
trong dài hạn.
Thâm hụt NS theo chu kỳ = thâm hụt thực tế - thâm hụt cơ cấu.
* Các xu hướng cơ bản cho xử lý thâm hụt NSNN, hậu quả của chúng
Coi T = t.Y
B = – G + tY
Khi tY< G⇒ B <0 ⇒ Thâm hụt ngân sách.
⇒ Các loại phản ứng:


7

- Phản ứng thuận chiều: Khi tY < G ⇒ Nhà nước tăng thuế, giảm G để
đảm bảo G = tY ⇒ B=0 ⇒ cán cân ngân sách sẽ cân bằng ⇒ nhưng đây là
cách làm thụ động, tiêu cực ⇒ có thể gây ra hậu quả xấu đó là có thể làm cho
suy thoái càng trầm trọng hơn do việc giảm chi tiêu của Chính phủ sẽ làm
giảm AD.
- Phản ứng ngược chiều: Nếu mục tiêu của Chính phủ là giữ cho nền

kinh tế luôn ở mức sản lượng tiềm năng với mức việc làm đầy đủ, thì Chính
phủ phải thực hiện chính sách tài khóa ngược chiều (với chu kỳ kinh doanh).
Vì vậy, khi tY < G ⇒ thay vì tăng thuế suất để bảo đảm thu, Nhà nước lại
giảm thuế suất để kích thích đầu tư (⇑ I), thay vì giảm G thì NN lại ⇑ G để
⇑AD. Gọi là ngược chiều vì đáng lẽ phải ⇑T thì lại ⇓T , và đáng lẽ phải ⇓G thì
lại ⇑G.
Để có thể phản ứng ngược thì phải có dự trữ quốc gia (vì giảm thuế
phải có lượng bù vào khoản giảm T đó).
* Ảnh hưởng kinh tế của thâm hụt ngân sách (hay ảnh hưởng kinh tế
của thâm hụt NSNN)
Các biện pháp của chính sách tài khoá chủ động gây nên thâm hụt cơ
cấu và kéo theo hiện tượng tháo lui đầu tư.
Cơ chế tháo lui đầu tư như sau: khi G tăng (hoặc T giảm) GNP sẽ tăng
lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền tăng theo. Với mức cung tiền cho trước,
lãi suất sẽ tăng lên làm giảm đầu tư. Kết quả là một phần GNP tăng lên có thể
bị mất đi do thâm hụt cao kéo theo tháo lui đầu tư. Vì vậy, tác động của chính
sách tài khoá sẽ giảm đi. Tác động tương tự cũng có thể xảy ra đối với tiêu
dùng.
* Các biện pháp tài trợ cho thâm hụt ngân sách
Có bốn biện pháp tài trợ sau:


8

- Vay nợ trong nước.
Bằng cách phát hành trái phiếu, công trái của Chính phủ để vay nguồn
tiền dự trữ trong dân chúng.
- Vay nợ nước ngoài
- Sử dụng dự trữ ngoại tệ
Có hiệu lực mạnh, bù đắp kịp thời thâm hụt ngân sách và ngăn được

ảnh hưởng tiêu cực. Tuy nhiên, dự trữ ngoại tệ đối với đa số các nước là ít.
- Vay ngân hàng (in tiền)
Đây là một cách dùng để tài trợ cho thâm hụt ngân sách, điển hình là
Việt Nam những năm 80.
* Các nguyên tắc xử lý thiếu hụt NSNN có hiệu quả
- Chọn đúng giải pháp cho những thâm hụt ngân sách có nguyên nhân
khác nhau. Có 2 loại nguyên nhân gây nên thâm hụt ngân sách NN là bên
trong và bên ngoài.
+ Nếu là do nguyên nhân ở trong nội tại nền kinh tế thì các giải pháp
được lựa chọn phải vừa làm giảm thâm hụt ngân sách phải đồng thời là các
giải pháp làm tăng trưởng kinh tế.
+ Nếu do các nguyên nhân bên ngoài như thiên tai, địch họa, biến động
thị trường quốc tế, … làm tăng đột ngột chi, giảm thu thì cần áp dụng ngay
các biện pháp nêu trên.
- Chọn đúng giải pháp cho các loại thâm hụt có tính thời hạn khác
nhau:
+ Với thâm hụt có tính tạm thời, giải pháp tài trợ sẽ có hiệu quả hơn.
+ Với thâm hụt có quy mô lớn và lâu dài, thì sử dụng giải pháp giảm
thiếu hụt, giải pháp tăng trưởng kinh tế.
2. Chính sách tiền tệ
a, Khái niệm, mục tiêu và quy tắc của chính sách tiền tệ


9

Chính sách tiền tệ là hệ thống quan điểm, nguyên tắc do nhà nước đề ra
để chỉ đạo việc xây dựng các giải pháp về tiền tệ nhằm ổn định nền kinh tế
quốc dân.
Mục tiêu:
- Ổn định tiền tệ (giữ vững giá trị đối nội và đối ngoại của đồng bản tệ,

cân bằng cán cân thanh toán quốc tế).
- Thúc đẩy tăng trưởng.
- Tạo nhiều công ăn việc làm.
Các qui tắc vận dụng chính sách tiền tệ:
Việc sử dụng tiền tệ làm công cụ điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế
phải bám sát các mục tiêu: Mục tiêu về sản lượng, tức là tăng trưởng GNP,
GDP làm hàng đầu. Mục tiêu về mức giá. Mục tiêu về việc làm
Việc cung ứng tiền tệ phải từ từ và vững chắc: Gia tăng cung ứng tiền
tệ từ từ và vững chắc thể hiện ở mức chênh lệch cung cầu về tiền trong lưu
thông không được quá lớn, khi bơm tiền vào lưu thông phải thăm dò toàn diện
và chính xác hiệu ứng kinh tế – xã hội.
b, Thị trường tiền tệ
Mức cung và cầu tiền
a. Mức cung tiền
* Tiền cơ sở
NHTƯ là cơ quan độc quyền phát hành tiền. Lượng tiền phát hành chủ
yếu là tiền mặt, được gọi là tiền cơ sở (hay cơ số tiềnh).
Tiền cơ sở hay tiền mạnh (Monetary base or High Powered money) Là
số lượng tiền giấy và tiền kim loại lưu hành ở khu vực ngoài NH (gọi là tiền
mặt) cộng với số tiền giấy và tiền kim loại do HTNH nắm giữ dưới dạng dự
trữ. Thực chất đó là toàn bộ lượng tiền giấy và tiền kim loại đã được phát
hành vào nền kinh tế.


10

Trong quá trình lưu thông, một phần của lượng tiền này được các tác
nhân kinh tế giữ lại để chi tiêu và một phần nằm tại các ngân hàng dưới dạng
tiền dự trữ.
Vậy khối lượng tiền cơ sở bằng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ trong

các ngân hàng.
H=U+R
Trong đó: H là tiền cơ sở.
U - tiền mặt lưu hành.
R - tiền dự trữ trong ngân hàng.
* Sự “ tạo tiền ngân hàng” của tiền gửi
Giả định:
- Tỷ lệ dự trữ chung (bao gồm bắt buộc và tùy ý) là ra=10%
- Mọi người có tiền mặt đều gửi hết vào Ngân hàng.
- Các Ngân hàng trung gian đều cho vay hết số tiền ký thác còn lại sau
khi trừ đi phần dự trữ chung.
Tỷ lệ dự trữ:
R
ra =

ra = rbb + rty
R - số tiền dự trữ
D - tiền gửi
Giả sử NH ban đầu nhận tiền gửi = D.
NH1 = (1-ra).D
NH2 = (1-ra)2D
..... NHn = (1-ra)nD
Khi đó tổng số tiền tạo ra:

D


11

= [(1-ra)+ (1-ra)2 +...(1-ra)n)]D = (1/ra)D (Theo cấp số nhân công bội q

= 1 - ra (Sn = 1/1-qn)
Một khoản tiền gửi đưa vào hệ thống ngân hàng sẽ tạo thêm một
khoản dự trữ mới (∆R) và cho phép tạo ra một lượng tối đa khoản
cho vay mới. Những khoản cho vay mới được đưa trở lại hệ thống
ngân hàng, lại trở thành những khoản tiền gửi mới (∆D) bằng 1/R.
Kết quả lượng tiền gửi tăng thêm là:
1
∆D =

x∆R
ra

Đó là cách thức mà Ngân hàng thương mại tạo ra tiền.
Tỷ số 1/ra gọi là số nhân tiền tệ. Tuy nhiên, số nhân này có được từ giả định
mọi người không dùng tiền mặt trong thanh toán. Điều này không
có trong thực tế, vì vậy có một tỷ lệ tiền mặt nằm ở ngoài ngân
hàng, do đó phải xác định số nhân tiền tệ theo cách khác.
- Xác định mức cung tiền (MS)
- Cung về tiền (MS- Money Supply) là toàn bộ khối lượng tiền được tạo
ra trong nền kinh tế.
MS = M1 (M1 - tiền giao dịch)
Tiền cơ sở H

Tiền mặt
lưu hành

Dự trữ tiền mặt
của các NH
Các khoản tiền gửi
không kỳ hạn

Mức cung tiền (MS)


12

Sơ đồ cho thấy mức cung tiền lớn hơn nhiều so với lượng tiền cơ sở,
bởi hoạt động “tạo ra tiền” của các NHTM.
Sơ đồ cũng cho biết tiền cơ sở (H) là tiền do NHTƯ phát hành biểu
hiện dưới dạng tiền mặt lưu hành và tiền dự trữ tại ngân hàng. Các khoản tiền
gửi là bội số của tiền dự trữ của ngân hàng.
Xét tổng thể nền kinh tế quốc dân, số nhân tiền tệ chính là tỷ số giữa
mức cung tiền và lượng tiền cơ sở. mM là số nhân tiền tệ
MS
mM =

H

⇒ MS = mM.H

Số nhân tiền tệ 1/ra ở phần trên được giả định là ra = rb. Nhưng trong
thực tế, một phần tiền được công chúng giữ lại dưới dạng tiền mặt và tỷ lệ dự
trữ thực tế của các NHTM có thể lớn hơn tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Có: MS = U + D
U - tiền mặt lưu hành
D - tiền gửi
U



s=


D

s là tỷ lệ giữa tiền mặt lưu thông và tiền gửi:
và:

1+s

Ra
ra =

D

⇒ mM =

ra + s

⇒ mM tỷ lệ nghịch với ra;
ra phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- rb do NHTư quy định.
- Tính không ổn định của nguồn tiền mặt vào, ra của Ngân hàng đã
buộc các NHTM dự trữ tiền mặt nhiều hơn.


13

- Sự thiệt hại do trả lãi suất nếu phải vay tiền khi thiếu hụt dự trữ.
Công thức tính MS chỉ ra rằng, muốn kiểm soát mức cung tiền phải có
khả năng tác động vào lượng tiền mạnh và số nhân tiền tệ.
Tỷ lệ dự trữ tiền mặt so với tiền gửi (s) càng nhỏ thì số nhân tiền tệ sẽ

càng lớn. Tỷ lệ này phụ thuộc vào thói quen thanh toán của xã hội, vào tốc độ
tăng của tiêu dùng và còn phụ thuộc vào khả năng đáp ứng tiền mặt của
NHTM. Trong trường hợp s rất nhỏ hoặc bằng không, và ra = rb thì mM = 1/rb .
b. Mức cầu tiền
- Cầu về tiền:(LP) là lượng tiền mà mọi người muốn nắm giữ. Lượng
tiền nắm giữ có thể là tiền mặt ngoài Ngân hàng hoặc tiền gửi sử dụng Séc.
Theo John Maynard Keynes, có ba động cơ làm cho mỗi người chúng
ta muốn nắm giữ tiền: động cơ giao dịch (transactions demand for money),
động cơ dự phòng (precautionary demand for money) và động cơ đầu cơ
(speculative demand for money). Lượng tiền nắm giữ nhiều hay ít phụ thuộc
vào hai yếu tố: lãi suất và thu nhập.
- Các nhân tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ:
+ Lãi suất
Lãi suất là cái giá phải trả khi vay tiền, hay nói chính xác hơn là cái
giá phải trả khi nắm giữ tiền trong tay.
Đối với cầu giao dịch dự phòng, khi lãi suất tăng thì cầu tiền để giao
dịch và dự phòng sẽ giảm. Lý do là khi giữ tiền trong tay người ta phải chịu
một khoản chi phí cơ hội, cho dù đó là tiền mặt hay tiền trong tài khoản séc.
Chi phí cơ hội của việc giữ tiền là lãi suất mà lẽ ra bạn có thể được hưởng
bằng cách này hay cách khác, nếu như không giữ tiền. Như vậy, khi lãi suất
càng cao thì chi phí cơ hội càng lớn. Lúc đó người ta càng ít muốn giữ tiền
trong tay, tức là cầu về tiền để giao dịch và dự phòng giảm.


14

Đối với cầu đầu cơ, theo Keynes thì lãi suất tăng cũng làm giảm cầu về
tiền để đầu cơ.
Tóm lại, cầu về tiền nghịch biến với lãi suất.
+ Thu nhập thực tế (sản lượng)

Đối với cầu giao dịch dự phòng, sản lượng tăng làm cho cầu về tiền để
giao dịch và dự phòng tăng. Vì Y ⇑ ⇒ YD ⇑⇒C⇑⇒Lượng tiền nắm giữ hàng
ngày cũng phải tăng theo. Mặt khác, Y⇑làm cho hộ gia đình có khuynh hướng
để tiền dự phòng nhiều hơn, làm tăng cầu về tiền để dự phòng.
Đối với cầu đầu cơ, sản lượng tăng cũng làm tăng cầu đầu cơ. Bởi vì,
thu nhập tăng sẽ làm tăng nguồn tiền cất giữ như một loại tài sản. Do đó, cầu
đầu cơ tăng khi sản lượng tăng.
- Quan hệ tỷ lệ nghịch giữa lãi suất và mức cầu tiền được gọi là hàm
cầu về tiền. Phương trình đường cầu tiền có dạng:
LP = k.Y - h.i
k, h là các hệ số phản ánh độ nhạy cảm của mức cầu tiền đối với thu nhập và
lãi suất.
Đồ thị:

i
M1
io

Mo

LP1
LPo
Mo

Đồ thị cho biết:

M1
1

Lượng tiền thực tế



15

Khi thu nhập tăng tới Y1 thì LP dịch chuyển đến LP1. Tức là cùng với
mức lãi suất io nhưng cầu về tiền lớn hơn (LP 1>LPo) khi thu nhập tăng lên
(Y1>Yo).
c. Cân bằng thị trường tiền tệ
- Thị trường tiền tệ cân bằng khi: MS = LP
i

LP
MS
Eo

io

Mo

M

Đồ thị cho thấy: - Eo là điểm cân bằng của thị trường tiền tệ.
- Tại mức lãi suất cân bằng io mức cầu tiền vừa đúng bằng mức cung
tiền.
Ở mức lãi suất thấp hơn i0 sẽ có mức dư cung trái phiếu tương ứng làm
cho giá trái phiếu giảm xuống, lợi tức trái phiếu tăng lên và đẩy lãi suất thị
trường lên tới i0.
Sự dịch chuyển đường cung hoặc đường cầu sẽ làm thay đổi vị trí cân
bằng của thị trường tiền tệ.
Hình vẽ dưới cho biết:

Khi NHTW tác động đến mức cung tiền, giả sử là bán trái phiếu hoặc
tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc dẫn đến lượng cung tiền giảm xuống, đường cung
tiền sẽ dịch chuyển từ M0 sang M1 và lãi suất cân bằng sẽ từ io lên i1.
Giảm cung tiền từ Mo ⇒ M1 dẫn đến lãi suất tăng lên để giảm mức dư
cầu tiền do mức cung tiền giảm đi.


16

Khi thu nhập thực tế GNPr tăng lên ⇒ nhu cầu tiền cho giao dịch tăng
lên. Với mỗi mức lãi suất, lợi ích cận biên của việc gửi tiền tăng lên và làm
tăng mức cầu tiền thực tế, đường cầu tiền sẽ dịch chuyển từ LP o ⇒ LP1. Với
mức cung tiền M1, lãi suất cân bằng sẽ dịch chuyển từ i 1 đến i2 điểm cân bằng
mới của thị trường tiền tệ là E”.
i
LPo

MS1
E”

i2
i1

MSo

E’

io

E


M1

Mo

LP1

M

c, Nội dung chính sách tiền tệ
* Cung ứng và điều hòa khối lượng tiền tệ
Mức cung tiền có tác động mạnh mẽ đến trạng thái hoạt động của nền
kinh tế. Vì tiền tệ có chức năng là phương tiện trao đổi, nên khi hàng hoá và
dịch vụ được sản xuất ra nhiều hơn, thì cũng cần thiết phải thay đổi cung tiền.
Mối quan hệ này được xác định trong phương trình trao đổi về lượng tiền tệ:
M.V = P.Q
M - Mức cung tiền (theo nghĩa rộng, có thể là M2)
V - Tốc độ lưu thông tiền tệ
P - Mức giá trung bình
Q - Sản lượng thực tế, do đó: P.Q = GNPn = Gh


17

Giả sử tốc độ lưu thông V là ổn định thì mức cung tiền (M) sẽ được
điều chỉnh theo sự thay đổi quy mô của GNPn. Sự thay đổi cung tiền có tác
động trực tiếp đến lãi suất của TT tiền tệ và qua lãi suất tác động đến tiêu
dùng, đầu tư, xuất khẩu, … Do vậy, việc kiểm soát mức cung tiền M được coi
là một chính sách đặc biệt quan trọng trong quản lý vĩ mô.
* Cấp tín dụng cho nền kinh tế

Khối lượng tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp
xuất phát từ 2 nguồn: huy động lượng tiền sẵn có trong lưu thông để cho vay
và sử dụng lượng tiền của NHTƯ thông qua quá trình tái cấp vốn.
NHTƯ thực hiện các chức năng cơ bản sau:
- Ngân hàng của các ngân hàng thương mại (NHTM): NHTƯ giữ các
tài khoản dự trữ cho các NHTM, thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống
NHTM và hoạt động như một "người cho vay của phương sách cuối cùng"
đối với NHTM trong trường hợp khẩn cấp.
- Ngân hàng của Chính phủ: NHTƯ giữ các tài khoản cho Chính phủ,
nhận tiền gửi và cho vay đối với kho bạc Nhà nước, hỗ trợ chính sách tài khoá
của Chính phủ bằng việc mua tín phiếu của Chính phủ.
- Kiểm soát mức cung tiền để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định
và phát triển nền kinh tế.
- Hỗ trợ, giám sát điều tiết hoạt động của các thị trường tài chính.
d, Các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ
NHTƯ điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều công
cụ khác nhau, nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ.
Các công cụ của chính sách tiền tệ thường dùng thuộc NHTƯ là:
- Lãi suất và thu nhập thực tế tác động đến mức cầu về tiền tệ
Như trên đã định nghĩa lãi suất là giá cả của tiền vay, hay nói chính xác
hơn là cái giá phải trả khi nắm giữ tiền trong tay. Đối với cầu giao dịch dự


18

phòng, khi lãi suất tăng thì cầu tiền để giao dịch và dự phòng sẽ giảm. Lý do
là khi giữ tiền trong tay người ta phải chịu một khoản chi phí cơ hội, cho dù
đó là tiền mặt hay tiền trong tài khoản séc. Chi phí cơ hội của việc giữ tiền là
lãi suất mà lẽ ra bạn có thể được hưởng bằng cách này hay cách khác, nếu
như không giữ tiền. Như vậy, khi lãi suất càng cao thì chi phí cơ hội càng lớn.

Lúc đó người ta càng ít muốn giữ tiền trong tay, tức là cầu về tiền để giao dịch
và dự phòng giảm.
Đối với cầu đầu cơ, theo Keynes thì lãi suất tăng cũng làm giảm cầu về
tiền để đầu cơ.
Tóm lại, cầu về tiền nghịch biến với lãi suất.
- Thu nhập thực tế (sản lượng) tác động đến mức cầu về tiền tệ
Đối với cầu giao dịch dự phòng, sản lượng tăng làm cho cầu về tiền để
giao dịch và dự phòng tăng. Vì Y ⇑ ⇒ YD ⇑⇒C⇑⇒Lượng tiền nắm giữ hàng
ngày cũng phải tăng theo. Mặt khác, Y⇑làm cho hộ gia đình có khuynh hướng
để tiền dự phòng nhiều hơn, làm tăng cầu về tiền để dự phòng.
Đối với cầu đầu cơ, sản lượng tăng cũng làm tăng cầu đầu cơ. Bởi vì,
thu nhập tăng sẽ làm tăng nguồn tiền cất giữ như một loại tài sản. Do đó, cầu
đầu cơ tăng khi sản lượng tăng.
- Điều chỉnh mức cung tiền tệ bằng các công cụ:
Một là: Hoạt động của thị trường mở:
Thị trường mở là thị trường tiền tệ của NHTư được sử dụng để mua
bán trái phiếu kho bạc của Nhà nước.
Hoạt động của thị trường mở (open market operations) là hoạt động của
NHTW trong việc mua bán các loại giấy tờ có giá (chủ yếu là trái phiếu của
CP).
Muốn tăng mức cung tiền NHTư sẽ mua trái phiếu ở thị trường mở.


19

Kết quả là họ đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở bằng
cách tăng dự trữ của các NHTM, dẫn đến tăng khả năng cho vay, tăng mức
tiền gửi nhờ số nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền đã tăng gấp
bội so với số tiền mua tín phiếu của NHTW. Để có kết quả ngược lại, NHTư
sẽ bán trái phiếu của Chính phủ.

Hai là: Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Tỷ lệ dự trữ thấp, số nhân tiền tệ sẽ lớn là điều kiện thuận lợi để mở
rộng tín dụng, các khoản tiền gửi sử dụng séc sẽ tăng nhiều hơn, tức làm tăng
loại tiền Ngân hàng. Nhờ vậy mà khối lượng tiền M1 gia tăng.
NHTư là cơ quan duy nhất được phép ra quyết định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với các NHTM.N
Tóm lại, muốn tăng khối lượng tiền thì phải giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc,
muốn giảm khối lượng tiền thì phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên.
Ba là: Lãi suất chiết khấu
Lãi suất chiết khấu là lãi suất quy định của NHTư khi họ cho các
NHTM vay tiền để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng thêm dự trữ của các NHTM.
Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện cho vay thuận
lợi, sẽ khuyến khích các ngân hàng thương mại vay tiền để tăng dự trữ và mở
rộng cho vay, dẫn đến mức cung tiền sẽ tăng lên.
Tác động của lãi suất chiết khấu đến lượng tiền mạnh H:
Lãi suất chiết khấu càng thấp thì càng kích thích các Ngân hàng trung
gian vay tiền của NHTW. Khi lượng tiền vay tăng thì cũng có nghĩa là một
lượng tiền mạnh ∆H được bơm thêm vào nền kinh tế. Và lúc đó khối lượng
tiền M1 sẽ tăng thêm mM lần và ngược lại.
Với chức năng người cho vay cuối cùng, khi NHTW cho vay, mặc dù
lãi suất chiết khấu không đổi những cũng làm tăng lượng tiền mạnh. Do đó
cũng sẽ làm tăng khối lượng tiền gấp mM lần.


20

Tác động đến số nhân tiền tệ mM:
Khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường thì các NHTG sẵn
sàng giảm bớt tỷ lệ dự trữ tuỳ ý xuống đến mức thấp nhất. Họ không sợ bị
thiếu tiền mặt chi trả cho khách hàng vì thế có thể vay của NHTW với lãi suất

thấp. Lúc đó, vì tỷ lệ dự trữ tuỳ ý giảm xuống làm r a giảm ⇒ mM tăng. Khi
mM tăng, với lượng tiền mạnh H như cũ thì khối lượng tiền M 1 sẽ nhiều hơn
trước và ngược lại.
Như vậy, NHTW muốn tăng khối lượng tiền thì phải giảm lãi suất chiết
khấu, muốn giảm khối lượng tiền thì phải tăng lãi suất chiết khấu.
Ngoài 3 công cụ chủ yếu trên đây nhằm điều tiết gián tiếp với thị
trường tiền tệ, NHTW còn có những công cụ khác như kiểm soát tín dụng có
chọn lọc, quy định trực tiếp với lãi suất, lãi suất trả cho tiền gửi sử dụng
séc,....
Bốn là: Lãi suất trả cho tiền gửi sử dụng séc (Lãi suất tín dụng)
Do:

U

s=

D

Vì vậy khi lãi suất tiền gửi sử dụng séc tăng thì dân chúng sẽ ít nắm giữ
tiền mặt hơn, tăng tiền gửi sử dụng séc tức D ⇑ làm s ⇓ ⇒ mM tăng ⇒ M1 cũng
tăng theo và ngược lại.
Năm là: Kiểm soát tín dụng chọn lọc
Khi muốn giảm bớt khối lượng tiền, CP có thể dùng biện pháp hạn chế
cung cấp tín dụng cho những ngành không cần khuyến khích phát triển.
Ngược lại, khi muốn tăng khối lượng tiền, CP có thể tăng cung cấp tín dụng,
thậm chí với lãi suất ưu đãi cho các ngành hay các địa phương cần được nâng
đỡ để phát triển.


21


Sáu là: Ấn định lãi suất cho các NHTG:
Tóm lại: NHTƯ có nhiều khả năng thực tế để ấn định mức cung tiền
(M) theo dự kiến, có thể tăng thêm hay giảm bớt nó bằng các công cụ điều tiết
của mình, chủ động thực hiện chính sách tiền tệ đã hoạch định.
e, Hướng tác động của chính sách tiền tệ
* Chính sách tiền tệ mở rộng.
Khi cần mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng cả số lượng doanh nghiệp và
qui mô hoạt động của nó, có thể thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, tăng
mức cung tiền để hạ lãi suất nhằm khuyến khích I,C.
* Chính sách tiền tệ thắt chặt.
Khi chống lạm phát cao hoặc kiềm chế nó, có thể phải thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt, giảm cung tiền đến mức cần thiết hoặc giữ i ở mức cao
để hạn chế mở rộng C hoặc I...
3. Chính sách thu nhập
a, Mục tiêu và nguyên lí của chính sách thu nhập
* Quan niệm về thu nhập. Thu nhập là sự ghi nhận trên góc độ chủ sở
hữu đã thu được gì do các hoạt động của doanh nghiệp đưa lại. Xét ở tầm vĩ
mô – đó là thu nhập quốc dân (Gross national income – GNI) là chỉ số kinh
tế xác định tổng thu nhập của một quốc gia trong một thời gian, thường là một
năm. GNI = NNP- thuế gián thu + trợ cấp KDNó bao gồm tổng giá trị hàng
hóa và dịch vụ tạo ra trong quốc gia (GDP), cộng với thu nhập nhận được từ
bên ngoài (chủ yếu là lãi vay và cổ tức), trừ đi những khoản tương tự phải trả
ra bên ngoài.
Thu nhập quốc dân bao gồm: chi tiêu dùng cá nhân, tổng đầu tư của dân
cư, chi tiêu dùng của chính phủ, thu nhập thuần từ tài sản ở nước ngoài (sau
khi trừ các thuế), và tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu và trừ đi hai
khoản: tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ nhập khẩu và thuế gián thu. Thu nhập



22

quốc dân tương tự như Tổng sản lượng quốc gia – GNP, chỉ khác biệt ở chỗ
GNP không trừ đi thuế gián thu.
Về mặt giá trị, thu nhập quốc dân gồm toàn bộ giá trị mới do lao động
tạo ra trong một năm, tức là bộ phận v + m trong tổng sản phẩm xã hội.
Về mặt hiện vật, thu nhập quốc dân cũng bao gồm tư liệu tiêu dùng và
một phần tư liệu sản xuất dùng để mở rộng sản xuất. Hai nhân tố làm tăng thu
nhập quốc dân là số lượng lao động và tăng năng suất lao động. Trong đó,
tăng năng suất lao động là nhân tố quyết định nhất.
Có hai phạm trù nói về thu nhập quốc dân: thu nhập quốc dân sản xuất
và thu nhập quốc dân sử dụng. Thu nhập quốc dân sản xuất là số thu nhập
được sản xuất ra trong nước đó. Thu nhập quốc dân sử dụng bằng thu nhập
quốc dân sản xuất cộng (+) với tài sản được chuyển vào trong nước (vay nợ,
được trả nợ, thanh toán do xuất siêu và các tài khoản vãng lai, lợi nhuận của
những tài sản đầu tư ở nước ngoài, vốn tư bản nước ngoài đầu tư vào trong
nước...) trừ đi (-) những tài sản được chuyển ra nước ngoài (trả nợ, cho vay,
thanh toán nhập siêu, đầu tư ra nước ngoài và chuyển lợi nhuận của tư bản
nước ngoài đầu tư vào trong nước về nước họ). Trong đó, thu nhập quốc
dân sử dụng chính là cơ sở quyết định quỹ tích lũy và tiêu dùng của xã hội.
* Mục tiêu của chính sách thu nhập.
Mục tiêu của chính sách này nhằm bảo đảm công bằng trong phân phối
của cải xã hội và tạo ra các điều kiện cần thiết để người lao động có việc làm
và có thu nhập chính đáng. Vấn đề quan trọng là thúc đẩy tăng trưởng của nền
kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội phát triển kinh tế bền vững.
* Chính sách thu nhập và các công cụ của CSTN
Chính sách thu nhập (CSTN) là tổng thể các quan điểm, nguyên tắc
chi phối hoạt động quản lí của Nhà nước có liên quan đến thu nhập quốc dân.
Chính sách thu nhập gọi chính xác là chính sách giá cả, tiền lương.



23

Để biến thu nhập quốc dân thành hiện thực tiêu dùng còn phải giải
quyết hàng loạt vấn đề sau đây:
Vấn đề tích lũy để mở rộng sản xuất theo yêu cầu giản đơn và phức tạp.
Yêu cầu phức tạp là sự đòi hỏi nâng cao trình độ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nền sản xuất hiện có, nhờ đó mà nâng cao năng suất lao động hơn nữa
hoặc cải thiện môi trường lao động cho con người. Vì vậy không thể đem tiêu
dùng hết được.
Các công cụ cơ bản của chính sách thu nhập
Chính sách này sử dụng nhiều công cụ có tính chất cứng rắn như:
Công cụ giá: Thông qua quản lí về giá cả dùng để điều tiết tiêu dùng
của nhân dân (P).
Tiền lương: Can thiệp trực tiếp vào việc phân chia TN YD thành 2 phần
tích lũy và tiêu dùng, thành thu nhập của người lao động và của người sử
dụng lao động (W).
Những chỉ dẫn chung để ấn định tiền công và giá cả, những quy tắc
pháp lý ràng buộc sự thay đổi giá cả và tiền lương...đến những công cụ
mềm dẻo hơn như việc hướng dẫn khuyến khích bằng thuế thu nhập (tác
động vào quan hệ thu nhập giữa người giàu và người nghèo...)
4. Chính sách kinh tế quốc tế
a. Chính sách kinh tế quốc tế và nội dung cơ bản của chính sách kinh
tế quốc tế
* Chính sách kinh tế quốc tế là các quan điểm, nguyên tắc, biện pháp
thích hợp của một nước dùng để điều chỉnh hoạt động kinh tế đối ngoại của
nước đó trong một thời gian nhất định, nhằm đạt được mục tiêu kinh
tế - chính trị - xã hội của quốc gia.
* Nội dung cơ bản của chính sách kinh tế quốc tế bao gồm nhiều vấn đề,
song trọng tâm là chính sách ngoại hối và tỷ giá hối đoái; các giải pháp giữ cho



24

thị trường ngoại hối thăng bằng kết hợp với các biện pháp bảo vệ mậu dịch...
b. Mục tiêu của chính sách kinh tế quốc tế
* Ổn định tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của đồng tiền một nước này so với đồng tiền
của một nước khác. Thông thường người ta ngầm hiểu “tỷ giá hối đoái” là số
lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ. Thí dụ:
21.291,00 VNĐ mua được 1 USD trong năm 2014.
Người ta thường biểu diễn tỷ giá hối đoái theo cả 2 cách. Thí dụ về tỷ
giá giữa đồng tiền Việt nam và Đôla Mỹ: E=VNĐ/ USD hoặc e =USD/VNĐ.
Trong thực tế có 2 loại tỷ giá hối đoái cơ bản: Tỷ giá hối đoái cố định:
là tỷ giá được (NHTƯ) mỗi nước quy định gắn với một đồng tiền nhất định
mà mọi việc mua, bán đồng tiền đó đều được tính theo tỷ giá này. Một trong
những hệ thống tỷ giá hối đoái cố định được người ta nói đến nhiều là hệ
thống tỷ giá cố định Bretton Woods (1944-1971) được hình thành tại hội nghị
đa quốc gia nhóm họp ở Bretton Woods, New Hamphise (Mỹ). Tiền của các
nước tham gia hệ thống này được cố định theo đồng Đôla Mỹ và các NHTW
của các nước tham gia có trách nhiệm duy trì các tỷ giá hối đoái của họ bằng
việc mua và bán Đôla trên thị trường ngoại tệ. Hệ thống này bị xoá bỏ vào
tháng 8.1971 khi các nước tham gia hệ thống k0 thể đảm bảo được rằng
những đồng Đôla cũng có thể chuyển đổi được thành vàng. Hệ thống tỷ giá
hối đoái linh hoạt (thả nổi). Đó là các hệ thống tỷ giá hối đoái được xác định
hoàn toàn bởi các lực lượng cung và cầu của thị trường ngoại hối, không có
sự can thiệp nào của chính phủ (CP’). Tuy nhiên, do tính bất thường và những
tác động mặt trái của KTTT tự do làm cho hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi lên,
xuống thất thường, gây khó khăn lớn cho sự phát triển ổn định của các nền
kinh tế.

Kết hợp 2 hệ thống tỷ giá hối đoái cơ bản nêu trên, hình thành hệ thống


25

tỷ giá linh hoạt có quản lý. Đó là hệ thống mà tỷ giá hối đoái được biến đổi
phù hợp với các điều kiện của thị trường, nhưng CP’ vẫn can thiệp để ngăn
không cho nó vận động ra ngoài các giới hạn nhất định.
Chính sách của chính phủ là duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái chứ
không phải là cố định tỷ giá hối đoái. Sự cần thiết phải duy trì sự ổn định của tỷ
giá hối đoái vì mọi sự biến động xa ra ngoài giới hạn cần thiết của nó đều đem
bất lợi cho tình hình XK hay NK của một quốc gia, do đó ảnh hưởng đến trạng
thái cân bằng cán cân thương mại nói riêng, cán cân thanh toán nói chung.
Trong khi đó, bất cứ quốc gia nào cũng đều vừa tiến hành XK, vừa NK.
Để ổn định tỷ giá, điều quan trọng vẫn phải là duy trì sự tăng trưởng ổn
định và liên tục của SX trong nước, giữ được giá trị đồng nội tệ, đồng thời
phải có dự trữ ngoại tệ mạnh để lúc cần thiết nhà nước có thể can thiệp vào thị
trường nhằm duy trì tỷ giá ổn định. Mặt khác, CP’ phải có sự điều chỉnh tỷ giá
cho sát với tỷ giá thực tế trên thị trường, tránh để có khoảng cách lớn giữa tỷ
giá kiểm soát và tỷ giá trên thị trường.
* Giữ cho cán cân thanh toán quốc tế thăng bằng.
Cán cân thanh toán quốc tế, ghi chép những giao dịch kinh tế của một
quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định.
Cán cân thanh toán được sử dụng như một dấu hiệu ổn định kinh tế và
chính trị. Trên góc độ kinh tế học, thặng dư cán cân thanh toán nghĩa là một
quốc gia nhận được nhiều từ thương mại và đầu tư hơn là phải trả cho các
quốc gia khác, khiến đồng tiền của quốc gia này tăng trị so với các quốc gia
khác. Cán cân thanh toán thâm hụt có ảnh hưởng ngược lại, nhập khẩu vượt
quá xuất khẩu, phụ thuộc vào các nhà đầu tư nước ngoài, và một đồng tiền
mất giá. Các quốc gia đang có thanh toán thâm hụt phải thay đổi tình thế bằng

cách xuất khẩu vàng hoặc dự trữ ngoại tệ mạnh, như đồng dollar Mỹ, là
những đồng tiền được chấp nhận để trả các khoản nợ quốc tế. Như vậy, giữ


×