Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

“Nâng cao chất lượng công giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 2020”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.87 KB, 52 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề án
Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền tự nhiên của con người
trước những vấn đề bị vi phạm để tự bảo vệ mình. Hay nói một cách khác,
bản chất của quyền khiếu nại, tố cáo là quyền tự vệ hợp pháp trước những
hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội.
Đó là quyền hiến định, quyền phản hồi, quyền dân chủ và hơn thế nữa, đó là
quyền để bảo vệ quyền. Chính vì vậy, khiếu nại, tố cáo là hiện tượng khách
quan trong đời sống xã hội. Từ khi có giai cấp, các giai cấp thống trị xã hội
với những biện pháp, cách thức khác nhau để giải quyết hiện tượng này.
Ở nước ta, từ trước đến nay, đều ghi nhận khiếu nại, tố cáo là một trong
những quyền cơ bản của công dân, trong đó Hiến pháp 1992 ghi nhận tại Điều
74: “Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc
khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan nhà nước xem xét và giải quyết trong
thời hạn pháp luật quy định…”. Quy định này đã được Hiến pháp 2013 sửa
đổi, bổ sung tại Điều 30, cụ thể là: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
của cơ quan, tổ chức, cá nhân.Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải
tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp
luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền
khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”.
Theo quy định này, khiếu nại, tố cáo không chỉ là quyền Hiến định của
công dân Việt Nam (những người có quốc tịch Việt Nam) mà đã được công


2

nhận là quyền con người, được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ. Khiếu nại và tố


cáo là một trong những phương thức thực hiện quyền tự do, dân chủ, góp
phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc trong nhân dân. Đây cũng là
phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình và
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khiếu nại, tố cáo đều hướng tới bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và bảo đảm pháp luật được
thực thi nghiêm minh, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng
nhà nước pháp quyền.
Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đóng góp vai trò to lớn
trong việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, góp phần tích cực vào việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và
kỷ luật nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân là một trong những biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của nhân dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, phát hiện và khắc phục những sai lầm
thiếu sót trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đồng thời củng cố mối quan hệ
và giữ vững niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Đồng thời giải
quyết tốt các vụ việc khiếu nại, tố cáo trên địa bàn còn góp phần giữ vững an
ninh chính trị, ổn định trật tự an toàn xã hội, tạo đà cho việc phát triển kinh tế
của địa phương.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giải quyết
khiếu nại, tố cáo, trong những năm qua cấp ủy và chính quyền địa phương đã
tích cực triển khai quán triệt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo gắn liền với việc triển
khai thực hiện Quyết định số 1133/2013/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ
biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, thị trấn giai đoạn 2013 - 2016” trên
địa bàn huyện Cao Lộc, coi công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là


3


nhiệm vụ quan trọng hàng đầu giúp nhân dân, cán bộ nắm được những quy
định cơ bản của pháp luật để từ đó có ý thức trong việc thực hiện các quyền
khiếu nại, tố cáo đúng quy định. Tổ chức tập huấn 05 cuộc tại huyện, 35 cuộc
tại xã, thị trấn với trên 2000 lượt người nghe, cấp phát tài liệu được trên 2524
quyển Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các văn hướng dẫn thi hành; Tăng
cường công tác kiểm tra trách nhiệm về giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo
được 45 đoàn đối với thủ trưởng cơ quan, UBND các xã, thị trấn; Thực hiện
tốt hình thức tuyên truyền thông qua đối thoại trong công tác bồi thường giải
phòng mặt bằng, hỗ trợ và tái định cư tại các dự án trên địa bàn. Song song
với công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, UBND huyện luôn tập
trung chỉ đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt công tác tiếp công dân,
xử lý các đơn thư phát sinh đặc biệt chú trọng đối với các đơn khiếu nại, tố
cáo thuộc thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được công tác , giải quyết
khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế bất cập, một số nơi cấp uỷ chính quyền
địa phương hoặc thủ trưởng các đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến công tác
lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm xem xét, giải
quyết đơn thuộc thẩm quyền ở một số đơn vị còn chậm, nội dung xử lý chưa
đảm bảo thủ tục quy định, thiếu chặt chẽ dẫn đến một số vụ việc giải quyết
tồn đọng, kéo dài. Cá biệt có vụ việc giải quyết không đúng thẩm quyền, một
số vụ việc phát sinh kéo dài do lịch sử để lại chưa được giải quyết hoặc thi
hành dứt điểm, gây bức xúc trong nhân dân, dẫn đến tình trạng phát sinh đơn
thư gửi vượt cấp vẫn còn xảy ra. Những năm gần đây, trên địa bàn huyện Cao
Lộc được chú trọng đầu tư nhiều dự án, công trình trọng điểm nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội. Cùng với đó, để có
mặt bằng sạch và quỹ đất triển khai các Dự án, công trình UBND huyện phải
thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên


4


đây là một lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
xung quanh công tác này, nếu không được quan tâm giải quyết đúng mức có
thể sẽ trở thành ‘điểm nóng”.
Để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác giải quyết khiếu nại tố cáo
trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, tôi xây dựng Đề án: “Nâng cao
chất lượng công giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Cao Lộc,
tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2016 - 2020”.
2. Mục tiêu của Đề án
2.1. Mục tiêu chung
Khắc phục những tồn tại hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong thời gian qua để chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn được nâng cao hơn nữa trong giai
đoạn 2016 – 2020, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội trong thời
kỳ mới.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đảm bảo phân loại, xử lý 100% đơn tiếp nhận trong thời hạn, đúng
thẩm quyền. Phấn đấu đạt tỷ lệ giải quyết đơn thư từ 85% trở lên. Giải quyết
kịp thời, đúng quy định các kiến nghị của công dân và ý kiến, kiến nghị của
cử tri, tập trung chỉ đạo giải quyết những vụ việc bức xúc, hạn chế khiếu nại
vượt cấp trên địa bàn.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác hoà giải, phấn đấu đạt
75% số vụ việc hòa giải thành ở cơ sở.
- Tổ chức thực hiện dứt điểm các quyết định giải quyết đơn đã có hiệu lực
pháp luật được ban hành và tổ chức thực hiện dứt điểm các quyết định còn tồn
đọng.


5


- 100% các kết luận sau thanh tra, kiểm tra trách nhiệm tiếp công dân,
giải quyết đơn thư được đôn đốc thực hiện có hiệu quả, đúng tiến độ.
3. Giới hạn của Đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề án nghiên cứu về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
quan hành chính Nhà nước trên địa bàn huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
3.2. Không gian: Đề án được áp dụng thực hiện trong phạm vi huyện
Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn.
3.3. Thời gian: Áp dụng thực hiện trên địa bàn huyện Cao Lộc trong
giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020.

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Cơ sở xây dựng Đề án
1.1. Cơ sở lý luận
Khiếu nại, tố cáo là sản phẩm cuộc đấu tranh của nhân loại được hình
thành và phát triển bởi nguồn gốc bất bình đẳng về quyền lợi kinh tế, chính
trị. Nó thể hiện bằng hình thức trong lịch sử, như đánh trống kêu oan, đến
công đường kêu kiện hoặc viết đơn gửi hệ thống chính quyền các cấp để giải
bày oan ức mong được giúp đỡ. Tuy chủ thể khiếu nại, tố cáo là cá nhân hay
tổ chức hoặc một bộ phận cộng đồng thì khiếu nại, tố cáo vẫn là sự đòi hỏi
quyền lợi thiết thực về sự công bằng của giai cấp bị trị đối với giai cấp thống
trị, do đó bản chất nó bao giờ cũng mang tính giai cấp và tồn tại khách quan
khi xã hội có phân chia giai cấp. Trong thế giới hiện đại quyền con người nói
chung và quyền khiếu nại nói riêng được công nhận, cam kết, bảo đảm và
được ghi trong các Công ước, Hiệp ước, Hiến chương quốc tế nó được chứng


6


minh rằng "Mọi người đều có quyền khiếu nại hữu hiệu đến cơ quan tư pháp
quốc gia; Có quyền chống những hành vi vi phạm các quyền cơ bản của con
người đã được Hiến pháp và Pháp luật thừa nhận".
Điều 25 Công ước Châu Mỹ về quyền con người ghi nhận: "Mọi người
đều có quyền hưởng một thủ tục khiếu nại đơn giản và nhanh chóng hoặc mọi
khiếu nại hữu hiệu khác trước các thẩm phán hoặc các Tòa án có thẩm quyền
nhằm bảo vệ người đó chống lại tất cả các hành động vi phạm đến các quyền
cơ bản của họ đã được Hiến pháp, pháp luật hoặc Công ước này thừa nhận,
ngay cả khi vi phạm này do những người thi hành công vụ gây ra…". Ngay
trong những năm đầu của Chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã xác định: "Không
thể giành thắng lợi cho Chủ nghĩa Xã hội toàn thắng và đưa nhân loại tới sự
mất đi của Nhà nước nếu không thực hiện dân chủ một cách đầy đủ".
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác- Lênin vào tiễn cánh mạng Việt Nam. Ngay sau khi giành chính quyền
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng, củng cố mối quan
hệ chặt chẽ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Người nói: “Giữ chặt mối
liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền
tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”. Người đã nhiều lần
chỉ ra ý nghĩa chính trị sâu sắc của công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo của nhân dân. Trong bài nói chuyện với cán bộ Thanh tra tại Hội nghị
Thanh tra toàn miền Bắc ngày 5/3/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn:
“Đồng bào có oan ức mới khiếu nại, tố cáo, hoặc vì chưa hiểu rõ chính sách
của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại, tố cáo. Ta phải giải quyết nhanh, tốt thì
đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm lo lắng đến quyền lợi của họ,
do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ càng được củng cố
tốt hơn”. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
dân chính là một biện pháp quan trọng và thiết thực để củng cố mối quan hệ


7


giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, củng cố lòng tin của nhân dân vào
Đảng và Nhà nước. Trong trường hợp các khiếu nại, tố cáo được các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết kịp thời và thỏa đáng thì những
người dân đi khiếu nại, tố cáo và thậm chí cả những người sống xung quanh
họ sẽ cảm thấy Nhà nước đã tôn trọng, lắng nghe ý kiến của họ, quan tâm, lo
lắng đến quyền lợi của họ và cũng tự nhiên họ thấy Nhà nước gần gũi, gắn bó
với họ và đã thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhưng ngược lại
nếu các khiếu nại, tố cáo, các kiến nghị của dân được các cơ quan, cán bộ Nhà
nước đón nhận bằng một thái độ thờ ơ, thiếu trách nhiệm thì cũng chính
những người dân đó sẽ hình thành tâm trạng thiếu tin tưởng và có xu hướng
xa lánh các cơ quan quản lý. Vì vậy, việc giải quyết nhanh chóng, đúng pháp
luật các khiếu nại, tố cáo của công dân, gắn liền với nó là việc khôi phục kịp
thời quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý nghiêm minh những người
sai phạm, tất yếu sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm cho mối quan
hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước ngày càng gắn bó bền chặt hơn.
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm về “chất lượng”:
Theo từ điển tiếng Việt, chất lượng là khái niệm chỉ cái làm nên phẩm
chất, giá trị của sự vật, hiện tượng; là cái tạo nên bản chất sự vật, hiện tượng
làm cho sự vật, hiện tượng này khác với sự vật, hiện tượng khác. Trong triết
học, chất lượng biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, sự việc, chỉ rõ
nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật, sự việc phân biệt nó với các sự
vật, sự việc khác.
Chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu thị ra
bên ngoài các thuộc tính, các tính chất vốn có của sự vật. Quan niệm chung


8


nhất về “chất lượng” là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một người, một sự
vật, sự việc. Nói đến chất lượng là nói tới hai vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, đó là tổng hợp những phẩm chất, giá trị, những đặc tính tạo
nên cái bản chất của một con người, một sự vật, sự việc;
Thứ hai, những phẩm chất, những đặc tính, những giá trị đó đáp ứng
đến đâu những yêu cầu đã được xác định về con người, sự vật, sự việc đó ở
một thời gian và không gian xác định. Tuy nhiên, những điều này có tính ổn
định tương đối, thay đổi do tác động của những điều kiện chủ quan và khách
quan.
* Khái niệm Khiếu nại
Khoản 1, Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: “Khiếu nại là việc
công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này
quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của
ngýời có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ
luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là
trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”...
* Khái niệm Tố cáo
Khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định:
“1. Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do pháp luật quy định báo cho
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật
của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt
hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ
chức.
2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức
trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ là việc công dân báo cho cơ quan, tổ


9


chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ,
công chức, viên chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
3. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh
vực là việc công dân báo cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền biết về
hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đối với
việc chấp hành quy định pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực”
Nội dung tố cáo của công dân rất đa dạng và phức tạp; có tố cáo về
những việc làm trái pháp luật của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước
khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ; có những tố cáo về những sai phạm trong
công tác quản lý của các cơ quan, trong đó có cơ quan quản lý hành chính nhà
nước. Ngoài ra, công dân có thể tố cáo các hành vi vi phạm về đạo đức, lối
sống của cán bộ, công chức…
Việc tố cáo của công dân cũng theo đó mà đòi hỏi Nhà nước phải có
biện pháp giáo dục, trừng trị kịp thời, thậm chí là áp dụng các biện pháp
nghiêm khắc để loại trừ những hành vi trái pháp luật xâm phạm đến lợi ích
của Nhà nước, của tập thể, của cá nhân.
Điểm khác biệt căn bản giữa khiếu nại và tố cáo là: nội dung khiếu nại
liên quan trực tiếp đến quyền lợi của người khiếu nại; nội dung tố cáo về hành
vi vi phạm pháp luật của người khác có thể không liên quan trực tiếp đến
quyền lợi của người tố cáo.
1.1.2. Giải quyết khiếu nại, tố cáo
1.1.2.1. Giải quyết khiếu nại
Giải quyết khiếu nại là việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định
giải quyết khiếu nại (Khoản 11 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011).


10

Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

giải quyết khiếu nại theo quy định của pháp luật (Khoản 6, Điều 2, Luật
Khiếu nại năm 2011).
* Thẩm quyền giải quyết khiếu nại:
Theo quy định của Luật Khiếu nại thẩm quyền giải quyết khiếu nại
được xác định theo nguyên tắc sau: Khiếu nại đối với quyết định hành chính,
hành vi hành chính của nhân viên thuộc quyền quản lý của cơ quan nào, thủ
trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Khiếu nại đối với quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính của thủ trưởng cơ quan nào thì thủ trưởng cơ
quan đó có trách nhiệm giải quyết. Trên tinh thần đó, Luật khiếu nại quy định cụ
thể thẩm quyền giải quyết khiếu nại của thủ trưởng cùng cấp.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
cấp xã); Thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố trực thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành
chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp (Điều 17
Luật Khiếu nại).
- Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung
là cấp huyện) có thẩm quyền:
+ Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính của mình.
+ Giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính của Chủ tịch UBND cấp xã, thủ trưởng cơ quan thuộc UBND cấp
huyện đã giải quyết lần một nhưng còn khiếu nại (Điều 18, Luật Khiếu nại).
- Chánh Thanh tra các cấp có thẩm quyền:


11

+ Giúp thủ trưởng cơ quan nhà nước cùng cấp tiến hành kiểm tra, xác
minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải

quyết của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp khi được giao.
+ Giúp thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cùng cấp theo dõi, kiểm
tra, đôn đốc các cơ quan thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng trong
việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, thi hành quyết định giải quyết khiếu
nại có hiệu lực pháp luật (Điều 25, Luật Khiếu nại).
- Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận (Điều 66 Luật Khiếu nại):
+ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có
trách nhiệm giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại theo quy định của
Luật này; động viên nhân dân nghiêm chỉnh thi hành pháp luật về khiếu nại;
tổ chức việc tiếp công dân đến khiếu nại; khi nhận được khiếu nại thì nghiên
cứu, hướng dẫn người khiếu nại đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại.
+ Khiếu nại do Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành
viên của Mặt trận chuyển đến phải được người giải quyết khiếu nại xem xét,
giải quyết và trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết phải
thông báo bằng văn bản cho tổ chức đã chuyển đơn biết kết quả giải quyết;
nếu không đồng ý với kết quả giải quyết đó thì tổ chức đã chuyển đơn có
quyền kiến nghị cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết; cơ
quan, tổ chức nhận được kiến nghị có trách nhiệm trả lời kiến nghị đó trong
thời hạn 07 ngày, kể từ ngày có quyết định giải quyết.
1.1.2.2. Giải quyết tố cáo


12

Giải quyết tố cáo là việc tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo
và việc xử lý của người giải quyết tố cáo (Khoản 7 Điều 2 Luật Tố cáo năm
2011)
Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền

giải quyết tố cáo (Khoản 6 Điều 2 Luật tố cáo năm 2011)
* Thẩm quyền giải quyết tố cáo:
Theo quy định của Luật Tố cáo, thẩm quyền giải quyết tố cáo được
xác định theo nguyên tắc sau: Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức do người
đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý cán bộ, công chức, viên
chức đó giải quyết. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện
nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan,
tổ chức do người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan, tổ
chức đó giải quyết…(Điều 12, Luật Tố cáo)
- Luật Tố cáo quy định cụ thể thẩm quyền giải quyết tố cáo của thủ
trưởng các cơ quan hành chính nhà nước (quy định tại Điều 13 Luật tố cáo):
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
cấp xã) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp.
+ Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(sau đây gọi chung là cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi
phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của Chủ tịch, Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, người đứng đầu, cấp phó của người đứng
đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và cán bộ, công
chức do mình bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.


13

- Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập (Điều 15
Luật Tố cáo)
+ Người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền giải quyết
tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của

viên chức do mình tuyển dụng, bổ nhiệm, quản lý trực tiếp.
+ Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quản lý đơn vị sự nghiệp
công lập có thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật
trong việc thực hiện nhiệm vụ của viên chức quản lý do mình bổ nhiệm.
- Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc
thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức của tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội (Điều 16 Luật Tố cáo): Người đứng đầu cơ quan của tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành
vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức,
viên chức do mình quản lý trực tiếp.
- Thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người
được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán bộ, công chức,
viên chức (Điều 17 Luật Tố cáo): Người đứng đầu cơ quan, đơn vị quản lý
trực tiếp người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ mà không phải là cán
bộ, công chức, viên chức có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm
pháp luật của người đó trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là công tác quan trọng trong hoạt động của
Đảng, Nhà nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Tiếp công dân có quan hệ chặt chẽ với giải quyết khiếu nại, tố cáo. Muốn thực


14

hiện tốt việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trước hết cần phải thực hiện tốt việc
tiếp công dân, từ đó sẽ khắc phục được tình trạng khiếu nại, tố cáo tràn lan
vượt cấp cũng như các bất cập khác trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong
thực tế, tiếp công dân là khâu đầu tiên của quá trình giải quyết khiếu nại, tố
cáo vì vậy công tác này có ý nghĩa rất quan trọng, là tiền đề thuận lợi cho việc

giải quyết khiếu nại, tố cáo có chất lượng và hiệu quả cao.
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có vai trò quan trọng trong việc
phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa và xử lý các vi phạm, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ
chức, cá nhân. Bên cạnh đó, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thể hiện
mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thông qua giải quyết khiếu
nại, tố cáo, Đảng và Nhà nước kiểm tra tính đúng đắn, sự phù hợp của đường
lối, chính sách, pháp luật do mình ban hành, từ đó có cơ sở thực tiến để hoàn
thiện sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng trình tự, đúng quy định của
pháp luật, sẽ đảm bảo cho quyền hợp pháp của công dân trong việc đề nghị
với cơ quan nhà nước, tạo lòng tin của nhân dân với Đảng, nhà nước.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời góp phần ổn định chính trị, giải
quyết được bức xúc của người dân, không gây khiếu kiện kéo dài, đơn thư
vượt cấp, không gây ra các điểm nóng về chính trị.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời, đúng hiệu quả sẽ không gây tốn
kém về kinh phí nhà nước phục vụ giải quyết đơn thư.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo kịp thời sẽ ngăn chặn, phòng ngừa những
quyền lợi của công dân, của nhà nước bị xâm phạm, hoặc ngăn chặn kịp thời
hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ công chức khi thực hiện nhiệm vụ.


15

1.1.4. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại, tố cáo
- Đối với giải quyết khiếu nại phải bảo đảm nguyên tắc:
Việc giải quyết khiếu nại phải bảo đảm chính xác, khách quan, công
khai, dân chủ, kịp thời và đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn theo
quy định của pháp luật; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích

hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân.
- Đối với giải quyết tố cáo phải bảo đảm nguyên tắc:
Việc giải quyết tố cáo phải bảo đảm kịp thời, chính xác, khách quan,
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục và thời hạn theo quy định; bảo đảm an toàn
cho người tố cáo; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân; ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh
đó, không để xảy ra tình trạng công dân khiếu kiện vượt cấp, đông người; tập
trung thành điểm “nóng”; không có vụ việc bị hủy bỏ, cải sửa, giải quyết lại.
1.1.5. Tiêu chí đánh giá chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
Để đánh giá chất lượng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, cần căn cứ
trên các tiêu chí cụ thể như sau:
+ Giải quyết kịp thời, chính xác, khách quan, đảm bảo đúng pháp luật.
+ Giải quyết xong trước hoặc đảm bảo thời gian so với quy định của
Luật Khiếu nại.
+ Thời hạn giải quyết đối với giải quyết tố cáo không vượt quá thời hạn
quy định tại Luật Tố cáo.
+ Người khiếu nại, tố cáo hài lòng về kết quả đã giải quyết, không tiếp
khiếu; hạn chế khiếu nại vượt cấp, đông người góp phần ổn định an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế.


16

+ Tiết kiệm nhân, vật lực của cơ quan giải quyết và chi phí, tiền của,
thời gian đi lại của người khiếu nại.
+ Tuân thủ đầy đủ thủ tục, trình tự, đảm bảo hồ sơ giải quyết theo quy định.
1.2. Cở sở chính trị, pháp lý
1.2.1. Cơ sở chính trị
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, trong
nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2016- 2020)

phần IV, mục 7. Phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng
phí tiếp tục nhấn mạnh: “…làm tốt công tác tiếp nhận thông tin và xử lý khiếu
nại, tố cáo…”;
- Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 06/3/2002 của Ban Chấp hành Trung
ương khóa IX về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong giải quyết KN,
TC hiện nay;
- Thông báo số 307-TB/TW ngày 10/02/2010 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về Đề án đổi mới tiếp công dân;
- Chỉ thị 35-CT/TW ngày 26/5/2014 của bộ chính trị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại,
tố cáo;
- Chỉ thị số 19-CT/TU ngày 15/8/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về
tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân và giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
1.2.2. Cơ sở pháp lý
Cơ sở pháp lý của đề án bao gồm các quy định có liên quan trong các
văn bản sau:
- Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.


17

- Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày 11/11/2011; Nghị định số
75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Khiếu nại;
- Luật Tố cáo số 03/2011/QH13 ngày 11/11/2011; Nghị định số
76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều
của Luật Tố cáo;
- Luật Tiếp Công dân số 42/2013/QH13 ngày 25/11/2013; Nghị định
64/2013/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một

số điều của Luật Tiếp công dân.
- Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2014 của Chính
phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo;
- Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV ngày 08/9/2014 của
Thanh tra Chính phủ - Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Thanh tra tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương,
Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh;
- Thông tư 06/2013/TT-TTCP ngày 30/9/2013 của Thanh tra Chính phủ
quy định về quy trình giải quyết tố cáo; Thông tư 07/2013/TT-TTCP ngày
31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định về quy trình giải quyết khiếu
nại hành chính; Thông tư số 46/2012/TTLT-BTC-TTCP ngày 16/3/2012 của
Bộ Tài chính - Bộ Nội vụ quy định chế độ bồi dưỡng đối với cán bộ, công
chức làm công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh.


18

1.3. Cơ sở thực tiễn
Trong những năm qua, cấp ủy và chính quyền tại địa phương đã tích
cực triển khai quán triệt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo gắn liền với việc triển khai
thực hiện Quyết định số 1133/2013/QĐ-TTg ngày 15/7/2013 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, thị trấn giai đoạn 2013 - 2016” trên địa
bàn huyện Cao Lộc, coi công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là nhiệm vụ

quan trọng hàng đầu giúp nhân dân, cán bộ nắm được những quy định cơ bản
của pháp luật để từ đó có ý thức trong việc thực hiện các quyền khiếu nại, tố
cáo đúng quy định. Tổ chức tập huấn 05 cuộc tại huyện, 35 cuộc tại xã, thị
trấn với trên 2000 lượt người nghe, cấp phát tài liệu được trên 2524 quyển
Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và các văn hướng dẫn thi hành; Tăng cường công
tác kiểm tra trách nhiệm về giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được 45 đoàn
đối với thủ trưởng cơ quan, UBND các xã, thị trấn; Thực hiện tốt hình thức
tuyên truyền thông qua đối thoại trong công tác bồi thường giải phòng mặt
bằng, hỗ trợ và tái định cư tại các dự án trên địa bàn. Song song với công tác
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, UBND huyện luôn tập trung chỉ
đạo các cơ quan chuyên môn thực hiện tốt công tác tiếp công dân, xử lý các
đơn thư phát sinh đặc biệt chú trọng đối với các đơn khiếu nại, tố cáo thuộc
thẩm quyền giải quyết.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được công tác , giải quyết
khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế bất cập, một số nơi cấp uỷ chính quyền
địa phương hoặc thủ trưởng các đơn vị chưa quan tâm đúng mức đến công tác
lãnh đạo, chỉ đạo việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm xem xét, giải
quyết đơn thuộc thẩm quyền ở một số đơn vị còn chậm, nội dung xử lý chưa
đảm bảo thủ tục quy định, thiếu chặt chẽ dẫn đến một số vụ việc giải quyết


19

tồn đọng, kéo dài. Cá biệt có vụ việc giải quyết không đúng thẩm quyền, một
số vụ việc phát sinh kéo dài do lịch sử để lại chưa được giải quyết hoặc thi
hành dứt điểm, gây bức xúc trong nhân dân, dẫn đến tình trạng phát sinh đơn
thư gửi vượt cấp vẫn còn xảy ra. Những năm gần đây, trên địa bàn huyện Cao
Lộc được chú trọng đầu tư nhiều dự án, công trình trọng điểm nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội. Cùng với đó, để có
mặt bằng sạch và quỹ đất triển khai các Dự án, công trình UBND huyện phải

thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên
đây là một lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị
xung quanh công tác này, nếu không được quan tâm giải quyết đúng mức có
thể sẽ trở thành ‘điểm nóng”. Nhiều vụ việc giải quyết chậm thời hạn, tỷ lệ
giải quyết đạt thấp, một số cấp ủy, chính quyền địa phương chưa quan tâm chỉ
đạo, lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác này. Cá biệt có vụ việc giải quyết
chưa đúng quy trình gây bức xúc trong nhân nhân.
Trước tình hình đó, để hạn chế và giải quyết dứt điểm các vụ việc khiếu
nại, tố cáo, ngoài việc tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục
pháp luật cho người dân, chúng ta cần phải có nhiều giải pháp và phải giải
quyết một cách đồng bộ nhằm nâng cao chất lượng công tác giải quyết khiếu
nại, tố cáo trên đại bàn huyện Cao Lộc trong thời gian tới.
2. Nội dung thực hiện Đề án
2.1. Bối cảnh thực hiện
Cao Lộc là huyện miền núi biên giới phía Bắc của tỉnh Lạng Sơn, là
huyện có vị trí quan trọng về kinh tế - xã hội, Quốc phòng - an ninh của tỉnh,
có địa hình bao quanh thành phố Lạng Sơn với 21 xã và 02 thị trấn với 206
thôn, khối phố; trong đó có 05 xã, 01 thị trấn biên giới. Tổng diện tích tự nhiên
619,08 km2, có đường biên giới Việt - Trung dài trên 74 km, có 02 cửa khẩu
Quốc tế Hữu Nghị (đường bộ, đường sắt) và 02 cửa khẩu phụ (Pò Nhùng, Co


20

Sâu). Dân số của huyện là 76.337 người với 17.484 hộ gồm các dân tộc gồm 5
dân tộc là Nùng 58,66%, Tày 31,35%, Kinh 7,09%, Dao 2,42%, Hoa 0,42%, các
dân tộc khác 0,06% cùng sinh sống đoàn kết, hòa thuận hăng hái thi đua lao
động sản xuất nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước.
Về kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp, đời sống của một bộ

phận nhân dân còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí không đồng đều, mặt trái
của cơ chế thị trường dẫn đến giá trị về quyền sử dụng đất tăng nhanh, cơ
chế, chính sách về bồi thường, giải phóng mặt bằng thường xuyên thay đổi,
việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất để thực hiện các dự án còn có thiếu sót, hạn chế sẽ có những tác động ảnh
hưởng đến việc khiếu nại, tố cáo của công dân.
Trong những năm qua, dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh, Huyện uỷ và
sự cố gắng của các cấp chính quyền từ huyện đến cơ sở, tình hình kinh tế xã
hội của huyện tiếp tục có bước phát triển; quốc phòng - an ninh được giữ
vững, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được ổn định; đời sống
vật chất tinh thần của nhân dân được nâng cao rõ rệt. Đồng thời, trên địa bàn
huyện Cao Lộc được chú trọng đầu tư nhiều dự án, công trình trọng điểm
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội. Cùng
với đó, để có mặt bằng sạch và quỹ đất triển khai các Dự án, công trình
UBND huyện phải thực hiện công tác thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt
bằng. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh các khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị xung quanh công tác này, nếu không được quan tâm giải quyết
đúng mức có thể sẽ trở thành ‘’điểm nóng”.
Cùng với việc thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, chúng ta đã
quan tâm và thực hiện có hiệu quả cải cách về tư pháp và hệ thống pháp luật,
trong đó nổi bật là hoạt động cải cách thủ tục hành chính và giải quyết khiếu


21

nại, tố cáo là một lĩnh vực được chú trọng xây dựng và hoàn thiện. Cơ chế
giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những thể chế rất quan trọng thuộc
lĩnh vực quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân. Hoàn thiện cơ chế này sẽ góp
phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động hành chính công, đồng thời
tăng cường việc thực thi các quyền dân sự, chính trị của người dân.

Trong một thời gian dài, pháp luật khiếu nại, tố cáo đã được chỉnh sửa,
hoàn thiện nhiều lần, nhưng thực tiễn cho thấy, công tác giải quyết đơn khiếu
nại, tố cáo của các cơ quan hành chính nhà nước ngày càng bộc lộ nhiều khó
khăn, bất cập và ngày càng gia tăng số lượng các đơn thư khiếu nại, tố cáo của
người dân về các quyết định, hành vi hành chính của các cơ quan nhà nước, ở
tất cả các cấp chính quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và trên hầu hết các
lĩnh vực dân sinh: đất đai, môi trường, y tế, giao thông, xây dựng, kinh
doanh... Tính chất và nội dung khiếu kiện ngày càng phức tạp, nó đặt ra một
yêu cầu cấp bách là phải giải quyết hiệu quả, nhanh chóng những đơn thư
khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Từ những hạn chế bất cập về cơ chế, chính sách cũng như trình độ,
năng lực quản lý ở địa phương trước những yêu cầu khách quan trong quá
trình đổi mới và hội nhập, tình hình kinh tế xã hội của huyện Cao Lộc có
những chuyển biến căn bản, việc mở rộng quy hoạch đất đai xây dựng các
công trình công cộng; triển khai các dự án xây dựng nông thôn mới, các
chương trình dự án khác đầu tư phát triển ở vùng dân tộc thiểu số, việc triển
khai dự án ảnh hưởng và thiệt hại trực tiếp đến đất đai của nhân dân trong sản
xuất nông nghiệp mặt khác các quy định của pháp luật đất đai thiếu đồng bộ,
dẫn đến trên địa bàn huyện trong những năm vừa qua vẫn phát sinh nhiều đơn
thư liên quan đến thu hồi, giải phóng mặt bằng còn kéo dài nhiều năm như Dự


22

án Trung tâm Thương mại Đồng Đăng, Dự án cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị....
chưa được giải quyết dứt điểm.
2.2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết của đề án
2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác giải quyết khiếu nại, tố
cáo ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn

- Cấp xã: qua thu thập số liệu không phát sinh đơn khiếu nại, tố cáo, chỉ
phát sinh đơn đề nghị, kiến nghị về các lĩnh vực đất đai, chế độ chính sách,
các tranh chấp dân sự khác.
- Cấp huyện: Kết quả giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm
quyền của Chủ tịch UBND huyện Cao Lộc từ năm 2011 đến tháng 6/2016.
PHÂN
LOẠI

KHIẾU NẠI

TỐ CÁO

NĂM

Tổng
số

Đã giải
quyết

Tỷ lệ

Tổng
số

Đã giải
quyết

Tỷ lệ


2011

27

26

96,2%

3

3

100%

2012

21

21

100%

3

3

100%

2013


32

29

90,6%

7

7

100%

2014

17

15

88,2%

4

3

75%

2015

12


11

91,6%

6

6

100%

6
tháng
đầu năm
2016

4

4

100%

3

2

66,6%


23


Cộng

113

106

TB đạt
93,8%

26

24

TB đạt
92,3%

(Số liệu Báo cáo của Ủy ban nhân dân huyện Cao Lộc)
Tổng số đơn khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND
huyện từ năm 2011 đến 6 tháng đầu năm 2016 là 137 đơn, trong đó có 113
đơn khiếu nại và 24 đơn tố cáo. Kết quả giải quyết qua từng năm như biểu số
liệu nêu trên, tính trung bình kết quả giải quyết đều đạt tỷ lệ trên 90% trở lên.
Trong thời gian qua cấp ủy chính quyền địa phương đã quan tâm xem
xét, giải quyết đơn thư theo thẩm quyền quy định, rà soát, nắm chắc các vụ
việc tồn đọng theo các văn bản chỉ đạo của UBND tỉnh như: văn bản số
1216/UBND-TCD ngày 15/11/2013 về việc thực hiện kết luận của Phó Thủ
tướng Chính phủ về việc giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài; Kế hoạch
số 107/KH-UBND ngày 18/11/2013 về tiếp tục kiểm tra, rà soát, giải quyết
các vụ việc tồn đọng, kéo dài trên địa bàn tỉnh theo Kế hoạch số 2100/KHTTCP ngày 19/9/2013 của Thanh tra Chính phủ; Văn bản số 200/UBND-NC
ngày 07/3/2014 về việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan,
đơn vị trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thanh tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; Văn bản số 174/UBND-BTCD
ngày 05/3/2015 về việc chấn chỉnh, nâng cao vai trò, trách nhiệm của người
đứng đầu trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Văn bản số
579/UBND-BTCD ngày 22/6/2015 về việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; Văn bản số
93/UBND-BTCD ngày 28/01/2016 về việc nâng cao vai trò, trách nhiệm, hiệu
quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm đảm bảo ổn
định tình hình xã hội, không phát sinh điểm nóng về khiếu nại, tố cáo.
Việc công dân đến kiến nghị, phản ánh tại nơi ở cấp xã có chiều hướng
giảm so với những năm trước đây, nhưng có sự gia tăng về số lượng tại Uỷ


24

ban nhân dân cấp huyện. Nội dung chủ yếu là tranh chấp đất đai, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, chế độ, chính sách về công tác thu hồi đất, bồi
thường giải phóng mặt bằng các dự án ... Từ thực trạng trên cho thấy chất
lượng ở cơ sở còn hạn chế, một số đơn vị chưa quan tâm đến công tác này,
gây bức xúc và thiếu tin tưởng của công dân đối với chính quyền cấp xã mà
có xu hướng đến cơ quan cấp trên để yêu cầu, kiến nghị, phản ánh. Mặt khác
thể hiện trình độ dân trí, năng lực nhận thức, ý thức pháp luật của công dân
còn hạn chế, có tâm lý yêu cầu cơ quan cấp trên xem xét thì sẽ được giải
quyết nhanh chóng.
Đơn khiếu nại, tố cáo ít phát sinh hơn so với đơn đề nghị, nhưng các vụ
việc đều có tính chất phức tạp, văn bản áp dụng giải quyết có nhiều bất cập,
thường xuyên thay đổi, một số vụ việc cần phải xin ý kiến cơ quan cấp trên;
năng lực trình độ, của một một phận cán bộ, công chức chưa đáp ứng được
yêu cầu.
2.2.2. Những tồn tại cần giải quyết
Từ đánh giá thực trạng kết quả giải quyết khiếu nại tố cáo trong những

năm qua trên địa bàn huyện và dự báo xu hướng khiếu nại, tố cáo vẫn còn
những diễn biến phức tạp, số vụ việc khiếu nại, tố cáo sẽ có chiều có gia tăng,
do nhu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
- Số vụ việc tranh chấp, đề nghị, kiến nghị chậm giải quyết vẫn còn nhiều
có thể dẫn đến khiếu nại, tố cáo, một số địa phương chưa tập trung chỉ đạo giải
quyết đơn thư thuộc thẩm thường xuyên, chưa thực hiện nghiêm các quy định
của pháp luật về trình tự, thủ tục, một số vụ việc giải quyết chưa xác định đúng
thẩm quyền gây bức xúc cho nhân dân ảnh hưởng đến sự tin tưởng của công
dân vào việc giải quyết của các cấp chính quyền, tình trạng khiếu nại, tố cáo
vượt cấp, gây sức ép lên các cấp trên.


25

- Công tác xem xét, giải quyết đơn thuộc thẩm quyền ở một số đơn vị
còn chậm, nội dung xử lý chưa đảm bảo thủ tục quy định, thiếu chặt chẽ dẫn
đến một số vụ việc giải quyết tồn đọng, kéo dài. Cá biệt có vụ việc giải quyết
không đúng thẩm quyền, một số vụ việc phát sinh kéo dài do lịch sử để lại
chưa được giải quyết hoặc thi hành dứt điểm, gây bức xúc trong nhân dân,
dẫn đến tình trạng phát sinh đơn thư gửi vượt cấp vẫn còn xảy ra.
- Công tác phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, xác định nội dung
và thẩm quyền giải quyết của cán bộ một số cơ quan, đơn vị chưa trúng và
chưa đúng dẫn đến việc phân loại và xử lý đơn còn chồng chéo, vòng vo mất
thời gian giải quyết;
- Có nhiều vụ việc giải quyết chậm, thẩm tra, xác minh sơ sài, thu thập
chứng cứ không đầy đủ, kết luận thiếu chính xác, áp dụng pháp luật cứng
nhắc, phương án giải quyết thiếu thuyết phục, dân không đồng tình, tiếp tục
khiếu nại, tố cáo.
- Việc kiểm tra thực hiện các quyết định, kết luận giải quyết đơn thư
khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế, bất cập dẫn đến việc thực hiện quyết

định, kết luận chưa nghiêm. Công tác xử lý đối với cán bộ có sai phạm còn nể
nang, chưa triệt để.
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại
* Nguyên nhân khách quan
- Một số văn bản hướng dẫn về quy trình, thủ tục , tiếp nhận xử lý đơn
thư, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều bất cập, chậm được ban hành, thiếu
cơ chế đồng bộ cho việc xử lý, giải quyết; Cơ chế, chính sách, pháp luật còn
có những bất cập, chưa phù hợp thực tế; công tác quản lý nhà nước còn có
những yếu kém, sai phạm, nhất là trong lĩnh vực đất đai. Trong nhiều trường


×