Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Nghiên cứu đánh giá trình độ tập luyện của nam vận động viên cầu lông trẻ 8 9 tuổi, đội năng khiếu tỉnh trà vinh sau một năm tập luyện (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.96 KB, 25 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Đảng và Nhà nước ta luôn xác định tầm quan trọng của công tác giáo
dục thể chất cho thế hệ trẻ. Nó là mục tiêu cơ bản của quá trình đào tạo toàn
diện, một bộ phận quan trọng của hệ thống quốc dân. Nghị quyết Trung ương
II khóa VIII của Đảng khẳng định mục tiêu của giáo dục và đào tạo là nhằm
tạo ra một lớp người: “Phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất,
phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức.” Để đáp ứng yêu cầu ngày
càng cao về sức khỏe và thể chất, cho đội ngũ những người lao động mới,
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong sự nghiệp công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Thể dục, thể thao trong nhà trường vừa là một môn học vừa là một mặt
của giáo dục toàn diện, là một bộ phận của TDTT cho mọi người. Nó bao
gồm giáo dục thể chất bắt buộc (2 tiết một tuần với học sinh phổ thông; từ 90150 tiết/năm học đối với học sinh, sinh viên đại học, cao đẳng, trung học
chuyên nghiệp và dạy nghề). Giáo dục thể chất bắt buộc được gọi là giờ thể
dục chính khoá hoặc giờ thể dục nội khoá. Thời lượng như vậy dành cho
GDTC là còn ít so với các nước phát triển, không đủ để giải quyết các nhiệm
vụ của GDTC. Vì thế con đường tất yếu và duy nhất là cần phải đổi mới
phương thức và xây dựng nội dung chương trình giảng dạy môn thể thao tự
chọn sao cho phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường.
Một trong những khó khăn của giờ dạy thể dục là phải hình thành được
kỹ năng thực hiện cơ bản và tạo ra sự hứng thú tập luyện trong sinh viên. Môn
thể thao tự chọn được nhiều trường tổ chức giảng dạy cho sinh viên xuyên
suốt các năm học. Nhưng để sinh viên nắm vững cơ sở lý thuyết, nguyên lí kỹ
thuật cơ bản để vận dụng vào các buổi học cũng như ứng dụng trong cuộc
sống là một vấn đề tương đối khó.


2


Môn Taekwondo là môn thể thao được nhiều người ưa thích, có tính
hấp dẫn cao, dễ tập, thích hợp với mọi lứa tuổi, đặc biệt là lứa tuổi sinh viên.
Ngoài ra Taekwondo còn được coi như một phương tiện tự vệ, rèn luyện và
hồi phục sức khỏe sau ngày học tập mệt nhọc. Trong Taekwondo, sự hoàn
hảo của người tập luyện phải hội đủ các tố chất: nhanh, mạnh, bền, mềm dẽo,
khéo léo (khả năng phối hợp vận động). Mặt khác giáo dục cho các em phẩm
chất đạo đức tốt đẹp như: tinh thần thượng võ, lòng dũng cảm, năng lực tự
chủ, ý thức tổ chức kỷ luật.
Nhiệm vụ và mục tiêu của TDTT trường học là nâng cao sức khoẻ, đảm
bảo sự phát triển bình thường của cơ thể học sinh; phát triển các tố chất thể
lực và kỹ năng vận động cơ bản của con người; hình thành thói quen rèn
luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh và rèn luyện đạo đức ý chí cho người học.
Nắm bắt được tầm quan trọng của thể dục thể thao đối với sức khỏe của
mọi người ở mọi tầng lớp trong xã hội nói chung và đối với sinh viên không
chuyên trường Đại học Trà Vinh nói riêng. Những năm gần đây theo chỉ đạo
của BGD&ĐT yêu cầu các trường Đại học và Cao đẳng phải nâng cao đổi
mới chương trình, nội dung giảng dạy và phương pháp, phương tiện, hình
thức lên lớp đảm bảo tính tích cực của người học góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo nhằm đảm bảo xu thế hội nhập với các nước tiên tiến. Lãnh đạo
trường Đại học Trà Vinh đã mạnh dạn thay đổi và nâng cao từng bước
chương trình Giáo dục thể chất cho sinh viên không chuyên thể thao trong
nhà trường. Với xu thế đó của nhà trường và với trách nhiệm của một giảng
viên đang trực tiếp tham gia giảng dạy tại trường, nhằm làm cho chương trình
Giáo dục thể chất của trường ngày một hoàn thiện hơn, đa dạng, phong phú
hơn. Xuất phát từ những vấn đề trên, xét thấy vấn đề này là cần thiết và có ý
nghĩa thực tế, vì vậy tôi chọn đề tài:


3


“NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY MÔN
TAEKWONDO VÀO HỌC PHẦN TỰ CHỌN CHO SINH VIÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC TRÀ VINH”.
Mục đích nghiên cứu:
Nhằm xây dựng được chương trình giảng dạy môn học Taekwondo vào
học phần tự chọn cho sinh viên Trường Đại học Trà Vinh, góp phần chuẩn
hóa nội dung giảng dạy, nâng cao thể lực cho sinh viên Trường Đại học Trà
Vinh.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết 3 nhiệm vụ là:
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng công tác giảng dạy giáo dục thể chất tại
trường Trường Đại học Trà Vinh.
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu xây dựng chương trình giảng dạy môn
Taekwondo vào học phần tự chọn cho sinh viên Trường Đại học Trà Vinh.
Nhiệm vụ 3: Đánh giá hiệu quả của việc ứng dụng chương trình giảng
dạy môn Taekwondo vào học phần tự chọn cho sinh viên Trường Đại học Trà
Vinh.


4

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về công tác Giáo dục
thể chất và Thể thao trong nhà trường.
Công tác Thể dục thể thao nói chung và Giáo dục thể chất và Thể thao

trường học nói riêng được Đảng và nhà nước ta quan tâm chỉ đạo bằng việc

hoạch định đường lối, quan điểm Thể dục thể thao và được thể hiện xuyên
suốt trong các chủ trương, đường lối của Đảng. Quan điểm chủ đạo xuyên
suốt của Đảng là: "Con người là vốn quý nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bảo vệ và bồi dưỡng sức khỏe của con người là nghĩa vụ và mục tiêu cao quý
của các ngành y tế Thể dục thể thao dưới chế độ ta, và chính vì thế mà Đảng
và Chính phủ ta rất coi trọng ngành y tế và Thể dục thể thao" [53].
Trong từng giai đoạn lịch sử của đất nước Đảng và Nhà nước đều có
những chủ trương, quan điểm chỉ đạo phù hợp với tình hình thực tiễn của đất
nước như: Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công. Tháng 01/1946 Bác
Hồ ra Sắc lệnh số 14 thành lập Nha Thể dục trung ương để gây dựng phong
trào tập luyện thể dục, tăng bổ sức khỏe đại chúng, cải tạo giống nòi. Tháng
3/1957, Thủ tướng chính phủ ban hành Nghị định thành lập Ban Thể dục thể
thao trung ương trực thuộc Thủ tướng chính phủ [52].
Đến tháng 7/1961, Ban Thể dục thể thao được nâng lên thành Ủy ban
Thể dục thể thao trực thuộc Hội đồng chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo công
tác Thể dục thể thao theo đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. [53]
Điều đó, cho thấy nhà nước và chính phủ rất xem trọng vai trò quản lý
nhà nước đối với công tác Thể dục thể thao.
Ngay khi thành lập nước, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa
từ năm 1960 đã khẳng định: "Nhà nước chú trọng đặc biệt giáo dục thanh niên


5

về đạo đức, trí tuệ và thể dục". Hiến pháp năm 1980 nước Cộng hòa Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, Điều 41 nêu rõ: "Nền Thể dục thể thao Việt Nam có tính
chất dân tộc, khoa học và nhân dân, được phát triển mạnh mẽ,cân đối, nhằm
tăng cường sức khỏe và bồi dưỡng thể lực của nhân dân để xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc". Đến Hiến pháp năm 1992 thì làm rõ hơn vị
trí, trách nhiệm của công tác giáo dục thể chất. Điều 41 Hiến pháp (1992) quy

định: "Nhà nước quản lý thống nhất công tác Thể dục thể thao, quy định các
chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học, khuyến khích và giúp đỡ
phát triển các hình thức tập luyện Thể dục thể thao tự nguyện của nhân dân..."
[11].
Ngay sau khi miền Nam mới vừa được giải phóng, Ban chấp hành
Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 221-CT/TW ngày17 tháng 6 năm 1975
về công tác giáo dục ở miền Nam sau ngày hoàn toàn giải phóng, trong đó
nhấn mạnh:"Nội dung giáo dục phổ thông là toàn diện, bao gồm giáo dục
chính trị và đạo đức cách mạng, giáo dục văn hóa, khoa học, giáo dục kỹ
thuật, giáo dục lao động và giáo dục thể chất" [47].
Tháng 11/1975, Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số
227/CT/TW về công tác Thể dục thể thao trong tình hình mới, đưa ra những
nội dung hoạt động Thể dục thể thao trong điều kiện mới, chỉ đạo công tác
Thể dục thể thao trong nhà trường cần được chú trọng: "Tổ chức tốt việc học
tập thể dục buổi sáng, thể dục trước giờ, giữa giờ cho các trường học. Phát
triển các trò chơi vận động trong thiếu niên và học sinh…" [53].
Trong việc chăm lo cho sự nghiệp giáo dục Ngày 11/01/1979, Bộ
Chính trị ban hành Nghị quyết số 14-NQ-TW về cải cách giáo dục, trong đó
yêu cầu ngành giáo dục đào tạo và Thể dục thể thao phải "Chăm lo xây dựng
thói quen giữ gìn vệ sinh và rèn luyện thân thể của học sinh, đẩy mạnh các
hoạt động Thể dục thể thao, nâng cao chất lượng luyện tập quân sự, chuẩn bị


6

tốt cho học sinh về ý thức và năng lực sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc...".
Nghị quyết cũng nêu rõ đối với các trường phổ thông cơ sở, giáo dục học sinh
ý thức và thói quen giữ gìn vệ sinh và rèn luyện thân thể. Ở trường phổ thông
trung học thì coi trọng giáo dục thẩm mỹ và nghệ thuật, giáo dục và rèn luyện
thể chất, thể dục thể thao và luyện tập quân sự cho học sinh [53].

Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ V của Đảng nhấn mạnh: "Thể dục
thể thao là một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong công cuộc xây
dựng nền văn hóa mới, con người mới". Và để cho sự nghiệp Thể dục thể
thao nước ta phát triển vững chắc, đem lại những hiệu quả thiết thực, Đảng đã
khẳng định: "Trong những năm tới cần mở rộng và nâng cao chất lượng các
hoạt động Thể dục thể thao quần chúng, trước hết là trong học sinh, thanh
niên" [14].
Ngày 03/02/1983 qua văn bản số: 380-V.10, Hội đồng Bộ trựởng cho
phép mở đầu phong trào HKPĐ nhằm nâng cao chất lượng phong trào TDTT
của tuổi trẻ, thiết thực góp phần thực hiện Nghị quyết cùa Bộ Chính trị TW
Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách giáo dục. Qua đó, Hội đồng Bộ trưởng
đồng ý để Tổng cục TDTT, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh phát động cuộc vận động lớn về rèn luyện thân thể, giáo dục đạo đức,
xây dựng nếp sống mới bằng việc tổ chức HKPĐ từ cơ sở lên toàn quốc.
Bước sang thời kỳ đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hết sức chú
trọng công tác TDTT trong trường học và đã chỉ đạo cần phát triển rộng rãi
phong trào TDTT quần chúng với khẩu hiệu: “Khỏe để xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” đồng thời ‘Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học.
Làm cho việc tập luyện thể dục thể thao trở thành nếp sống hàng ngày của
hầu hết HS, SV, thanh niên...” [1].
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã định
hướng về giáo dục và đào tạo phải gắn với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát


7

triển khoa học, kỹ thuật, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới. Nhà
nước có chính sách toàn diện thực hiện giáo dục phổ cập phù hợp với yêu cầu
có khả năng của nền kinh tế, phát triển năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài, đặc
biệt là cần phải coi trọng giáo dục thể chất trong trường học. Báo cáo chính trị

tại Đại hội nêu rõ: "... Công tác Thể dục thể thao cần coi trọng nâng cao chất
lượng giáo dục thể chất trong trường học..." và "...Xây dựng phong trào toàn
dân rèn luyện thân thể, hoạt động Thể dục thể thao, nhất là trong thanh thiếu
niên" [15].
Tháng 3/1994, Ban Bí thư TW Đảng ra Chỉ thị 36/CT-TW về công tác
Thể dục thể thao trong giai đoạn mới. Chỉ thị đã chỉ rõ bên cạnh những thành
tựu, những tiến bộ đạt được, thì nhìn chung công tác Thể dục thể thao của
nước ta còn ở trình độ rất thấp, trong đó "hiệu quả giáo dục thể chất trong
trường học còn thấp", "Cơ sở vật chất và khoa học kỹ thuật của Thể dục thể
thao vừa thiếu, vừa lạc hậu ngay cả ở các thành phố lớn, các địa bàn tập trung
dân cư, các trường học". Chỉ thị cũng khẳng định: "Mục tiêu cơ bản, lâu dài
của công tác Thể dục thể thao là hình thành nền Thể dục thể thao phát triển và
tiến bộ, góp phần nâng cao sức khỏe, thể lực, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh
thần của nhân dân". Đối với công tác giáo dục thể chất cần phải "Thực hiện
giáo dục thể chất trong tất cả các trường học nhằm mục tiêu làm cho việc tập
luyện Thể dục thể thao trở thành nếp sống hàng ngày của học sinh sinh viên"
[1].
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996 tiếp tục
khẳng định: "Giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ phải thực sự trở thành
quốc sách hàng đầu" và "Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh
không những chỉ có con người cường tráng về thể chất chăm lo cho con người
về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội và của tất cả các cấp các ngành, các
đoàn thể" [16].


8

Trong Nghị quyết TW 2 (khóa VIII) về Giáo dục đào tạo và Khoa học
công nghệ, Đảng ta đã xác định: "Thực hiện các nhiệm vụ xây dựng con
người và thế hệ trẻ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa

xã hội có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường, xây dựng vào bảo vệ Tổ
quốc, có trình độ làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy
sáng tạo và có sức khỏe". Nghị quyết cũng nhấn mạnh rằng: "Đối với giáo
dục điều đáng quan tâm nhất là chất lượng hiệu quả giáo dục và yêu cầu giáo
dục phải nhằm vào mục tiêu thực hiện giáo dục toàn diện: đạo đức, trí dục,
thể dục, mỹ dục, trong tất cả các cấp" [53] .
Đại hội lần thứ IX của Đảng tháng 4/2001 đã tiến hành tổng kết 15 năm
đổi mới của đất nước trong bối cảnh toàn nhân loại kết thúc thế kỷ XX và
bước sang kỳ nguyên mới. Một trong mười bài học chủ yếu của 15 năm đổi
mới là "Phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc...” [17].
Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Ban bí thư
Trung ương Đảng đã ban hành chỉ thị số 17/CT-TW(23/10/2002) về phát triển
thể dục - thể thao đến năm 2010, đã giao cho ngành Thể dục thể thao và giáo
dục đào tạo đẩy mạnh hoạt động Thể dục thể thao ở trường học, đảm bảo mỗi
trường học đều có giáo viên chuyên trách [17].
Đại hội lần thứ X của Đảng vào tháng 5/2006, một trong những mục
tiêu và phương hướng tổng quát của giai đoạn 5 năm (2006-2010) đã được
Đại hội xác định là: “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước”. Khi đề cập đến vấn đề sức khoẻ của nhân dân, Đại hội
cũng xác định cần phải “ Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ,
tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.
Tăng cường thể lực của thanh niên” [18]


9

Tháng 11/2006 Quốc hội đã thông qua Luật thể dục thể thao, ghi dấu ấn
mới cho sự phát triển Thể dục thể thao của nước nhà. Luật Thể dục thể thao

đã dành riêng một mục (mục 2) gồm 6 điều để quy định về công tác giáo dục
thể chất và thể thao trong nhà trường, đây là cơ sở pháp lý để Nhà nước,
Chính phủ và các bộ ngành tăng cường trách nhiệm đối với công tác Thể dục
thể thao nói chung, hoạt động giáo dục thể chất và thể thao trong trường học
nói riêng. Nhằm đưa công tác giáo dục thể chất trong nhà trường trở thành
một bộ phận quan trọng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cũng như xác định
đúng đắn về vị trí giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường các cấp [12].
Tại Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội XI của Đảng, đã khẳng định
phát triển, nâng cao chất lượng nguồn lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất
nước. Vì vậy, cần phải “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá; đổi mới chương trình, nội dung, phương
pháp dạy và học” [7].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng khẳng định: “Đổi mới căn bản là toàn
diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội, nâng cao chất
lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội
nhập quốc tế”.
Trước hiện trạng sự nghiệp Thể dục thể thao của đất nước nói chung và
công tác Thể dục thể thao trường học nói riêng đang có nhiều bất cập và hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của đất nước. Tháng 12/2011, Bộ chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 08-NQ-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo
bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020, trong phần đánh
giá những tồn tại, hạn chế, Nghị quyết đã chỉ rõ: "Giáo dục thể chất và hoạt
động thể thao trong học sinh, sinh viên chưa thường xuyên và kém hiệu quả".


10

Nghị quyết nêu ra nhiệm vụ: “Cần quan tâm đầu tư đúng mức thể dục thể thao

trường học, với vị trí là một bộ phận quan trọng của phong trào thể dục, thể
thao; là một mặt của giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh, sinh viên”
[34]. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020 "Phấn đấu 90% học sinh sinh viên
đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể".
Tháng 12/2010, Thủ tưởng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát
triển Thể dục thể thao Việt Nam đến năm 2020, trong Chiến lược đã dành
riêng một phần quang trọng trong công tác giáo dục thể chất và thể thao trong
nhà trường. Khi đề cập đến những yếu kém, tồn tại của công tác giáo dục thể
chất, chiến lược đã nêu rõ: "Công tác giáo dục thể chất trong nhà trường và
các hoạt động thể thao ngoại khóa của học sinh, sinh viên chưa được coi
trọng, chưa đáp ứng yêu cầu duy trì và nâng cao sức khỏe cho học sinh, là
một trong số các nguyên nhân khiến cho thể lực và tầm vóc người Việt Nam
thua kém rõ rệt so với một số nước trong khu vực. Các cơ sở giáo dục đào tạo
còn thiếu sân bãi, phòng tập, dụng cụ phục vụ cho nhu cầu tập luyện, thi đấu
và vui chơi giải trí của học sinh, sinh viên, đội ngũ giáo viên thể dục còn
thiếu, chương trình chính khóa cũng như nội dung hoạt động ngoại khóa còn
nghèo nàn, chưa hợp lý, không hấp dẫn học sinh tham gia các hoạt động Thể
dục thể thao ngoại khóa" [46].
Ngày 31/01/2015 Chính phủ ban hành nghị định số 11/2015/NĐ-CP,
Quy định về giáo dục thể chất và hoạt động Thể thao trong nhà trường. Nghị
định nêu bật vị trí của Giáo dục thể chất trong nhà trường là nội dung giáo
dục, môn học bắt buộc, thuộc chương trình giáo dục của các cấp học và trình
độ đào tạo, nhằm trang bị cho trẻ em, học sinh, sinh viên các kiến thức, kỹ
năng vận động cơ bản, hình thành thói quen luyện tập thể dục, thể thao để
nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc, góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục toàn diện [48].


11


Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước, Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng rất quan tâm đến công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học
thông qua các văn bản chỉ đạo như:
Ngày 03 tháng 5 năm 2001, ban hành Quyết định số 14/2001/QĐBGDĐT về Quy chế Giáo dục thể chất và y tế trường học, quy định các hình
thức hoạt động giáo dục thể chất và thể thao trong nhà trường [3].
Theo đó, giờ học nội khóa là giờ học môn thể dục, sức khỏe theo
chương trình quy định của Bộ; còn hoạt động Thể dục thể thao ngoại khóa
được thực hiện theo kế hoạch của nhà trường và các cấp quản lý giáo dục
chương trình chính khoá.
Năm 2006 Bộ giáo dục và Đào tạo đã ban hành Chương trình giáo dục
phổ thông trong đó có môn thể dục chính khóa được tổ chức dạy và học trên
tất cả các cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân [5].
Ngày 18 tháng 9 năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết
định số 53/2008/QĐ-BGDĐT về việc Quy định đánh giá, xếp loại thể lực học
sinh, sinh viên [6].
Ngày 23 tháng 12 năm 2008. Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết
định số 72/2008/QĐ-BGDĐT về việc Quy định tổ chức hoạt động thể thao
ngoại khóa cho học sinh, sinh viên. Nêu rõ những công việc của giáo viên,
cán bộ GDTC: “Đề xuất và trực tiếp tổ chức các hoạt động thể thao ngoại
khoá, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu thể thao,... được hưởng chế độ phụ
cấp đặc thù theo quy định hiện hành” [2].
Do vậy, việc nghiên cứu cải tiến công tác quản lý, nội dung, phương
pháp dạy học, hình thức học tập, rèn luyện Thể dục thể thao nội và ngoại khóa
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất và thể thao trường học cho sinh
viên là một đòi hỏi cấp thiết và có ý nghĩa rất quan trọng giai đoạn hiện nay.


12

1.2. Cơ sở lý luận về xây dựng chương trình giáo dục

1.2.1. Các khái niệm về chương trình
Theo từ điển tiếng Việt “Chương trình” là toàn bộ những nội dung dự
kiến hoạt động theo một trình tự nhất định và trong một thời gian nhất định [55].
Còn theo từ điển Giáo dục học; khái niệm chương trình đào tạo được
hiểu là: “Văn bản chính thức quy định mục đích, mục tiêu, yêu cầu, nội dung
kiến thức và kỹ năng, cấu trúc tổng thể các bộ môn, kế hoạch lên lớp và thực
tập theo từng năm học, tỷ lệ giữa các bộ môn, giữa lý thuyết và thực hành,
quy định phương thức, phương pháp, phương tiện, cơ sở vật chất, chứng chỉ
và văn bằng tốt nghiệp của cơ sở giáo dục và đào tạo” [51].
Theo Wentling (1993): “Chương trình đào tạo (Program of Training) là
một bản thiết kế tổng thể cho một hoạt động đào tạo (khoá đào tạo) cho biết
toàn bộ nội dung cần đào tạo, chỉ rõ những gì có thể trông đợi ở ngưòi học
sau khoá đào tạo, phác thảo ra quy trình cần thiết để thực hiện nội dung đào
tạo, các phương pháp đào tạo và cách thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
và tất cả những cái đó được sắp xếp theo một thời gian biểu chặt chẽ” [8].
Theo tác giả Phạm Thị Huyền, chương trình đào tạo được hiểu theo
cách tiếp cận “đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Khi đó, chương trình đào tạo có
thể được định nghĩa là một tập hợp tất cả các hoạt động gắn kết với nhau
nhằm đạt đến mục tiêu giáo dục của nhà trường, bao gồm các yếu tố đầu vào
để thực hiện chương trình đào tạo và mục tiêu đào tạo trên cơ sở kết quả đầu
ra, để phát triển khả năng của người được đào tạo, giúp họ có được kiến thức, kỹ
năng cũng như cải thiện năng lực tư duy trong thực hiện những yêu cầu công
việc ở trình độ được đào tạo [32].
Theo PGS.TS Lê Đức Ngọc thì “Chương trình đào tạo là một văn bản
pháp qui về kế hoạch tổ chức đào tạo một văn bằng, bao gồm: mục tiêu đào tạo;


13

nội dung và yêu cầu bắt buộc, tự chọn hay tuỳ ý, phân bố thời lượng của các

môn học; kế hoạch thực hiện chương trình và điều kiện xét cấp văn bằng” [36].
GS.TS Trần Bá Hoành cho rằng: Chương trình đào tạo phản ánh mối quan
hệ tương tác giữa các thành phần cấu trúc của quá trình đào tạo: mục tiêu, nội
dung, phương pháp, phương tiện, tổ chức, đánh giá, trong đó mối quan hệ giữa
mục tiêu - nội dung - phương pháp là cốt lõi. Văn bản chương trình đào tạo chứa
đựng những thông tin cần thiết về mục tiêu, nội dung đào tạo, phương pháp tổ
chức hoạt động dạy và học, các phương tiện thiết bị để tiến hành đào tạo, các
hình thức và tiêu chí đánh giá kết quả đào tạo [9].
Như vậy chương trình đào tạo hay chương trình giảng dạy không chỉ
phản ánh nội dung đào tạo mà là một văn bản hay bản thiết kế thể hiện tổng
thể các thành phần của quá trình đào tạo, điều kiện, cách thức, quy trình tỏ
chức, đánh giá các hoạt động đào tạo để đạt được mục tiêu đào tạo.
Theo Luật giáo dục 2005 chương trình giáo dục được quy định theo điều
6 Chương I là: “Chương trình giáo dục thể hiện mục tiêu giáo dục, quy định
chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp
và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối
với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hay trình độ đào tạo” [4].
Chương trình giáo dục đại học thể hiện mục tiêu giáo dục đại học, quy
định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục đại học,
phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết
quả giáo dục đối với các môn học, ngành, nghề, trình độ đào tạo của giáo dục
đại học; bảo đảm liên thông với các chương trình giáo dục khác” (Điều 41Luật GD 2005) [39].
Chương trình khung cho từng ngành đào tạo đối với trình độ cao đẳng,
trình độ đại học bao gồm cơ cấu nội dung các môn học, thời lượng đào tạo, tỷ
lệ phân bổ thời gian giữa các môn học, giữa lý thuyết và thực hành, thực tập.


14

Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng,trường đại học xác định

chương trình đào tạo của trường mình (Điều 41- Luật Giáo dục 2005) [39].
Tóm lại, tùy thuộc vào cấp độ (cao, thấp), phạm vi (rộng, hẹp) chương
trình luôn chứa đựng bốn yếu tố cơ bản là mục tiêu đào tạo, nội dung đào tạo,
phương pháp đào tạo và yêu cầu kiểm tra, đánh giá. Trong mỗi chương trình,
bốn yếu tố đó có mối quan hệ hữu cơ và tác động tương hỗ, đảm bảo chất
lượng đào tạo được thực thi một cách trọn vẹn.
Trong chương trình đào tạo phương pháp giảng dạy được nêu lên
không chỉ là sự quy định về thao tác và cách thức thực hiện một nội dung đào
tạo cụ thể nào đó, mà bản thân trong nội dung và trình tự của chương trình, kế
hoạch đào tạo đã chứa đựng tính “phương pháp luận” của quá trình đào tạo.
Như vậy, ở một góc độ nhất định có thể hiểu chương trình là cơ sở, là nền
tảng và nguồn tri thức của một quốc gia, một cộng đồng trong một lĩnh vực
hoạt động đảm bảo cho sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Qua phân tích các tài liệu trong và ngoài nước liên quan đến chương trình
đào tạo, chúng tôi xác định khái niệm chương trình giáo dục (giảng dạy)
được hiểu như sau:
Chương trình giảng dạy là một văn bản qui định về mục tiêu, nội
dung, phương pháp dạy và học, phương pháp kiểm tra đánh giá tiếp thu
môn học cho một môn học hay một học phần nhất định.
1.2.2. Chương trình môn học
Chương trình môn học: theo tác giả Lê Đức Ngọc [35], chương trình môn
học là văn bản xác định mục tiêu môn học, phân bố định tính và định lượng nội
dung kiến thức môn học, phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá kết quả
tiếp thu môn học, đáp ứng cho mỗi mục tiêu chương trình và đối tượng đào tạo.
Đối tượng của đề tài nghiên cứu là thuộc chương trình môn học.


15

Chương trình môn học là loại chương trình đào tạo mà cấu trúc, nội dung

cơ bản được xây dựng hay thiết kế chủ yếu từ các môn học theo các lĩnh vực
khoa học tự nhiên, xã hội và kỹ thuật-nghề nghiệp. Ví dụ hiện nay phần lớn các
chưong trình giáo dục ở phổ thông, chuyên nghiệp và đại học là các chưong trình
đuợc thiét kế theo môn học thích hợp với từng bậc học, cấp học và ngành đào
tạo. Các môn học có thể là môn học theo một ngành, lĩnh vực khoa học như Ngữ
văn, Toán,Vật lý, Hoá, Sinh học, hoặc lĩnh vực kỹ thuật như Vẽ kỹ thuật, điện kỹ
thuật, cơ kỹ thuật. Cũng có các môn học tổ hợp như Môn tự nhiên và xã hội ở
Bậc Tiểu học; Giáo dục công dân ở Trung học cơ sở .v.v. Thông thường các
chương trình môn học sử dụng theo học chế năm học (niên chế ), ở giáo dục phổ
thông là theo các lớp trong từng bậc, cấp học và ở giáo dục nghề nghiệp, giáo
dục đại học là theo từng năm đào tạo. Chương trình môn học có thể được thiết kế
theo các học phần, đơn vị học trình (15 tiết) [22].
1.2.3. Những nguyên tắc xây dựng chương trình [41]
Theo tác giả Đỗ Huân, nguyên tắc xây dựng chương trình luôn được đề
cập đến và được coi là bắt buộc để xác định tính pháp lý của quá trình xây
dựng chương trình. Nguyên tắc có tác dụng định hướng đảm bảo cho việc
thiết kế chương trình mang tính khoa học, thực tiễn. [30]
Xây dựng và thiết kế chương trình có hai loại nguyên tắc: nguyên tắc
cơ bản và nguyên tắc đặc thù.
- Nguyên tắc cơ bản: là nguyên tắc mang tính pháp lý và phổ cập mà
bất cứ một chương trình nào cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt.
- Nguyên tắc đặc thù: là nguyên tắc được cấu trúc nhằm định hướng cụ
thể cho mỗi loại chuyên ngành đào tạo khác nhau.
Ở mỗi loại hình đào tạo khác nhau, chương trình đào tạo được xây dựng
trên nền những nguyên tắc mang tính đặc thù đảm bảo cho chương trình đáp


16

ứng yêu cầu của nghề đào tạo. Tuy nhiên, dù ở cấp độ nào và loại hình nào,

chương trình cũng đều mang những nét đặc trưng cơ bản của 5 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc quán triệt mục tiêu:
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến
thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm
nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khỏe nhằm tạo
điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội, củng cố quốc phòng an ninh.
Từ những mục tiêu đã nêu trên, quá trình xây dựng chương trình môn
học GDTC trong công tác đào tạo dựa trên những yếu tố sau:
- Thứ nhất, mục tiêu môn học GDTC phải là một bộ phận hữu cơ của mục
tiêu đào tạo sinh viên, có nghĩa phải thể hiện mức độ, định hướng yêu cầu của
nghề nghiệp, phải chịu chi phối của đặc điểm, tính chất của nghề đào tạo.
- Thứ hai, mục tiêu phải được thể hiện ở hai mức độ là mục tiêu chung
và mục tiêu cụ thể, đáp ứng được yêu cầu trên hai mặt giáo dục và giáo dưỡng
là: đào tạo kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp và giáo dục thể lực chuyên môn nghề
nghiệp, giáo dục nhân cách và phẩm chất cho sinh viên.
Mục tiêu của chương trình quy định những giá trị đạt được cho sinh
viên sau quá trình đào tạo, do vậy, mục tiêu chi phối trực tiếp và toàn diện
quá trình đào tạo. Xuất phát từ mục tiêu, chương trình đào tạo phải giải quyết
tốt hai nhiệm vụ cơ bản là giáo dục và giáo dưỡng.
Nguyên tắc đảm bảo tính khoa học:
Tính khoa học của thiết kế và xây dựng chương trình môn học GDTC
trong đào tạo, những công nhân, nhân viên dịch vụ được thể hiện trên hai mặt:
- Lựa chọn nội dung chương trình: nội dung chương trình được lựa
chọn cần cập nhật những tiến bộ của khoa học công nghệ, phù hợp với những
điều kiện thực tiễn của các trường, nội dung phù hợp với đối tượng, tính chất


17


lao động và đặc điểm của nghề đào tạo, cần giải quyết được hai vấn đề cơ bản
của GDTC là trang bị cho sinh viên thể lực chung và thể lực chuyên môn phù
hợp với những ngành nghề đang đào tạo.
- Sắp xếp nội dung chương trình: nội dung chương trình được sắp xếp
phải đảm bảo tính kế thừa, nội dung sau phải kế thừa được kết quả của nội
dung trước, tận dụng tối đa sự chuyển kỹ xảo tốt giữa các hoạt động vận động
trên nền tảng các bài tập đã học. Đối với những môn cơ bản thì giảm thời
lượng để dành cho những môn cốt lõi của chương trình. Lựa chọn nội dung
môn học GDTC phù hợp, đảm bảo đồng bộ giữa phát triển thể lực chung và
thể lực chuyên môn. Ứng dụng có hiệu quả các phương pháp giảng dạy tích
cực, các nguyên tắc cơ bản của GDTC.
Nguyên tắc đảm bảo tính thống nhất:
Khi tiến hành xác định nội dung chương trình môn học GDTC trong
trường cần thể hiện tính thống nhất giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp
giáo dục cho sinh viên. Sự thống nhất của mục tiêu chương trình môn học
GDTC định hướn ngành nghề phải phù hợp với mục tiêu đào tạo sinh viên.
Sự thống nhất được thể hiện ở sự giải quyết hợp lý giữa yêu cầu GDTC nghề
với sự đa dạng về đối tượng, đặc điểm và tính chất của đào tạo. Chương trình
phải phù hợp với những điều kiện thực tiễn của hệ thống các trường, phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, xu thế phát triển của khoa học
công nghệ, của nền sản xuất hiện đại… Chương trình còn phải xuất phát từ
trình độ và năng lực thể chất của người học và những điều kiện đảm bảo thực
thi của chương trình.
Nguyên tắc đảm bảo tính thực tiễn:
Xây dựng chương trình và xác định nội dung GDTC cho sinh viên cần
phải căn cứ vào thực tiễn và hoàn cảnh cụ thể của giáo dục nghề nghiệp đất
nước ta. Những yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực của đất nước đối với đội


18


ngũ trí thức trong tương lai, phục vụ cho sự nghiệp CNH – HĐH đất nước.
Tuy nhiên, tính thực tiễn của chương trình cũng cần đặt trong mối tương quan
giữa trình độ giáo dục nghề nghiệp của Việt Nam với khu vực và thế giới phù
hợp với những điều kiện đảm bảo như giáo viên, cơ sở vật chất… cho việc
thực thi chương trình.
Tính thực tiễn của chương trình còn thể hiện ở yêu cầu người học khi
kết thúc chương trình phải có khả năng phân tích được các bài tập, tự tập
luyện và rèn luyện nâng cao thể chất, có khả năng tổ chức và điều khiển các
hoạt động, tự kiểm tra đánh giá sức khỏe và biết giữ vệ sinh tập luyện, giữ gìn
sức khỏe…
Như vậy, tính thực tiễn của chương trình phải được xem xét dựa trên các
mối quan hệ giữa chương trình và yêu cầu đào tạo, giữa chương trình với mặt
bằng trình độ người học và đặc biệt là những điều kiện đảm bảo thực thi chương
trình và gắn liền với thực tiễn của sự phát triển đất nước, khu vực và thế giới.
Nguyên tắc đảm bảo tính sư phạm:
Theo các tác giả Trịnh Trung Hiếu [28] và Lê Đức Ngọc [35], xây
dựng chương trình các môn học nói chung và chương trình môn học GDTC
nói riêng phải dựa vào bốn yếu tố cơ bản:
- Một là, lựa chọn nội dung chương trình: Lựa chọn nội dung để xây
dựng chương trình phải được xác định ở ba loại hình kiến thức: kiến thức nền
tảng (cốt lõi), kiến thức chuyên ngành (nghề nghiệp), kiến thức về phương
pháp. Như vậy, nội dung chương trình phải quy nạp tổng thể kiến thức toàn
diện, phù hợp với yêu cầu của mục tiêu đào tạo trong từng ngành nghề đào
tạo, ngoài ra chương trình còn phải có tính thực tiễn và hiện đại.
- Hai là, cấu trúc nội dung chương trình: Nội dung chương trình được
sắp xếp đảm bảo tính kế thừa và phát triển, đảm bảo tính liên tục của quá trình
nhận thức, nội dung sau kế thừa kết quả của nội dung trước. Nội dung cũng



19

phải đảm bảo tính tuần tự, sắp xếp từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kiến thức nền tảng đến kiến thức chuyên ngành.
- Ba là, phương pháp giảng dạy: Phương pháp lựa chọn để thực thi
chương trình là sự kết nối mang tính sư phạm giữa nội dung truyền thụ và khả
năng tiếp thu lĩnh hội của người học, đảm bảo cho quá trình nhận thức của tư
duy người học, cần trang bị cho người học nhiều phương pháp tiếp cận khác
nhau, đặc biệt là áp dụng các phương pháp giảng dạy tích cực để người học
được chủ động, sáng tạo, phát huy năng lực tự học, tự chiếm lĩnh tri thức.
- Bốn là, quá trình kiểm tra đánh giá: Quá trình kiểm tra đánh giá luôn
được gắn liền với thực tiễn dạy học, coi việc kiểm tra đánh giá luôn là động lực
thúc đẩy quá trình đào tạo. Phải coi đánh giá là một phương pháp hữu hiệu
mang tính sư phạm cao trong quá trình đào tạo. Tuy vậy, những tiêu chí và tiêu
chuẩn đánh giá phải được xây dựng trên nền tảng những nội dung kiến thức đã
được thiết kế trong chương trình, phải phù hợp với trình độ và năng lực thể
chất, sức khỏe của người học, phải coi việc kiểm tra đánh giá là động lực thúc
đẩy quá trình học tập chứ không phải là áp lực đối với người học [30].
1.3. Đặc điểm, tính chất của môn Taekwondo. [23][37]
Taekwondo là môn thể thao phát triển toàn diện sử dụng cả chân lẫn
tay. Tuy nhiên, trong xu thế hiện nay trên thế giới, khi thi đấu đối kháng, các
VĐV sử dụng đòn chân nhiều nhất. Nó chiếm tới 95% trong khi đòn tay chỉ
chiếm 5% số đòn đánh trong trận đấu. Đôi chân được sử dụng nhiều hơn cả vì
đôi chân mạnh, dài, lợi hại và đạt hiệu quả cao trong thi đấu hơn đôi tay. Xét
xu thế phát triển chung của môn võ Taekwondo thì vận động viên muốn đạt
đuợc trình độ cao phải có kỹ thuật toàn diện tốt nó gồm có kỹ thuật cơ bản, kỹ
thuật thi đấu đỉnh cao đó là các đòn sở trường của từng vận động viên. Các kỹ
thuật trong Taekwondo rất đa dạng và phức tạp bao gồm; di chuyển, tấn công,
phòng thủ, phản công, các hình thức chiến thuật, lối đánh xa, gần, trung bình.



20

Ngoài ra, các tri giác chuyên môn như cảm giác về cự ly, tốc độ cũng có ý
nghĩa rất quan trọng. Trong thi đấu Taekwondo, các VĐV có thể sử dụng rất
nhiều kỹ thuật khác nhau nhưng trên thực tế, những kỹ thuật thường được sử
dụng nhất là: kỹ thuật đá (Chagi), di chuyển (Baljit gi), kỹ thuật đỡ (Makki),
kỹ thuật đấm (Jirugi), động tác giả (Sogiman), thế thủ, các tư thế đứng cơ
bản.... Taekwondo là một môn thể thao nghệ thuật trong đó người tập sử dụng
các bộ phận trên cơ thể để thực hiện các kỹ thuật tấn công và phòng thủ nhằm
đánh bại đối phương.
1.3.1. Một số kỹ thuật cơ bản của môn Taekwondo:
* Kỹ thuật tay:
Nắm đấm (Jumeok).

Cách nắm tay

Đấm móc

Đấm thẳng

Kỹ thuật đỡ hạ (Arae Makki):

Đấm vòng


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.


Ban Bí thư TW Đảng (1994), Chỉ thị số 36 - CT/TW của Ban Bí thư,
ngày 24 tháng 3 năm 1994 về công tác TDTT trong giai đoan mới.

2.

Bộ GD&ĐT, Quyết định số 72/2008/QĐ-BGDĐT ngày 23/12/2008 về
ban hành Quy định tổ chức hoạt động thể thao ngoại khỏa cho học sinh,
sinh viên.

3.

Bộ giáo dục và Đào tạo (2001), Quy chế giáo dục thể chất và Y tế thể
thao, ban hành theo Quyết định số 14/2001 ngày 03 tháng 5năm 2001.

4.

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Tìm hiểu luật giáo dục 2005, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.

5.

Bộ giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông - Môn
thể dục, NXB Giáo dục Việt Nam.

6.

Bộ giáo dục và Đào tạo (2008), Quy định về việc đánh giá, xếp loại thể
lực học sinh, sinhviên, ban hành kèm theo Quyết định số 53/2008/QĐBGDĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008.

7.


Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2011), 244 tình huống giải đáp những
vấn đề cốt yếu trong công tác quản lý – đào tạo – phát triển ngành
TDTT, Nxb Lao động, Hà Nội, tr 28.

8.

Brady, L. and K. Kennedy (2007), Xây dựng Chương trình đào tạo,
Sydney: Pearson Prentice Hall.

9.

Nguyễn Hữu Châu, Nguyễn Văn Cường, Trần Bá Hoành, Nguyễn Bá
Kim, Lâm Quang Thiệp (2007), Đổi mới nội dung và phương pháp
đào tạo giáo viên trung học cơ sở, Dự án đào tạo giáo viên trung học cơ
sở, Hà Nội.

10.

Dương Nghiệp Chí (2004), Đo lường thể thao. Nxb TDTT, Hà Nội.


11.

Chủ tịch Hội đồng nhà nước (1992), Hiến pháp nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12.

Chủ tịch nước (2005), Luật Thể dục thể thao, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

13.

Nguyễn Ngọc Cừ – Dương Nghiệp Chí (2001), Tài liệu nâng cao nghiệp
vụ HLV, Viện khoa học thể dục thể thao.

14.

Đảng cộng sản Việt Nam (1981), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ V, NXB Sự thật, Hà Nội.

15.

Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.

16.

Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII, NXB Sự thật, Hà Nội.

17.

Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IX, NXB Sự thật, Hà Nội.

18.

Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, NXB Sự thật, Hà Nội.

19. Daxưorơxki V.M (1978), Các tố chất thể lực của vận động viên, Nxb
TDTT, Hà Nội.
20.

V Điatrơcốp (1963), Rèn luyện thể lực của vận động viên, (Nguyễn
Trình dịch), Nxb TDTT, Hà Nội.

21.

Phan Thị Hoàng Dung, “Nghiên cứu xây dựng chương trình giảng dạy
môn tự chọn – môn Taekwondo ở trường Đại học Kinh tế TP.HCM theo
hệ thống đào tạo tín chỉ”, Luận văn thạc sĩ, 2012.

22. Trần Khánh Đức (2002), Sư phạm kỹ thuật, NXB Giáo dục Hà nội.
23.

Giáo trình Taekwondo – NXB TDTT Hà Nội – 1999.

24.

D. Harre (1996), Học thuyết huấn luyện (Trương Anh Tuấn – Bùi Thế
Hiển biên dịch), Nxb TDTT, Hà Nội.


25.

Lưu Quang Hiệp – Phạm Thị Uyên (2003), Sinh lý học thể dục thể thao,
Nxb TDTT, Hà Nội.


26.

Lưu Quang Hiệp, Phạm Thị Uyên (2003), Sinh lý TDTT, NXB Hà Nội.

27.

Trịnh Trung Hiếu – Nguyễn Sĩ Hà (1994), Huấn luyện thể thao, Nxb
TDTT.

28.

Trịnh Trung Hiếu (1997), Lý luận và phương pháp TDTT trong nhà
trường, Nxb TDTT, Hà Nội.

29.

Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thành (1996), Tâm lý học lứa
tuổi và tâm lý học sư phạm, NXB Hà Nội.

30.

Đỗ Huân (1995), Tiếp cận Modun trong xây dựng cấu trúc chương trình
đào tạo nghề, Luận án TS Khoa học giáo dục, Trường ĐH SP Hà Nội.

31.

Trần Thị Thanh Huyền, “Đánh giá hiệu quả của chương trình giảng dạy
môn tự chọn Bóng chuyền cho sinh viên không chuyên trường Đại học
Trà Vinh”, Luận văn thạc sĩ, 2012.


32. Phạm Thị Huyền (2011), Xây dựng chương trình đào tạo Đại học theo
định hướng mới nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, Hội thảo toàn quốc Giáo dục
Đại học Việt Nam – Hội nhập Quốc tế, Hà Nội: Đại học Quốc gia
HCM.B35
33.

Lê Văn Lẫm – Phạm Xuân Thành (2007), Giáo trình đo lường TDTT,
Nxb TDTT, Hà Nội.

34.

Nghị quyết số 08-NQ-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo
bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020.

35.

Lê Đức Ngọc (2000), Xây dựng chương trình giảng dạy, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

36.

Lê Đức Ngọc (2006), Nhập môn lý thuyết đo lường và xử lý số đo, Trung
tâm đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu phát triển giáo dục Đại học Quốc gia Hà Nội.


37.

Trần Hữu Nhân (2006), Taekwondo Đối luyện và thi đấu, NXB TDTT,
Hà Nội.


38.

Diên Phong (1999), 130 câu hỏi – trả lời về HLTT hiện đại (Người dịch
PGS.TS Nguyễn Thiệt Tình – PGS.TS Nguyễn Văn Trạch), Nxb TDTT,
Hà Nội.

39.

Quốc hội nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2005), Luật
giáo dục, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội.B46

40.

Quyền và luật thi đấu quyền Taekwondo – NXB TDTT – 2005.

41.

Hồ Đắc Sơn (2004), “Nâng cao hiệu quả hướng nghiệp của chương
trình giáo dục thể chất cho sinh viên khoa giáo dục tiểu học”, Luận án
Tiến sĩ giáo dục học, Viện Khoa học TDTT, Hà Nội.

42.

Nguyễn Xuân Sinh, Lê Văn Lẫm, Phạm Ngọc Viễn, Lưu Quang Hiệp
(1999), Giáo trình phương pháp NCKH TDTT, NXB TDTT Hà Nội.

43.

Lê Thanh (2004), Giáo trình phương pháp thống kê trong Thể dục thể

thao, Nxb TDTT Hà Nội.

44.

Trịnh Hùng Thanh (1998), Đặc điểm sinh lý các môn thể thao, Nxb
TDTT Hà Nội.

45.

Trịnh Hùng Thanh (1999), Cơ sở sinh lý các tố chất thể lực, Nxb TDTT
Hà Nội.

46.

Thủ tướng Chính phủ (2010), Chiến lược phát triển thể dục, thể thao
Việt Nam đến năm 2020, ban hành theo Quyết định số 2198 QĐ-TTg
ngày 03 tháng 12 năm 2010.

47.

Thủ tướng Chính phủ (2012) Quyết định số 51/QĐ-TTg ngày
16/11/2012 về quy định chê độ bồi dưỡng và chế độ trang phục đối với
viên giảng viên TDTT.

48.

Thủ Tướng chính phủ (2015), Nghị định số 11/2015/NĐ-CP, ngày
31/1/2015, V/v: Quy định về giáo dục thể chất và hoạt động Thể thao



trong nhà trường.
49.

Vũ Đức Thu, Nguyễn Xuân Sinh, Lưu Quang Hiệp và cộng sự (1995),
Lý luận và phương pháp Giáo dục thể chất, NXB Giáo dục Hà Nội.

50.

Nguyễn Toán – Phạm Danh Tốn (2000), Lý luận và phương pháp thể
dục thể thao, Nxb TDTT, Hà Nội

51.

Trung tâm Từ điển ngôn ngữ - Viện ngôn ngữ (1992), Từ điển tiếng
Việt. Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội.

52.

Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự (2008), Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá thể
chất sinh viên 19 – 22 tuổi tại TP. Hồ Chí Minh; Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp thành phố, Sở Khoa học và Công nghệ TP.HCM.

53.

Ủy ban Thể dục thể thao (1999), Xây dựng và phát triển nền Thể dục thể
thao Việt Nam dân tộc, khoa học và nhân dân, NXB Thể dục thể thao,
Hà Nội.

54.


Viện khoa học TDTT Việt Nam (2001), “Thực trạng thể chất người Việt
Nam từ 6 – 60 tuổi”

55.

Viện ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai.

56.

Website trường Đại học Trà Vinh.


×