Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

HÌNH TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.36 KB, 9 trang )

HÌNH TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG THƠ NGUYỄN KHUYẾN
(Phạm Thị Thu Trang – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K18)
Thiên nhiên là đề tài muôn thuở của thi nhân, là một trong hai hình tượng bao
trùm xuyên suốt trong văn chương tác giả nhà nho nói chung và nhà nho ẩn dật nói
riêng. Thiên nhiên đi vào trong sáng tác nhà nho ẩn dật rất phong phú, đa dạng, nhiều
màu sắc vì thế đã có những thành tựu to lớn về hình tượng này. Đi theo hướng nghiên
cứu loại hình tác giả nhà nho ẩn dật, về mảng hình tượng thiên nhiên, chúng tôi cũng
thống nhất đi theo hướng của tác giả Lê Văn Tấn phân chia hai kiểu thiên nhiên: thiên
nhiên khép kín, vắng bóng cuộc sống xã hội và thiên nhiên sống động, mang không khí
cuộc sống xã hội [6]
1. Thiên nhiên khép kín, vắng bóng cuộc sống xã hội
Theo bảng khảo sát hình tượng thiên nhiên khép kín, vắng bóng cuộc sống xã
hội của Lê Văn Tấn, về tác giả Nguyễn Khuyến khảo sát 353 bài thơ thì có 14 bài thơ
khắc họa kiểu thiên nhiên này [6]. Số lượng khá ít so với các nhà nho ẩn dật giai đoạn
đầu. Các nhà nho ẩn dật giai đoạn hình thành, chưa có sự biến động trong đời sống xã
hội thì họ thường chọn cuộc sống, môi trường sống ẩn dật cách biệt với cuộc sống xã
hội. Họ hòa mình vào với thiên nhiên, giao cảm với thiên nhiên. Họ tìm đến với thiên
nhiên để tránh xa chốn thị phi, đầy cám dỗ của xã hội. Đó cũng là cách để họ chia sẻ
những chức năng phận vị, những tâm tư tình cảm của mình, nuôi dưỡng tâm hồn. Con
người và thiên nhiên trở nên khắng khít, gần gũi hơn. Thiên nhiên hiện lên trong sáng
tác của những nhà nho ẩn dật giai đoạn đầu thuần khiết, trong sáng, nguyên sơ,… Đó là
hình ảnh cao quý, sang trọng của tùng cúc trúc mai, cỏ cây, hoa lá, trăng nước,… Thiên
nhiên tĩnh lặng để đối diện với cái tôi của người ẩn dật.
Lâu đài kề nước, hoa cỏ hướng dương,
Thược dược khéo mười phần tươi tốt.
Hây hây ngõ hạnh tường đào quanh nhà Thái tổ,


Thây thẩy đường hòe, dặm liễu, bóng gió thiều quang.
(Đại Đồng phong cảnh phú - Nguyễn Hãng)
Hay Lê Hữu Trác:


Cổ tỉnh trừng lưu nguyệt,
Phi niên thụy thổ hương.
Lâu cao hưởng trung cổ,
Tùng tĩnh vận sinh hoàng.
(Giếng xưa phẳng lặng rạng in mặt trăng/ Hoa sen bay ngát mùi hương chỉ điềm
tốt/ Lầu cao tiếng chiêng trống vang dội/ Ngọn thông phẳng lặng, tiếng sáo nhịp
nhàng).
Nguyễn Khuyến cũng theo thói quen của các nhà thơ xưa cũng làm rất nhiều về
thơ vịnh, nhưng đối tượng trong thơ của ông đã không còn là tuyết, nguyệt, phong, hoa
mà nó mang những cảnh sắc cụ thể của nông thôn Việt Nam, mang đặc điểm của không
gian môi trường sống ẩn dật: không gian Yên Đổ với bờ tre, ngõ trúc, vườn cà, luống
cải,… Thiên nhiên miền Bắc đã đi vào thơ ông một cách thân thương, giản dị, đầm ấm
nhưng mang chút buồn thế thái. Qua sự chắt lọc của tâm hồn nhà thơ thiên nhiên Bắc
Bộ hiện lên đẹp đẽ, thi vị, trong sáng, thanh cao mà tĩnh lặng. Điều đó thể hiện rõ nét
trong chùm thơ thu của ông (thu điếu, thu vịnh, thu ẩm).
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
(Thu vịnh)
Hay:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo…
(Thu điếu)
Ở mảng thơ chữ Hán, ta cũng dễ bắt gặp thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến
hiện lên với những cảnh vật đẹp đẽ đến lạ thường như:


Thị tản yên sơ nhật chính hoàng,
Cô phàm hà xứ vãn qui mang.
(Vãn phố qui phàm)
(Chợ tan, khói thưa, trời ánh vàng/ Cánh buồm lẻ loi từ đâu về muộn).

Hay:
Tiểu trì lục trướng nãi như thử,
Khứ tuế hoàng hoa thù bất nhiên.
Liễu diệp thùy thanh quang thấu nhật,
Trúc ly tích thúy mộ phù yên.
(Kỷ sửu trùng dương)
(Lên cao mực nước ao trong/ Hoa vàng năm ngoái nay trồng muộn hoa/ Mặt trời
mành liễu xiên qua/ giậu tre xanh biếc khói là là bay).
Những nho sĩ như Nguyễn Húc, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hãng,… thì hình
tượng thiên nhiên trong thơ tương đối thanh thản, sau thời gian vật lộn với “cửa Khổng
sân Trình” họ hết lòng hòa mình với thiên nhiên, giao cảm và tiêu dao cùng thiên
nhiên. Còn Nguyễn Khuyến luôn mang nặng những ưu tư phiền muộn của mình vào
thiên nhiên như nhận định của Lê Văn Tấn: “Nguyễn Khuyến khi khắc họa hình tượng
thiên nhiên đã hé lộ những tâm sự dằn vặt, hết sức trở trăn của mình về chức năng phận
vị, của nhà nho trước thế sự, trước những khát vọng” [6, tr. 200]. Trong ba bài thơ thu,
nhà thơ Yên Đổ đã bộc lộ kín đáo những tâm sự u uất trong lòng: Hai câu kết bài “Thu
vịnh” là sự cố nén tủi thẹn về chính mình:
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào
“Nhân hứng” rồi lại “nghĩ ra” đó là sự đối lập giữa chủ quan và khách quan,
giữa ước mong với hiện thực, đó là một sự bất như ý của con người. Nhà thơ nói
“Nhân hứng” là ca ngợi mùa thu đẹp và nên thơ. Thế nhứng “toan cất bút” làm thơ rồi
lại “thẹn”. Thẹn với Đào Tiềm một nhà thơ nổi tiếng của Trung Quốc đời Tấn. Ông nổi


tiếng vì thơ hay là một lẽ, lẽ khác còn nổi tiếng vì việc sau một năm làm quan ở Bành
Trạch đã rũ áo từ quan bởi không chịu vì ba đấu thóc mà phải cúi lưng. Nguyễn
Khuyến tự thấy thẹn là bởi tâm hồn ông đang mang nặng nỗi u hoài, bởi ông chưa thực
sự hài lòng vì mình vẫn rất xót xa. Ông cáo quan về ở ẩn là vì bất lực trước vận nước.
Tâm sự ấy vừa đáng thương vừa đáng trọng. Tấm lòng nhà thơ luôn hướng về nhân dân

đất nước. Tấn bi kịch nhàn thân mà chẳng nhàn tâm ấy sẽ mãi theo ông trong những
năm cuối đời từ khi trở về vườn Bùi chốn cũ đến khi qua đời.
Hay trong bài thơ Lão thái:
Tự liên kính phát tam phần bạch,
Thặng hữu đan tâm nhất điển linh.
(Tự thương mình mái tóc trong gương đã ba phần trắng/ Nhưng lòng son vẫn còn một
điểm thiêng liêng - Vẻ già).
Nguyễn Khuyến dù có tìm vào với cuộc sống thiên nhiên để quên đi những khát
vọng của mình, quên đi những nỗi lo toan việc nước, việc dân qua những vần thơ như
vậy. Nhưng ở họ việc ở ẩn là bất đắc chí, là điều họ không can tâm nên tấm lòng họ
không “dừng lại với đời” được và điều này đã khiến họ bức phá, mãnh liệt hơn trong
hình tượng thiên nhiên thứ hai là thiên nhiên sống động, mang không khí cuộc sống xã
hội.
2. Thiên nhiên sống động, mang không khí cuộc sống xã hội
Loại hình thiên nhiên thứ hai này, theo bảng thống kê khảo sát của Lê Văn Tấn
trong 353 bài thơ được khảo sát thì Nguyễn Khuyến đã có đến 59 bài thơ về kiểu thiên
nhiên này [6]. Qua đó chúng tôi nhận thấy quan niệm về nơi ẩn dật của Nguyễn
Khuyến có bước biến chuyển rõ rệt. Ông chọn về quê hương cha, vùng đất Hà Nam
đơn sơ, giản dị, gần gũi, ông sống cùng với nhân dân. Một số tác giả giai đoạn đầu
như: Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Lê Hữu Trác,… nơi ẩn dật thường cách xa cuộc
sống của nhân dân, tách biệt với cuộc sống xã hội. Họ chọn nơi chỉ có họ hòa cùng với
thiên nhiên như núi rừng, những nơi hoang sơ, hẻo lánh, không có dấu chân con người.


Còn với Nguyễn Khuyến trừ mười năm hoạn lộ quan trường thì phần lớn cuộc đời ông
sống cùng với nông dân miền đất Hà Nam nên ông có cơ hội tiếp xúc, điều kiện để
hiểu hơn về người nông dân, có những nhận thức mới về nông dân. Chính vì vậy, nơi ở
ẩn mà ông lựa chọn là vùng đất quê hương có nhiều kí ức đẹp đẽ của ông. Đề tài của
ông không còn là những điều cao quý, lớn lao mà thiên nhiên quê hương đã đi vào
trong thơ một cách hiện thực nhất, đó là chốn vườn cũ với những cảnh vật bình dị,

thuần khiết, đơn sơ:
Vườn Bùi chốn cũ
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đay
Trông ngoài sân đua nỡ mấy chòi cây
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế
Bành Trạch cầm xoang ngâm trước ghế
Ôn Công rượu nhạt chuốc chiều xuân
Ngọn gió đông ngoảnh lại lệ đầm khăn
Tình thương hải tang điền qua mấy lớp
Người chớ giận Lỗ hầu chẳng gặp
Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi
Muốn về sao chẳng về đi?
(Bùi Viên cựu trạch ca - dịch)
Cảnh vật nhỏ bé, chân chất có vẻ như quê mùa ấy mới đúng là cảnh quê ông.
Không tô vẽ màu mè mà chỉ là những nét phác họa tinh tế, đó là cái tài của Nguyễn
Khuyến. Những hình ảnh dân dã qua lăng kính của thi nhân trở nên lấp lánh, chân thực,
sống động.
Nguyễn Khuyến là nét phá cách, sự độc đáo trong văn chương trung đại nói
chung và nhà nho ẩn dật nói riêng khi viết về đề tài này, đúng như lời nhận xét của Vũ
Thanh: “Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ viết về nông thôn số một của văn học dân
tộc… Phải đến Nguyễn Khuyến, văn học mới thật sự “bước xuống” đồng ruộng, đến


với người dân nơi thôn dã… thơ ca được kết tinh, trở nên chân thực, chi tiết, sinh
động…” [7, tr. 33]. Với những đóng góp của mình, Nguyễn Khuyến đã đưa hình tượng
thiên nhiên lên một tầm cao mới, từng bước thoát li văn học ước lệ, tượng trưng và đến
gần hơn văn học hiện thực.
Ta có thể tìm thấy trong thơ tả cảnh của Nguyễn Khuyến những sự vật, hình
ảnh, âm thanh cụ thể, gần gũi, quen thuộc như vậy. Có khi là hình ảnh của một vườn
rau, có bầu, có mướp, có cà:

Cải chửa ra cây, cà mới nụ.
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
(Bạn đến chơi nhà)
Hay hình ảnh một cánh bướm chấp chới trước hiên nhà:
Cá vượt khóm rau trên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.
(Vịnh mùa hè)
Cuộc sống làng quê Yên Đổ hiện lên bình dị, nhẹ nhàng, thân quen với tiếng dế
kêu, tiếng muỗi, tiếng gà,…
Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thực oi ả.
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy ngỏ cùng ai,
Cảnh này buồn cả dạ.
Biếng nhấp năm canh chầy
Gà đã sớm giục giã.
(Than mùa hè)
Hay là tiếng trẻ bi bô học bài, tiếng pháo vang rền khi mùa xuân sang, tiếng con
trâu già cọ sừng gốc bụi phì hơi nắng…


Trâu già gốc bụi phì hơi nắng,
Chó nhỏ bên ao cắn tiếng người…
(Đến chơi nhà bác Đặng)
Điều làm nên nét đặc sắc, độc đáo trong thơ Nguyễn Khuyến chính là sự nhân
hậu thấm đẫm trong từng con chữ của mình. Bên cạnh thiên nhiên bình dị, đẹp đẽ đó
thì quê hương Hà Nam hiện lên là hình ảnh một làng quê lũ lụt, hạn hán với biết bao
vất vả lo toan của bà con lối xóm. Viết về những điều này, Nguyễn Khuyến hiện lên
như một lão nông thật sự, thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ với người nông dân:

Tị nước tị này chục lẻ ba,
Thuận dòng nước cũ lại bao la.
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.
(Vịnh lụt)
Hay cảnh mất mùa của nhân dân cũng hiện lên một cách chân thực đến xót lòng:
Mất mùa đừng ngóng lúa ta vàng,
Kêu đói gào ăn khắp ngả đường.
(Năm mất mùa - I)
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ Nguyễn Khuyến là chiếc chìa khóa để chúng ta
mở cửa tâm hồn tác giả. Giãi bày bộc lộ tâm sự cũng là một nội dung lớn trong thơ trữ
tình Nguyễn Khuyến. Tự thấy bản thân mình chưa làm tròn bổn phận, ông tìm đến
rượu để giải sầu nhưng đã uống đến say mà nỗi sầu muộn đâu có vơi. Càng say càng
tỉnh, càng thấm thía nỗi lòng u uất. Tự cho mình là túy ông, nhưng đã bao giờ Nguyễn
Khuyến say vì rượu:
Túy ông ý chẳng say vì rượu
Say vì đau nước thẳm với non cao
(Uống rượu ở vườn Bùi)


Bởi thế “Mắt lão không gầy cũng đỏ hoe” kia không ngoài nét buồn vì cảnh
nước mất nhà tan, vì bất lực của bản thân mình. Lựa chọn lui về sống ẩn dật nhưng tấc
lòng của Nguyễn Khuyến vẫn luôn hướng đến vận mệnh của đất nước. Ông cảm thấy
tuỉ thẹn vì mình là một trí thức đại thần mà đành bất lực trước thời cuộc:
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
(Ngày xuân dạy các con)
Nguyễn Khuyến đã trăn trở nỗi đau ấy cho đến cuối cuộc đời của mình vẫn
không thể nào nguôi ngoai:
Ơn vua chưa chút báo đền

Cúi trong hổ đất, ngữa lên thẹn trời
(Di chúc)
Đó là một nét đẹp trong nhân cách nho sĩ ẩn dật Nguyễn Khuyến, ông đã sống
chân chính cả cuộc đời mình và điều đó cũng in hằn rõ nét trong các tác phẩm của ông.
Viết về đề tài nông thôn Nguyễn Khuyến đã có những đóng góp quan trọng, nhà nghiên
cứu Lê Văn Tấn nhận xét: “Nguyễn Khuyến vẫn có những đóng góp riêng, độc đáo
trong dòng văn chương ẩn dật nói riêng và văn chương nhà nho thời trung đại nói
chung. Nguyễn Khuyến đã góp phần đáng kể vào việc báo hiệu sự cáo chung của
những phạm trù thẩm mĩ cũ, đưa văn chương đến với những phạm trù thẩm mĩ mới:
văn học gắn bó với hiện thực đời sống, hướng mạnh mẽ tới đời sống nông thôn” [6, tr
207-208].
Nguyễn Khuyến đã khắc họa, thể hiện khá đa dạng, phong phú và rõ nét những
hiện tượng thiên nhiên với đặc điểm khép kín, vắng bóng cuộc sống xã hội và hình
tượng thiên nhiên với đặc điểm sống động, mang hơi thở của cuộc sống xã hội cũng
được trong sáng tác của mình. Điều đó phần nào giúp Nguyễn Khuyến tìm được sự
thanh thản, hữu ích của mình trước thế lực, giải phóng được phần nào những ẩn ức về
hoạn lộ, về chức năng phận vị của mình trước triều chính, xã tắc và người dân đương


thời. Nguyễn Khuyến không chỉ sống trong giai đoạn giao thoa giữa hai thế kỉ mà ông
còn là người góp phần đưa văn chương đến phạm trù thẩm mĩ mới: văn học gắn liền
với hiện thực đời sống. Nguyễn Khuyến là nhà thơ có vị trí bất tử trong lịch sử văn
học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Huyền (1984, sưu tầm, biên dịch, giới thiệu), Tác phẩm Nguyễn
Khuyến, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Nguyễn Khắc Phi (2006), “Phương pháp loại hình”, Nguyễn Khắc Phi tuyển tập,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.720-722.
3 . Nguyễn Hữu Sơn (2013), “Nhận diện loại hình tác gia văn học trung đại Việt Nam”,
Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 10, tr.3-17.

4. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
5. Lê Văn Tấn (2013), Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung đại Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Vũ Thanh (1999), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Vũ Thanh (2007), Nguyễn Khuyến về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
tr. 33.
8. Trần Nho Thìn (2012), “Kiểu tác giả của văn học trung đại”, Văn học Việt Nam (Từ
thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX), Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, tr.178-216.
9. Nguyễn Đình Thu (2014), “Từ hình tượng con người đến những bước khám phá về
con người trong thơ ca trung đại”, Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Quy Nhơn, Số
2 (Tập VIII), tr. 5-11.
10. Lê Thu Yến (chủ biên), Đoàn Thị Thu Vân, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu (2003),
Văn học Việt Nam Văn học Trung đại – Những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.



×