Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

KINH TE HOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.36 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC

LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, giá cả là nhân tố quan trọng tác động đến lợi ích
kinh tế của mọi thành viên trong xã hội.Nếu xét trên lợi ích quốc gia trong nền kinh
tế thị trường mở cửa và hội nhập, khi thương mại và dòng vốn quốc tế gia tăng
mạnh mẽ thì tỷ giá là yếu tố quan trọng tác động đến lợi ích của mỗi quốc gia trong
giao lưu kinh tế quốc tế.tỷ giá thay đổi sẽ làm thay đổi cán cân thương mại, ảnh
hưởng đến sự di chuyển của dòng vốn quốc tế và qua đó ảnh hưởng đến lợi ích
quốc gia. Ở Việt Nam trong những năm qua, biến động tỷ giá và những tác động
của nó đến hoạt động kinh tế như thế nào?Trả lời cho những câu hỏi đó có đó có ý
nghĩa quan trọng trong việc điều hành và hoàn thiện các chính sách tỷ giá, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn
cầu.Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, em đã thực hiện đề tài “Biến động tỷ giá ở
Việt Nam và những tác động đến sự tăng trưởng kinh tế”.
Tiểu luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về tỷ giá hối đoái
Chướng II: Biến động tỷ giá ở Việt Nam
Chương II: Những tác động của tỷ giá đến sự tăng trưởng kinh tế

1


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
I.
1.

Khái niệm chung:


Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái Trong tài chính, tỷ giá hối đoái (còn được gọi là tỷ giá trao đổi
ngoại tệ, tỷ giá Forex, tỷ giá FX hoặc Agio) giữa hai tiền tệ là tỷ giá mà tại đó một
đồng tiền này sẽ được trao đổi cho một đồng tiền khác. Nó cũng được coi là giá trị
đồng tiền của một quốc gia đối với một tiền tệ khác.Ví dụ, một tỷ giá hối đoái liên
ngân hàng của yên Nhật (JPY, ¥) với đô la Hoa Kỳ (US$) là 91 có nghĩa là 91 Yên
sẽ được trao đổi cho mỗi 1 USD hoặc 1 USD sẽ được trao đổi cho mỗi 91 Yên. Tỷ
giá hối đoái được xác định trong thị trường ngoại hối,rộng mở cho một loạt loại
người mua và người bán khác nhau nơi việc trao đổi tiền tệ là liên tục: 24 giờ một
ngày, ngoại trừ những ngày cuối tuần, tức là giao dịch từ 20:15 GMT Chủ nhật cho
đến 22:00 GMT thứ Sáu. Tỷ giá giao ngay đề cập đến tỷ giá hối đoái hiện hành.Tỷ
giá kỳ hạn đề cập đến một tỷ giá được báo giá và trao đổi hôm nay nhưng cho giao
hàng và thanh toán vào một ngày trong tương lai cụ thể.Để ổn định nền kinh tế
trong nước thì phải điều chỉnh giá đồng nội tệ sao cho hợp lý. Nếu đồng nội tệ lên
giá sẽ làm cho hàng hóa nhập khẩu rẻ hơn, do đó người dân cs xu hướng tiêu dùng
hàng nhập khẩu nhiều hơn, làm hạn chế hoạt động xuất khẩu, thu hẹp sản xuất
trong nước, mặc dù giảm lạm phát nhưng thất nghiệp gia tăng. Nếu đồng nội tệ mất
giá, thì lạm phát lên cao.
Trong thị trường ngoại hối bán lẻ, tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra khác nhau
sẽ được báo giá bởi các đại lý đổi tiền.Hầu hết các trao đổi đều liên quan đến đồng
2


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
nội tệ.Tỷ giá mua vào là tỉ giá mà các đại lý đổi tiền sẽ mua ngoại tệ và tỷ giá bán
ra là tỉ giá mà họ sẽ bán ngoại tệ. Tỷ giá được báo giá sẽ kết hợp dự phòng cho biên
của đại lý (hoặc lợi nhuận) trong trao đổi, hoặc biên có thể được phục hồi trong
hình thức của một "hoa hồng" hoặc trong một số cách khác. Tỉ giá khác nhau cũng
có thể được báo giá cho tiền mặt (thường chỉ ghi chú), một hình thức tài liệu (chẳng
hạn như các séc du lịch) hoặc điện tử (ví dụ như mua bằng thẻ tín dụng). Tỷ giá cao

hơn về các giao dịch tài liệu là do thời gian và chi phí thanh toán bù trừ tài liệu bổ
sung, trong khi tiền mặt có sẵn để bán lại ngay lập tức. Một số đại lý, mặt khác, lại
thích các giao dịch tài liệu bởi vì những mối quan tâm an ninh với tiền mặt.
2. Những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá hối đoái:

Dưới tác động của xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế như hiện nay,
có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng ngắn hạn cũng như dài hạn đến tỷ giá, bao gồm các
yếu tố sau đây:
a/ Cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế phản ánh tình hình thu – chi thực tế bằng ngoại tệ
của một nước so với các nước khác trong quan hệ giao dịch quốc tế lẫn nhau, cán
cân thanh toán quốc tế thể hiện vị thế tài chính của quốc gia bội chi hoặc bội thu:
- Nếu cán cân thanh toán quốc tế bội chi: (chi > chi), thì quốc gia đó phải xuất
ngoại tệ trả nợ, dẫn đến nhu cầu ngoại tệ gia tăng, cầu > cung, tỷ giá cho xu hướng
tăng lên.
- Ngược lại nếu cán cân thanh toán quốc tế bội thu (thu > chi), nước ngoài trả
nợ bằng ngoại tệ, dẫn đến cung ngoại tệ gia tăng, tỷ giá có xu hướng giảm.

3


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
- Tuy nhiên sự biến động tăng giảm tỷ giá hối đoái nói trên chỉ xảy ra trong
trường hợp điều kiện môi trường kinh tế ổn định không xảy ra những biến cố kinh
tế - chính trị trọng đại, vì những biến động và chính trị, xã hội sẽ tác động nhanh
chóng đến sự thay đổi của tỷ giá.
b/ Lãi suất
Phần lớn các nhà đầu tư với quy mô lớn trên thị trường như các tập đoàn, các
công ty đa quốc gia có thể chuyển đổi đầu tư một cách dễ dàng giữa các đồng tiền
khác nhau khi tỷ giá và lãi suất của các đồng tiền này có chiều hướng thay đổi. Vấn

đề quan trọng được đặt ra là cần phải so sánh đối chiếu thu thập đầu tư từ các đồng
tiền khác nhau để có thể chắc chắn rằng họ có thể thu được kết quả đầu tư tốt nhất.
Thông thường các nhà đầu tư có xu hướng đầu tư vào đồng tiền có lãi suất cao,
được thể hiện bằng cách khá phổ biến là đi vay đồng tiền có lãi suất thấp chuyển
đổi sang đồng tiền có lãi suất cao, sau đó đầu tư đồng tiền lãi suất cao bằng nhiều
hình thức nhằm hưởng lợi nhuận do chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền. Điều này
sẽ tạo nên sự thay đổi cung cầu ngoại tệ trên thị trường,từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá.
Tuy nhiên trong suốt thời gian đầu tư hay cho vay,… tỷ giá biến động tăng
hoặc giảm sẽ tác động đến gia tăng thu nhập hoặc lỗ, nhà đầu tư bị rủi ro do sự gia
tăng tỷ giá lớn hơn thu nhập do chênh lệch lãi suất của hai đồng tiền. Thực tế,
thông thường đồng tiền có lãi suất cao có khuynh hướng lên giá, bởi vì sẽ có nhiều
nhà đầu tư mua đồng tiền có lãi suất cao để cho vay nhằm thu lãi nhiều hơn
c/ Ngang giá sức mua:
Ngang giá sức mua chính là sự so sánh và đo lường sức mua tương đối của hai
đồng tiền, được tính toán bằng cách so sánh giá cả của cùng một số mặt hàng ở hai
nước khác nhau được tính theo đồng tiền của hai nước.
4


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
Nếu cùng một số tiền ngang nhau người ta mua được một lượng hàng ngang
nhau ở mọi nước thì như vậy mậu dịch quốc tế sẽ không có lãi và không kích thích
ngoại thương phát triển, điều đó có nghĩa là, các đồng tiền đều ở trong tình trạng
ngang nhau về sức mua.
Vì vậy cần phải hiểu nền tảng của ngang giá sức mua được thể hiện: nếu như
một mặt hàng ở trong quốc gia này rẻ hơn thì xuất khẩu mặt hàng đó sang một
nước khác giá đắt hơn thì sẽ có lời hơn, và ngược lại nếu một mặt hàng trong quốc
gia sản xuất đắt hơn so với giá thị trường nước ngoài thì tốt hơn hết nên nhập khẩu
mặt hàng đó sẽ có lợi hơn. Vấn đề này lý giải sự chênh lệch về giá cả của cùng một
mặt hàng ở các nước khác nhau trên thế giới, nước nào có lợi thế kinh tế tốt hơn sẽ

có điều kiện thuận lợi sản xuất ra hàng hóa với chi phí thấp, sẽ là cơ hội để các
nước này đẩy mạnh xuất khẩu và ngược lại kích thích nhập khẩu khi mặt hàng đó
sản xuất trong nước giá cao hơn. Sự gia tăng thương mại mậu dịch thế giới dẫn đến
thực hiện các khoản thu chi ngoại tệ, từ đó làm ảnh hưởng đến cung cầu ngoại tệ
trên thị trường và tác động đến tỷ giá hối đoái.
d/ Các điều kiện kinh tế:
Về ngắn hạn, các hoạt động kinh doanh và đầu tư hàng ngày đều tác động
trực tiếp đến cung và cầu vốn đặc biệt là các khoản giao dịch với quy mô lớn trên
thị trường. Những yếu tố kinh tế chính trị tác động tức thời đã làm thay đổi đáng kể
các khoảng cách chênh lệch giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua,… Mức cung, cầu ngoại
tệ biến động trên thị trường thay đổi sẽ ảnh hưởng đến các luồng thu chi ngoại tệ,
từ đó tác động đến tỷ giá hối đoái.
Về dài hạn, tỷ giá hối đoái bị ảnh hưởng bởi tình hình và xu hướng phát triển
kinh tế quốc gia cũng như các biến động trên thị trường thế giới, được thể hiện qua
những yếu tố cơ bản như sau: cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm
5


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
phát, thất nghiệp, thuế suất, cung và cầu vốn,… Tất cả những nhân tố trên tạo nên
áp lực cung và cầu vốn trên thị trường, vốn ngoại tệ sẽ chảy vào một nước khi các
nhà đầu tư thấy có cơ hội kinh doanh và một số nước cần vốn và đưa ra các mức lãi
suất hấp dẫn, còn các nước khác thừa tiền thì có khả năng đầu tư sang các nước
khác, dẫn đến làm dịch chuyển luồng vốn đầu tư giữa các nước. Tuy nhiên, các nhà
đầu tư không phải luôn luôn lúc nào cũng đầu tư chỉ vì lãi suất cao mà còn phải
tính đến các yếu tố chiến lược khác như: môi trường kinh tế - chính trị ổn định,
chính sách thuế quan,…
e/ Những yếu tố chính trị:
Sự biến động của tỷ giá trong ngắn hạn cũng như dài hạn đều bị ảnh hưởng
bởi các yếu tố chính trị, mức độ bất ổn trong tình hình chính trị và các chính sách

điều tiết của nhà nước. Có thể nói sự ổn định về chính trị được xem như là điều
kiện hấp dẫn thu hút vốn đầu tư, và làm dịch chuyển vốn đầu tư nhanh chóng. Tình
hình chính trị bất ổn sẽ dẫn đến hiện tượng tháo chạy vốn, đảo ngược dòng vốn,…
là nguyên nhân nguy cơ khủng hoảng tài chính.
f/ Các yếu tố khác:
Tỷ giá còn chịu tác động của các yếu tố khác như: tâm lý, chính sách kinh tế,
môi trường đầu tư,…
Tóm lại, những biến động các nhân tố nêu trên đã tác động làm thay đổi cung
cầu ngoại tệ, giá trị đồng tiền sẽ tăng hoặc giảm trên thị trường.

6


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC

CHƯƠNG II: BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM
Nhìn lại cơ chế điều hành tỷgiá VIệt nam Trong quan hệ với các nước thuộc
khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt Nam được tính theo đồng Rúp clearing (sau
này đổi là rúp chuyển khoản- transferable ruble) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh
toán mậu dịch giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy định với nhau để làm sao
cho tài khoản các bên, sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được quy
định trong hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Đặc trưng
7


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
của chế độ tỷ giá Việt nam trong thời kỳ này là cố định, đã bộc lộ nhiều mặt bất
hợp lý, nó không những không thể hiện vai trò điều tiết tỷ giá hối đoái trong việc
cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động
kinh tế đối ngoại của nước ta là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ kinh tế trong

một thời gian dài. Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay, nhà nước ta đã có những
chủ trương và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại, và chính sách tỷ giá đã
từng bước xoá bỏ cơ chế độc quyềnngoại thương, cho phép các tổ chức kinh tế
được phép xuất nhập khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực
tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên, cùng với việc mở rộng ngoại
thương chế độ tỷ giá cũng có những thay đổi căn bản; chuyển sang cơ chế quản lý
kinh tế mới bản thân cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái đã được nhanh chóng thay
đổi phù hợp với bối cảnh thực tế. Từ một cơ chế đa tỷ giá, mang nặng tính chủ
quan bao cấp, xa rời với thị trường; tỷ giá hối đoái đã được điều chỉnh theo các
quan hệ và điều kiện của các quy luật kinh tế thị trường. Cơ chế một tỷ giá linh
hoạt, có sự điều tiết của nhà nước đã phát huy được vai trò vừa là một phạm trù
kinh tế vận động theo quy luật cung cầu của nền kinh tế vừa là một công cụ điều
tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước. Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh
hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng
năm có khác nhau, ta có thể chia ra 3 giai đoạn:

1.Giai đoạn thả nổi tỷgiá: 1989-1993
Tổng quát mà nói, trong khoảng thời gian này, tỷ giá VND/USD có khuynh
hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do, điều này
chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan
tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
_ Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ, nhằm mục đích hưởng chênh lệch giá.
8


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
_ Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại tệ đã gây nên những
cơn sốc USD làm mất ổn ddịnh nền kinh tế.
_ Quản lý ngoại tệ của chính phủ không đạt được kết quả như mong muốn.
_ Nhà nước không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ. Tình trạng leo thang

của giá đồng Đôla đã kích thích tâm lý dự trữ Đôla. Ngoại tệ vốn đã khan hiếm lại
không được dùng cho hoạt động xuất nhập khẩu mà còn bị buôn bán vòng vèo giữa
các tổ chức trong nước.Mọi cố gắng quản lý ngoại tệ của chính phủ ít đem lại kết
quả, thậm chí có những quyết định của chính phủ về quản lý ngoại tệ đã bị mất hiệu
lực ngay khi vừa mới công bố.Giai đoạn này, ngân hàng không kiểm soát được lưu
thông ngoại tệ.Trước tình hình đó, từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay
đổi cách quản lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái VND/USD.
Nội dung chính của những thay đổi về chính sách và cơ chế nêu trên là:
_ Thay thế biện pháp hành chính, bắt buộc các đơn vịkinh tế quốc doanh có
ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định băngf biện pháp kinh tế: mở
trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các doanh nghiệp và ngân hàng trao đổi mua
bán ngoại tệ với nhau theo giá thoả thuận.
_ Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương
giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất nhập khẩu.Thay vào đó, trên
cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ, ngân hàng nhà nước công
bố tỷ giá chính thức. Cơ chế hình thành và quản lý tỷ giá hối đoái mềm dẻo như
vậy cộng với sự can thiệp điều tiết của ngân hàng nhá nước đối với lượng ngoại tệ
mua bán tại các phiên giao dịch đã giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ, ngăn được
xu hướng tăng quá mức giá Đôla Mỹ trên thị trường. Từ tháng 3/1992 giá USD bắt
đầu giảm.
2.Giai đoạn cố định tỷ giá từ 1993-1996
9


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
Tình trạng nhập siêu liên tục trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất
khẩu và khuyến khích nhập khẩu, gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình
trạng hặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia, hoặc phải vay nợ nước ngoài để
bù đắp cán cân thanh toán. Tuy cơ cấu nhập khẩu có thay đổi, tỷ trọng nhập máy
móc thiết bị công nghệ này càng tăng, nhưng nhập siêu vẫn kéo dài làm đất nước

lún sâu vào nợ nần, khó khăn cho nền tài chính quốc gia.
Bốn năm phát triển kinh tế đất nước (1993 - 1996) tốc độ lạm phát tăng tổng
cộng là 36,8% trong khi tỷ giá VND so với USD chỉ tăng 2% đưa đến thực tế giá
bán hàng nội địa đã tăng trên 30% so với hàng nhập ngoại. Hàng nhập ngoại đã trở
nên rẻ hơn và được nhập vào thị trường nước ta với số lượng lớn cạnh tranh với
hàng nội địa, thể hiện qua sự gia tăng thâm hụt cán thương mại quốc tế của nước ta
trong những năm 1993-1996 từ nhập siêu 939 triệu USD năm 1993 lên 1,7 tỷ USD
năm 1994 lên 2,7 tỷ USD năm 1995 lên 3,8 tỷ USD năm 1996 .
Đứng trước tình hình đó, nhà nước đã có những chỉ đạo:
+ Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC
thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC At Sight là
chủ yếu, hạn chế mở LC trả chậm, xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng cần
thiết chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất, dựa vào huy động vốn trung và
dài hạn ngày càng được nâng cao và huy động vốn bằng mọi biện pháp thông qua
mức ký quỹ bắt buộc.
+ Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường.

10


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
3 .Quá trình đi tới một chính sách tỷgiá hối đoái tự chủ theo cơ chế thị trường
(1992 - 1997)
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của ngân hang nhà nước vào
thị trường ngoại tệ, tỷ giá VND/USD dần dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của
các doanh nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ, hướng mạnh vào kinh doanh
xuất nhập khẩu. Đồng thời ngoại tệ từ bên ngoài vàonhiều nên kinh doanh cung cầu
ngoại tệ đảo ngược so với cùng kỳ mội năm, giá Dola giảm mạnh, mức giá phổ
biến trên thị trường tư nhân Hà nội năm 1993 là 10.300 đến 10.400. Tình trạng giá
USD giảm mạnh đã ảnh hýởng xấu ðến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá

mức, nên ngân hàng nhà nýớc lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng USD.
Trong hầu hết các phiên giao dịch của quý I năm 1993, hệ thống ngân hang phải
mua Dola vào nhằm ngăn chặn xu hướng giảm giá của đồng tiền này.Từ tháng
3/1993 USD đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định (ở đây nói
về tỷ giá danh nghĩa VND/USD). Tháng 10/1994 khi thị trường ngoại tệ đã phát
triển đến một giai đoạn nhất định, xét trên khía cạnh phạm vi cũng như cơ cấu tổ
chức, hai trung tâm giao dịch ngoại tệ không còn phù hợp. Số lượng ngân hàng
tham gia vào giao dịch tăng nhanh. Phạm vi và cường độ giao dịch cũng ngày càng
phát triển và mở rộng.
Trước tình hình mới Ngân hàng Nhà nước đã cho phép thị trường ngoại tệ liên
Ngân hàng ra đời, thay thế hoạt động của hai trung tâm giao dịch. Bởi thị trường
liên Ngân hang có qui mô lớn hơn và mang tính thị trường khách quan, linh hoạt
hơn, tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành của Ngân hàng Nhà nước cũng càng sát
với thực tế hơn. Đồng thời qua thị trường, Ngân hàng Nhà nước có thể bắt nắm
được nhu cầu tổng thể của nền kinh tế về ngoại tệ trong từng thời kỳ, điều tiết kịp
thời tỷ giá hối đoái. Ngân hàng Nhà nước đã thông qua thị trường lien Ngân hang
để nắm bắt tín hiệu của tỷ giá hối đoái, sử dụng tỷ giá chính thức công bố hang
ngày và biên độ qui định tỷ giá giao dịch cho các Ngân hàng thương mại làm công
11


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
cụ hỗ trợ, can thiệp và điều hoà hướng tỷ giá thị trường theo mục tiêu của chính
sách tỷ giá và chính sách tiền tệ. Thực lực của Ngân hàng Nhà nước về ngoại tệ
cũng đã tăng lên, tỷ giá đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng tiền
Việt Nam và quan hệ cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đủ điều kiện cho phép
Ngân hàng Nhà nước dần dần nới hơn đối với cơ chế điều hành tỷ giá. Thực tế tỷ
giá chính thức đã được điều chỉnh ngày một linh hoạt, theo sát với thực tế và biên
độ giao dịch cho các Ngân hàng thương mại đã được mở rộng liên tục ( tử # 0,5% ,
+_ 0,1% đến #5% so với tỷ giá chính thức )

4 .Từ năm 1997 đến nay:
Theo số liệu của Tổng cục Thống kể, nếu như năm 2008 giá USD (tỷ giá
VND/USD) tăng 6,31%, năm 2009 tăng tới 10,07%, năm 2010 tăng 9,68% thì năm
2011 chỉ tăng có 2,2% và từ đầu năm 2012 đến nay giảm gần 1%. Cụ thể trong 10
tháng đầu năm 2012, thì có 5 tháng tỷ giá tăng nhẹ, còn 5 tháng giảm; tính chung
10 tháng tỷ giá giảm gần 0,88%. Dự báo với diễn biến hiện nay và mặc dù trong
gần 2 tháng cuối năm thị trường ngoại tệ có thể biến động hơn nhưng tỷ giá cả năm
tăng không quá 1,5%, nằm trong dự báo và định hướng điều hành của NHNN ngay
từ đầu năm. Đây là một hiện tượng hiếm thấy về diễn biến tỷ giá trên thị trường
trong nhiều năm qua, chính xác là kể từ năm 1996 đến nay.
Diễn biến tỷ giá nói trên có những tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã
hội.Trước hết, tỷ giá ổn định đã tác động tích cực đến tâm lý của người dân, tâm lý
của thị trường tài chính. Người dân, giới đầu tư tin tưởng vào sự ổn định của đồng
Việt Nam, hay đồng Việt Nam được coi trọng. Điều này làm giảm hẳn tình trạng
người dân lựa chọn việc cất trữ tài sản của mình bằng việc mua ngoại tệ, góp phần
đẩy lùi tình trạng đô la hóa trong xã hội; hạn chế tình trạng găm giữ ngoại tệ trên
tài khoản của các doanh nghiệp.
Song tác động của thành công nổi bật hơn cả đó là thực hiện mục tiêu kiềm
chế lạm phát trong điều hành chính sách tiền tệ.Nói cụ thể hơn, đó là Việt Nam
12


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
trong thời gian dài là nền kinh tế nhập siêu và nhập siêu ở mức lớn. Do đó, tỷ giá
biến động theo hướng đồng Việt Nam giảm giá dẫn tới tình trạng “ nhập khẩu lạm
phát” vào nền kinh tế nước ta trong một số năm qua. Điều này thấy rõ nhất trong
các năm 2009 – 2010 khi giá cả nhiều mặt hàng chủ lực, chiến lược trên thị trường
thế giới tăng mạnh, cộng với tỷ giá VND/USD cũng biến động lớn, dẫn tới tình
trạng “nhập khẩu kép” lạm phát vào nền kinh tế nước ta. Đây là một trong những
nguyên nhân quan trọng hàng đầu dẫn đến tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam

trong những năm gần đây. Khi tỷ giá ổn định, thì hàng hóa nhập khẩu ổn định, các
mặt hàng sử dụng nhiều nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng, linh kiện nhập khẩu,... giá
cũng ổn định. Ngoài ra, các mặt hàng nông sản, thủy hải sản,... thu mua cho xuất
khẩu, đặc biệt là lúa gạo, cà phê, cao su, hạt điều, thủy sản,...cũng không biến động
theo sự biến động của tỷ giá. Diễn biến đó thực tế cũng góp phần lớn vào việc ổn
định chỉ số giá tiêu dùng trên thị trường xã hội trong năm 2012.
Cũng không phải vì tỷ giá ổn định, hay thậm chí đồng Việt Nam “ lên giá nhẹ”
mà không khuyến khích xuất khẩu. Tính chung từ đầu năm 2012 đến nay, trong bối
cảnh các thị trường xuất khẩu truyền thống và xuất khẩu lớn của Việt Nam gặp
nhiều khó khăn về kinh tế, giá một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
giảm nhưng tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của cả nước vẫn đạt 93,5 tỷ USD,
tăng 18,4% so với cùng kỳ năm 2011.
Còn về nhập khẩu, tính chung 10 tháng năm nay, kim ngạch hàng hóa nhập
khẩu đạt 93,8 tỷ USD, tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2011.
Tỷ giá ổn định tác động đến xuất nhập khẩu và đương nhiên là tác động đến
nhập siêu, ngược lại nhập siêu được hạn chế tác động lại việc thực hiện mục tiêu
điều hành tỷ giá.
Theo các số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, 10 tháng đầu năm 2012 Việt
Nam chỉ nhập siêu khoảng 350 triệu USD. Cụ thể tỷ lệ nhập siêu 3 năm trở lại đây
đều từ gần 10 tỷ USD trở lên; trong đó năm 2009 nhập siêu 12 tỷ USD, năm 2010
13


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
là 12,4 tỷ USD (đây cũng là năm NHNN phải điều chỉnh tỷ giá trên 3%) và năm
2011 là 9,8 tỷ USD. Song nhập siêu giảm cũng lại là nguyên nhân quan trọng làm
cho tỷ giá ổn định.
Tiếp theo, một tác động quan trọng khác của tỷ giá là góp phần tạo điều kiện
cho NHNN mua được một lượng lớn USD trên thị trường từ dân cư và các doanh
nghiệp. Từ đó, góp phần cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, làm tăng sức mạnh

của quốc gia, đưa lượng dự trữ ngoại hối đến nay tương đương với trên 11 tuần
nhập khẩu. Bên cạnh đó, làm giảm tình trạng "đô la hóa" của nền kinh tế vốn đã lớn
và tăng lên trong mấy năm trước.Nhà nước đã huy động được một lượng ngoại tệ
lớn trong dân vào đầu tư phát triển và điều hành chính sách tiền tệ. Ngược lại,
nguồn quỹ dự trữ ngoại tệ do Ngân hàng Trung ương quản lý dồi dào cũng là cơ sở
quan trọng cho bình ổn tỷ giá, sẵn sàng can thiệp, đóng vai trò người mua bán cuối
cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, chủ động đáp ứng nhu cầu ngoại tệ
cho nhập khẩu các mặt hàng chiến lược khi cần thiết và nếu có nhu cầu.
Hơn nữa, sự ổn định tỷ giá cũng tác động tích cực đến thị trường vàng. Cũng
giống như các mặt hàng nhập khẩu khác, tỷ giá ổn định không làm cho giá vàng ở
trong nước tính bằng VND bị tăng kép, vừa do giá vàng tính bằng USD tăng, vừa
do tỷ giá VND/USD tăng. Khi tỷ giá VND/USD ổn định, giá vàng ổn định, sẽ có
tác động ổn định tâm lý, làm giảm tâm lý lạm phát, bởi vàng và USD thường được
chọn là nơi trú ẩn mỗi khi lạm phát cao. Cũng từ diễn biến đó tác động tích cực đến
mục tiêu ổn định tỷ giá, giảm hẳn tình trạng người dân “đổ xô” đi mua vàng ở
nhiều nơi, hạn chế việc mua vàng tích trữ, giảm nhu cầu ngoại tệ cho mua vàng.
Thành công này còn do thực hiện có hiệu quả việc quản lý thị trường vàng theo chủ
trương của Chính phủ, mục tiêu điều hành của NHNN.
Tỷ giá ổn định tác động tích cực đến nợ nước ngoài của Việt Nam nói chungvà
nợ công nói riêng. Bởi vì, nếu như tỷ giá chỉ cần tăng thêm 3-4% thôi thì mỗi năm
số nợ của nước ta tính ra nội tệ tăng thêm hàng chục nghìn tỷ đồng, bằng số thu
ngân sách một năm của trên 10 tỉnh miền núi.
14


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC

CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ VỚI
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Chính sách tỷ giá luôn luôn là một chính sách vĩ mô rất quan trọng bởi phạm

vi tác động lớn, nhưng tác động khó lường trước và thường phải đánh đổi giữa
nhiều mục tiêu vĩ mô. Trên thực tế thường có quá nhiều mục tiêu được đặt ra cho
chính sách tỷ giá, trong khi đó các công cụ thực thi chính sách và dư địa thực hiện
chính sách lại khá hạn hẹp. Việc giảm giá đồng nội địa có thể thúc đẩy xuất khẩu và
cải thiện cán cân thanh toán, nhưng điều đó chỉ có thể xảy ra trong những điều kiện
nhất định. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng giữa mục tiêu ổn định tỷ giá thực dựa
trên tiêu dùng và mục tiêu điều chỉnh điều kiện thương mại đôi khi mâu thuẫn do
tác động của tỷ giá đến các mức giá cả của hàng tiêu dùng và hàng hóa là đầu vào
cho sản xuất là khác nhau.
Điều đó cũng cho thấy tác động của tỷ giá đến lạm phát là không hề đơn giản
vì trong một nền kinh tế mở, tỷ giá thực ảnh hưởng đến giá cả tương đối giữa các
hàng hóa sản xuất trong nước và mặt hàng nhập khẩu. Tỷ giá có thể tác động trực
tiếp đến lạm phát do việc thay đổi giá cả tính bằng đồng bản địa của các mặt hàng
nhập khẩu và qua đó ảnh hưởng đến chỉ số giá cả. Do đó, lựa chọn một chế độ tỷ
giá hối đoái phù hợp để ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng dài hạn được
coi là một ưu tiên trong quản lý kinh tế hiện nay. Việc đánh giá diễn biến và nguyên
nhân biến động của tỷ giá, đồng thời phân tích mối liên hệ giữa chính sách tỷ giá và

15


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
tăng trưởng xuất khẩu là một chủ đề mà các đại biểu Quốc hội và các nhà hoạch
định chính sách hiện rất quan tâm.
Trong bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng được kiểm soát ổn định và thấp trong
vòng 5 tháng đầu năm và tỷ giá ổn định trong vòng gần 1 năm qua thì theo nhiều
chuyên gia việc NHNN nâng tỷ giá lên 1% lần này là hỗ trợ xuất khẩu và hỗ trợ
phát triển kinh tế phát triển đạt mục tiêu đề ra.
Năm 2013, những sản phẩm dệt may như thế này đem về cho nước ta gần 18
tỷ đô la mỹ. Với việc tỷ giá được điều chỉnh tăng 1%, giá trị xuất khẩu của những

sản phẩm này sẽ tăng cao. Cùng với dệt may là dầu khí, nông sản, CNTT... chắc
chắn sẽ đem về cho nước ta nguồn ngoại tệ lớn hơn so với thời điểm trước khi điều
chỉnh.
Tăng tỷ giá mở ra cơ hội tăng trưởng cho nhiều DN thuộc các ngành hàng xuất
khẩu. Với quyết định này, ít nhất theo lý thuyết, các DN xuất khẩu (chủ yếu sang
Mỹ và EU) sẽ hưởng lợi.
Ở chiều ngược lại, việc điều chỉnh tỷ giá cũng có thể gây xáo trộn tâm lý nhỏ
đối với thị trường tiền tệ và tài chính trong ngắn hạn đồng thời được xem là sẽ
mang đến khó khăn cho các DN nhập khẩu, hay vay nợ nước ngoài. Nhưng, cần
phải thấy rằng, với chính sách vĩ mô, phải có một cái nhìn dài hơi hơn, đó là ưu tiên
cho xuất khẩu, tăng GDP để ổn định kinh tế vĩ mô.
Đương nhiên nó sẽ ngược lại là doanh nghiệp nhập khẩu sẽ có những ảnh
hưởng vì phải nhập với giá trả tiền VN nhiều hơn thì cũng khó khăn trong việc tăng
chi phí, giảm lợi nhuận nhưng nhìn chung tổng thể thì cái này không tác động nhiều
và cái thứ 2 nhập khẩu đang ở mức khiêm tốn và có mức độ thôi không tăng như
các năm trước và bây giờ chúng ta đang khuyến khích xuất khẩu. TS. Cao Sỹ Kiêm
– Nguyên Thống đốc NHNN cho hay.
Lý giải cho quyết định điều chỉnh, NHNN cho biết, việc điều chỉnh tỷ giá lần
này nhằm góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2014.
16


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
Theo đó, NHNN có nhiệm vụ điều điều hành lãi suất, tỷ giá phù hợp với diễn
biến kinh tế vĩ mô, lạm phát, thị trường tiền tệ, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam,
tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế.
Đại diện Vụ Chính sách tiền tệ NHNN bà Nguyễn Thị Hồng, Vụ trưởng cho
biết: " Hiện nay cầu và sức hấp thụ của nền kinh tế vẫn còn đang thấp cho nên để
cải thiện kinh tế dựa vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước rất khó khăn,
trong khi xuất khẩu rất khả quan, trong 5 tháng đầu năm đã tăng 15,4% cho nên

NHNN điều chỉnh tỷ giá lần này là hỗ trợ xuất khẩu trong 6 tháng cuối năm và qua
đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế."
Từ ngày 19/6, thực hiện việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN, các ngân hàng đã
đồng loạt thông báo áp tỷ giá trần ở mức mới là 21.458 VND đổi 1 đô la Mỹ, tỷ giá
sàn là 21.034 VND đổi 1 đô la Mỹ. Thị trường ngoại tệ được xem là sẽ ổn định trên
một mặt bằng giá mới.
Đại diện NHNN cũng cho biết sau đợt điều chỉnh tỷ giá này thì NHNN sẽ kết
hợp các biện pháp cần thiết để đảm bảo thị trường ngoại hối và tỷ giá ổn định trên
mặt bằng giá mới. Về lo ngại, giá cả nhiều mặt hàng trong nước sẽ tăng, các chuyên
gia nhận định, với tình hình thị trường cung-cầu ngoại tệ như hiện nay và tiềm năng
dự trữ của NHNN thì việc kiểm soát giá là nằm trong tầm của NHNN.
Báo cáo nhanh từ khối nghiên cứu của ngân hàng HSBC về kinh tế VN sau
điều chỉnh tỷ giá cũng thể hiện cái nhìn lạc quan và nhận định rằng: sự điều chỉnh
của NHNN cũng sẽ không làm đồng Việt Nam suy yếu nhiều.
Tối ngày (18/6), NHNN bất ngờ công bố quyết định điều chỉnh tỷ giá
USD/VND. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ áp dụng cho ngày hôm nay 19/6 từ mức
21.036 VND/USD tăng lên 21.246 VND/USD
Với biên độ tỷ giá +/- 1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, hôm nay, tỷ
17


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC
giá USD sẽ được giao dịch trong mức 21.034 đồng đến 21.458 mỗi đô la Mỹ.
NHNN cho biết việc điều chỉnh tỷ giá nhằm góp phần thực hiện các nhiệm vụ
được Chính phủ giao tại Nghị quyết số 01 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân
sách nhà nước năm 2014.
Sau khi điều chỉnh tăng tỷ giá, NHNN cũng sẽ đảm bảo thực hiện đồng bộ các
biện pháp và công cụ chỉnh sách để ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối trên mặt

bằng giá mới

18


TIỂU LUẬN: KINH TẾ HỌC

KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế mở, tốc độ toàn cầu hóa nền kinh tế diễn ra rất nhanh. Tác
động tài chính vượt ra khỏi ranh giới của một quốc gia để tác động đến hoạt động
của nềnkinh tế khác, sự tác động này lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức độ ngoại
hướng của nền kinh tế đó, một sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ tác động đến
hoạt động kinh tế trong nước. Tuy có sự tác động lớn nhu vậy nhưng qua sự phân
tích ở trên, tỷ giá hối đoái cũng không thể tránh khỏi những tác động nội tại cũng
như từ bên ngoài đối với nền kinh tế. Từ những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối
đoái , ngân hàng trung ương đã tìm ra cácbiện pháp để bình ổn tỷ giá, làm cho tỷ
giá trở nên có lợi cho nền kinh tế.
Cũng theo đó, hoạt động của ngân hàng trung ương Việt Nam đã có những
biện pháp tích cực để tránh tác hại khó có thể lường trước của tỷ giá đối với mọi
hoạt động kinh tế xã hội, tạo nên những bước phát triển vững chắc của nền kinh tế
Việt Nam trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập.

19



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×