Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

Cuộc thi tìm hiểu hiến pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (881.26 KB, 40 trang )

BÀI THAM GIA CUỘC THI

“Tìm hiểu Hiến pháp
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013”
-----***-----

Câu 1. Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt nam Dân chủ cộng hoà (nay là
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có mấy bản Hiến
pháp? Các bản Hiến pháp đó được Quốc hội thông qua vào ngày, tháng, năm
nào?
Trả lời:
Hiến pháp được gọi là đạo luật cơ bản, luật gốc của Nhà nước, các quy định của
Hiến pháp là cơ sở pháp lý để xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất; đồng thời là cơ sở cho việc tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Hiến pháp là văn bản pháp luật có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp
luật và đời sống chính trị của mỗi quốc gia, có thể coi là tuyên ngôn chính trị của
mỗi chính thể nhà nước. Lịch sử lập hiến của nước ta từ năm 1945 đến nay đã
chứng kiến sự ra đời của 05 bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp 1946, 1959, 1980,
1992 và 2013.
Hiến pháp 1946: Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 02/9/1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa. Ngày 03/9/1945, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề về sự cần thiết phải có một bản Hiến pháp
dân chủ cho nước Việt Nam.
Mặc dù trong điều kiện hết sức khó khăn của những ngày đầu giành được độc lập,
Chính phủ lâm thời lúc đó vẫn tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc
hội khóa đầu tiên vào ngày 06/01/1946. Sau 10 tháng chuẩn bị tích cực, dưới sự
chỉ đạo sâu sát của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 09/11/1946, Quốc hội Khóa I (kỳ


họp thứ 2) chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta (với 240/242


phiếu tán thành), đó là Hiến pháp năm 1946.

Quang cảnh phiên họp Quốc hội khóa I tại Nhà hát Lớn Hà Nội

Hiến pháp năm 1946 ra đời là sự khẳng định mạnh mẽ về mặt pháp lý chủ quyền
quốc gia của nhân dân Việt Nam, sự độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, do điều kiện chiến tranh nên bản Hiến pháp
1946 không được chính thức công bố. Mặc dù vậy, những tinh thần và nội dung
của Hiến pháp 1946 luôn được Chính phủ lâm thời và Ban thường vụ Quốc hội áp
dụng, điều hành đất nước. Tư tưởng lập hiến của Hiến pháp 1946 luôn được kế
thừa và phát triển trong các bản Hiến pháp sau này.
Hiến pháp 1959: Ngày 7/5/1954, chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ tạo tiền đề cho
Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết ngày 20/7/1954, văn kiện quốc tế đầu tiên, tuyên bố tôn
trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Tuy nhiên, ngay sau đó được sự ủng hộ trực tiếp của Mỹ, chính quyền Ngô Đình
Diệm ở miền Nam Việt Nam đã cự tuyệt thi hành Hiệp định Giơ-ne-vơ, âm mưu
chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam.
2


Sự thay đổi của tình hình chính trị - xã hội nói trên đã làm cho Hiến pháp 1946
không có điều kiện áp dụng trên phạm vi cả nước. Mặt khác, nhiều quy định của
Hiến pháp 1946 cũng không còn phù hợp với điều kiện cách mạng nước ta ở miền
Bắc lúc bấy giờ. Vì vậy, việc yêu cầu sửa đổi Hiến pháp 1946 đã được đặt ra. Để
thực hiện được nhiệm vụ này, Chính phủ đã thành lập một Ban sửa đổi Hiến pháp
với 28 thành viên, do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng Ban. Ngày 01/4/1959,
Bản dự thảo Hiến pháp mới đã được công bố để toàn dân thảo luận và đóng góp ý
kiến. Đến ngày 31/12/1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I đã thông qua bản
Hiến pháp mới thay thế Hiến pháp năm 1946; và ngày 01/01/1960, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ký lệnh công bố bản Hiến pháp này – Hiến pháp năm 1959.

Hiến pháp 1980: Ngày 30/4/1975 đánh dấu một mốc son chói lọi trong lịch sử dân
tộc Việt Nam, đất nước hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Ngày
25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu đã bầu ra
492 vị đại biểu Quốc hội (khóa VI). Từ ngày 24/6 đến 03/7/1976, Quốc hội khóa
VI tiến hành kỳ họp đầu tiên. Tại kỳ họp này, ngày 02/7/1976, Quốc hội đã quyết
định đổi tên nước ta thành nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đồng thời
ra Nghị quyết về việc sửa đổi Hiến pháp 1959 và thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến
pháp gồm 36 người do đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội làm Chủ tịch Ủy ban dự thảo Hiến pháp mới.
Đến tháng 8/1979, bản Dự thảo Hiến pháp mới được đưa ra lấy ý kiến nhân dân cả
nước. Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Với Hiến pháp năm 1980,
lần đầu tiên vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được hiến định tại Điều
4, đây là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong
thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Hiến pháp năm 1992: Trong những năm cuối của thập kỷ 80, Thế kỷ XX, do ảnh
hưởng của phòng trào Cộng sản và công nhân quốc tế lâm vào thoái trào, chế độ xã
hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nước ta lâm vào cuộc
khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới với nhiều chủ trương, giải pháp quan trọng
3


để giữ vững ổn định về chính trị và tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội; trong bối
cảnh đó, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 không còn phù hợp với yêu cầu
xây dựng đất nước trong điều kiện mới.
Ngày 22/12/1988, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội (khóa VIII) đã ra Nghị quyết thành
lập Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp gồm 28 đồng chí do Chủ tịch Hội đồng Nhà nước
Võ Chí Công làm Chủ tịch Uỷ ban sửa đổi Hiến pháp.
Đến ngày 15/4/1992, trên cơ sở tổng hợp ý kiến của nhân dân cả nước, Bản dự

thảo Hiến pháp mới lần này đã được Quốc hội khóa VIII thông qua (tại kỳ họp thứ
11). Hiến pháp năm 1992 được gọi là Hiến pháp của Việt Nam trong thời kỳ đầu
của thời kỳ đổi mới.
Ngày 25/12/2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã thông qua Nghị quyết số
51/2001/QH10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.
Hiến pháp năm 2013: Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng
sản Việt Nam, cùng với kết quả tổng kết thực tiễn qua 25 năm thực hiện công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm
1992; nhằm thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và nhà nước
ta về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Ngày 06/8/2011, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, đã thông qua Nghị quyết
số 06/2011/QH13 thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 gồm 30
thành viên, do đồng chí Nguyễn Sinh Hùng – Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch Ủy
ban. Sau thời gian 9 tháng (từ 01 đến 9/2013) triển khai lấy ý kiến góp ý của nhân
dân cả nước và người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6,
Quốc hội khóa XIII chính thức thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – Hiến pháp năm 2013. Ngày 08/12/2013, Chủ tịch nước đã ký
Lệnh công bố Hiến pháp. Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2014. Đây là bản Hiến pháp của thời kỳ tiếp tục đổi mới đất nước trong sự
nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.
4


Câu 2. Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ
ngày, tháng, năm nào? So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm
2001) có bao nhiêu điều được giữ nguyên? Có bao nhiêu điều được sửa đổi, bổ

sung? Điều sửa đổi, bổ sung nào bạn tâm đắc nhất? vì sao?
Trả lời:
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 được Quốc
hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào ngày 28 tháng 11 năm 2013 với số
phiếu thuận áp đảo (486/488 đại biểu bấm nút thông qua). Ngày 8 tháng
12 năm 2013, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký Lệnh số 18/2013/L-CTN công
bố Hiến pháp và Nghị quyết số 64/2013/QH13 quy định một số điểm thi hành Hiến
pháp, theo đó Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2014.
Bản Hiến pháp thể hiện đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế
độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh đạo,
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, quy định đúng đắn, đầy
đủ và khái quát hơn về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và
môi trường, bảo vệ Tổ quốc, tổ chức bộ máy nhà nước, về hiệu lực và quy trình
sửa đổi Hiến pháp.
Hiến pháp năm 2013 có tổng cộng 11 Chương với 120 điều, giảm 01 chương và 27
điều so với Hiến pháp 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 2001), trong đó có 12 điều
mới, 07 điều được giữ nguyên và 101 điều được sửa đổi, bổ sung.
Có thể nói Hiến pháp năm 2013 là sự hội tụ trí tuệ của cả dân tộc khi khi từng câu
từng chữ được nhân dân cả nước tham gia đóng góp ý kiến. Vì vậy mỗi điều được
thêm mới hay sửa đổi, bổ sung đều chứa đựng giá trị sâu sắc. Tuy nhiên, điều được
sửa đổi, bổ sung tại Hiến pháp 2013 khiến tôi tâm đắc nhất là nội dung Điều 4, quy
định về vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng cộng sản Việt Nam, trong đó
khoản 2 ghi rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ
Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về
những quyết định của mình”.
5


Lãnh tụ Hồ Chí Minh với nhân dân


Ngay từ ngày đầu thành lập Đảng ta đặc biệt quan tâm đến việc phải tăng cường
mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng nhân dân; thường xuyên củng cố
và tăng cường mối liên hệ này nhằm nhân lên nguồn sức mạnh nội sinh của Đảng
là chủ trương xuyên suốt và nhất quán trong mọi thời kỳ lịch sử. Đảng luôn gắn bó
với nhân dân, bởi lý do để Đảng tồn tại là vì nhân dân; mục đích cao nhất của
Đảng là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây
dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng vừa là
người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân, Nhân dân yêu mến
gọi Đảng là “Đảng ta”. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng một mối quan hệ mang
tính tất yếu, đã được lịch sử đã chứng minh như thế thì không nhất thiết phải quy
định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, có nhiều ý kiến ủng hộ việc bổ sung nội dung
trên vào Hiến pháp bởi những lý do:
Thứ nhất, chúng ta khẳng định một lần nữa mục tiêu hoạt động của Đảng:
Như Bác đã nói: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân... Trong xã hội,
không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân”, vì “gốc có
6


vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Đảng ta lãnh đạo quần
chúng giành chính quyền, xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột để xây dựng chế độ xã hội
do nhân dân làm chủ; Đảng luôn hoạt động vì mục tiêu cao cả là vì quyền lợi của
nhân dân, làm cho đời sống nhân dân ngày cảng ấm no, hạnh phúc, đưa đất nước đi
lên xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa làm bước đệm tiến tới xã hội cộng sản – một
xã hội nhân văn, là đỉnh cao trong tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của các
hình thái kinh tế - xã hội. Để thực hiện được mục tiêu ấy thì Đảng phải gắn bó mật
thiết với nhân dân, chịu trách nhiệm trước dân về hoạt động lãnh đạo của mình.
Thứ hai là đề cao “quyền lực nhân dân”:
Đảng ta kế thừa và phát huy truyền thống, thấu triệt sâu sắc triết lý, “nước lấy dân
làm gốc”, “chở thuyền cũng là dân và lật thuyền cũng là dân”, Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã nhấn mạnh: “xét về mặt lịch sử, giai cấp nào lãnh đạo được quần chúng
nhân dân thì giai cấp đó sẽ chiến thắng” với đường lối chiến lược đúng đắn, sách
lược mềm dẻo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Nước ta là nước dân chủ,
địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”, Bác cũng từng nói “dễ trăm lần không dân
cũng chịu/Khó vạn lần dân liệu cũng xong” và nhắc nhở ấy vẫn luôn được Đảng ta
thấu triệt và thực hiện và được khẳng định trong các Văn kiện của Đảng qua các kỳ
Đại hội Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng của người công bộc,
trong đó, quyền lực đối với Người chỉ là sự ủy thác của nhân dân và Người đón
nhận nó “như một người lính vâng lệnh quốc dân ra mặt trận”.
Đảng ta là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng phải chịu sự giám
sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình.
Đồng thời nhân dân có quyền tham gia trong công tác xây dựng và chỉnh đốn
Đảng, trong giám sát việc rèn luyện đạo đức cách mạng theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Bổ sung nội dung trên trong Hiến pháp là thể hiện sự tôn trọng nhân dân, lực lượng
luôn sát cánh bên Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng làm nên những trang sử vẻ
vang trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời thể hiện tính dân chủ trong đời
sống chính trị của chế độ xã hội chủ nghĩa.

7


Thứ ba là nâng cao ý thức rèn luyện của mỗi đảng viên:
Mặt khác quy định trên còn có ý nghĩa nhắc nhở người đảng viện cộng sản luôn có
ý thức phấn đấu, rèn luyện đều “sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”.
Trong vấn đề đạo đức người đảng viên Bác đã sớm chỉ ra nguy cơ một bộ phận cán
bộ, đảng viên “tự đánh mất mình”, rời xa quần chúng; “những người trong lúc
tranh đấu thì hăng hái, trung thành... Song đến khi có ít nhiều quyền hạn trong tay
thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, không tự giác
mà biến thành người có tội với cách mạng”. Theo Người, bản chất của Đảng cách

mạng chân chính khác với các đảng phái khác chính là ở chỗ “Đảng không phải là
một tổ chức để làm quan phát tài”, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn
giữ tư cách của người cách mạng, tận trung với nước, tận hiếu với dân và thường
xuyên rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng “như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”.
Quy định về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân một lần nữa nhắc cho mỗi đảng
viên về trách nhiệm của mình trước nhân dân, đất nước, trước lý tưởng cao cả của
Đảng rằng hơn ai hết người đảng viên phải rèn luyện phẩm chất để cùng chung tay
thực hiện.
Từ những suy nghĩ trên tôi thấy tâm đắc nhất với nội dung bổ sung tại Điều 4 Hiến
pháp.
Câu 3. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân…”. Bạn hãy nêu và phân tích ngắn gọn các quy định Hiến pháp năm 2013
về những cách thức để Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước?
Trả lời:
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một nguyên tắc cơ bản, được ghi nhận
xuyên suốt trong cả bốn bản Hiến pháp của nước ta (Hiến pháp: 1946, 1959,1980
và 1992). Đến Hiến pháp năm 2013, một lần nữa tiếp tục khẳng định tại Điều 2:
“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
8


dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức”.
So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định cụ thể hơn các phương
thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Cụ thể, Hiến pháp năm 1992 chỉ
ghi nhận nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng

nhân dân là các cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân
dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đến Hiến pháp năm 2013, tại Điều
6 quy định: "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan
khác của Nhà nước". Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung đầy đủ hơn các
hình thức thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, không chỉ bằng dân chủ đại
diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân như trước đây mà còn thông qua
cáccơ quan khác của Nhà nước và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp.
Dân chủ đại diện là phương thức thực hiện quyền lực nhà nước cơ bản và phổ biến
nhất của nhân dân. Theo đó, nhân dân thông qua các cơ quan đại biểu do mình bầu
ra và ủy thác quyền lực như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; rồi đến lượt
mình Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục lập ra các cơ quan khác của
Nhà nước để thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Như vậy, hiểu một cách
đầy đủ, cơ quan nhà nước được nhân dân ủy quyền không chỉ là các cơ quan dân
cử như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn bao gồm cả các cơ quan
trong hệ thống hành pháp và tư pháp; các cơ quan này thay mặt nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước để điều hành, quản lý xã hội và chịu sự giám sát của nhân dân.

Cử tri Hà Nội đi bầu đại biểu Quốc hội

9


Biểu hiện rõ nét và tập trung nhất của hình thức dân chủ đại diện ở nước ta là việc
tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Điều 69 Hiến pháp năm 2013, với quy định:
"Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam" đã nhấn mạnh vai trò của
nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, tất cả quyền lực nhà nước đều
thuộc về nhân dân và do nhân dân ủy thác cho Quốc hội. Tính chất đại diện thể
hiện ở sự hình thành của Quốc hội - cơ quan duy nhất ở nước ta bao gồm những

người thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước do cử tri cả nước bầu ra
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Tính chất đại diện
cao nhất của Quốc hội còn thể hiện ở chỗ Quốc hội bao gồm những đại biểu đại
diện cho các thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo và các nhóm xã hội khác; đồng
thời là đại diện cho khối đại đoàn kết toàn dân trong cả nước.
Dân chủ trực tiếp, là phương thức người dân trực tiếp thể hiện ý chí, nguyện vọng
của mình mà không phải thông qua cá nhân hay tổ chức đại diện. Các hình thức
thực hiện dân chủ trực tiếp của người dân, có thể như: tham gia ứng cử đại biểu
Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở,
đối thoại trực tiếp giữa nhân dân với đại diện cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi
Nhà nước trưng cầu ý dân, biểu tình .v.v.
Về hình thức trưng cầu ý dân, trong Hiến pháp năm 1946, tại Ðiều 21 có quy
định: "Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc có quan hệ đến
vận mệnh quốc gia..." và Ðiều 32 quy định: "Những việc có quan hệ đến vận mệnh
quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba số nghị viên đồng ý...".
Các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 sau này đều có đề cập đến việc trưng cầu ý
dân nhưng chưa có cơ chế thực hiện cụ thể nên những quy định của Hiến pháp
chưa được thực hiện trong thực tế. Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, để
cụ thể hóa các quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân, Quốc hội khóa XIII đã thông
qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015, trong đó có hai đạo luật rất
quan trọng đó là Luật trưng cầu ý dân và Luật biểu tình (Luật trưng cầu ý dân
giao Hội Luật gia Việt Nam chủ trì xây dựng, Luật biểu tình giao Bộ Công an chủ
trì xây dựng). Cả hai dự án luật này Chính phủ dự kiến sẽ trình Quốc hội xem xét
thông qua tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII vào cuối năm 2015.
10


Về hình thức dân chủ ở cơ sở, ngay từ năm 1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ban
hành Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/02/1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở. Thể chế hóa Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành Nghị

định số 29/1998/NĐ-CP ngày 11/5/1998 và sau đó là Nghị định số 79/2003/NĐ-CP
ngày 7/7/2003 về Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường thị trấn. Đến năm 2007,
trước yêu cầu về việc tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ sở, ngày 20/4/2007, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội khóa XI đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PLUBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Như vậy có thể nói, trước khi Hiến pháp năm 2013 ra đời, vấn đề dân chủ trực tiếp
đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, vì tính chất cấp bách và quan
trọng của nó trước yêu cầu tiếp tục đổi mới và phát triển đất nước.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức cơ bản để nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước; có mối quan hệ tác động qua lại với nhau và đều có vai
trò quan trọng trong nền dân chủ đương đại. Nếu như bằng hình thức dân chủ đại
diện nhân dân lập ra bộ máy nhà nước từ trung ương tới cơ sở để quản lý, điều
hành xã hội một cách thường xuyên liên tục, giữ vững ổn định thể chế và phát triển
đất nước thì với hình thức dân chủ trực tiếp nhân dân lại góp phần làm cho bộ máy
nhà nước đó ngày càng hoàn thiện hơn bằng việc giám sát, tham gia ý kiến hay
biểu thị thái độ với chính các cá nhân hay cơ quan nhà nước do mình lập nên. Thực
hiện tốt và bảo đảm hài hòa cả hai hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp
là cơ sở vững chắc để hướng tới một thể chế Nhà nước hoàn thiện mà nhân dân
là người chủ đích thực của nó.
Câu 4. Những quy định nào của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc.
Trả lời:
Tại phiên họp tổng kết hoạt động của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, đồng chí Nguyễn
Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: Ngày 28-11-2013, với tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội tán thành,
Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây
11


là sự kiện chính trị, pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong
lịch sử lập pháp của nước ta, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn

quân, của các vị đại biểu Quốc hội, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của tuyệt
đại đa số nhân dân, khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân.
Trên nền tảng lý luận Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH về dân chủ và quyền làm chủ của
nhân dân trong mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, Hiến pháp sửa đổi 2013
quy định tại Điều 2: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cũng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ
XHCN là một hình thức chính trị - nhà nước của xã hội. Trong đó, con người là
thành viên trong xã hội được tập hợp và phát huy thành khối đại đoàn kết toàn dân
tộc có đầy đủ tư cách công dân - tư cách làm chủ xã hội và như thế mọi công dân
có quyền làm chủ nhà nước mà mình cử ra.

54 Dân tộc anh em trong Dân tộc Việt Nam

12


Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong chế độ chính trị tiếp tục được
kế thừa, bổ sung, khẳng định và phát triển trong Hiến pháp 2013 tại Điều 9: Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ
chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân;
tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng

cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó, Hiến pháp quy định, các tổ chức thành viên của MTTQ như Công
đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam là các tổ
chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức mình; cùng
các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Khẳng định MTTQ là chỗ dựa vững chắc của nhà
nước, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, có sự phân công, phối hợp,
kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp để thống nhất Quyền lực nhà nước.
Bổ sung và phát triển vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong chế độ
chính trị là điều kiện để nâng cao vị thế của Mặt trận trong phát huy truyền thống
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân
dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên
nhân dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội
và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời, cùng với nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính
đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Các nội dung sửa đổi đảm bảo sự phù hợp
với nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới, trong đó có nội
13


dung về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức
chính trị - xã hội và nhân dân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng và
Thông báo kết luận của Bộ Chính trị về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam; tiếp tục khẳng định và nâng cao vai trò, vị thế to lớn của Mặt
trận và Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc tạo

dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Một trong tám phương hướng cơ bản trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (năm 2011) là “Xây dựng nền dân chủ Xã hội chủ
nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, tăng cường và mở rộng Mặt trận thống
nhất”. Trong một chế độ chính trị “xã hội, quốc gia, dân tộc”, Đảng ta xác định dân
chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa
bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”. Trong chế độ dân chủ đó, “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại
đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Cương lĩnh chỉ rõ: “Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở
nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành
viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận”... Với vị thế của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
nên trên, Mặt trận cùng với Nhà nước là chủ thể đại diện của nhân dân đối với mọi
quyền lực trong nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Theo Hiến pháp, sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
(trong đó có MMTQ) trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
để thống nhất Quyền lực nhà nước bao hàm cả giám sát và phản biện xã hội, tham
gia vào quản lý nhà nước nhằm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
và hạn chế quyền lực nhà nước. Phản biện xã hội là xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước; tham gia vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách, quyết định
lớn của Đảng; phản biện các dự án sửa đổi bổ sung Hiến pháp, luật và pháp lệnh
14


cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác. Giám sát hoạt động của Đảng,
hoạt động của Nhà nước, của cán bộ công chức trong việc thực hiện chủ trương,

đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Thực chất,
giám sát là chống các bệnh quan liêu, cửa quyền, lạm quyền, mất dân chủ và tham
nhũng của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, hậu quả của những hành vi vi
phạm Hiến pháp và pháp luật. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” của Hồ Chủ
tịch vào tháng 10-1947, Người dạy cán bộ, đảng viên cách lãnh đạo và kiểm soát:
“Muốn chống bệnh quan liêu; bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi
hành không; thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm; ai làm qua chuyện,
chỉ có một cách là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra
hết, hơn nữa kiểm tra khéo, về sau khuyết điểm nhất định bớt đi”.
Với vị trí và thành phần của Mặt trận cho thấy Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội có vai trò hết sức quan trọng trong thực hiện kiểm soát một
cách hệ thống thường xuyên và bằng pháp luật đối với quyền lực nhà nước; là cơ
sở để nhân dân giám sát và phản biện; nhằm nâng cao hiệu lực giám sát và chất
lượng hiệu quả phản biện của nhân dân, vừa nâng cao nhận thức và ý thức pháp
luật của nhân dân vừa tạo sự đồng thuận cao trong xã hội, trong khối đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Câu 5. Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi, bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? vì sao?
Trả lời:
Nhìn lại các bản Hiến pháp của Nhà nước ta từ trước đến nay, thì trong các bản
Hiến pháp đều có sự xác lập, quy định về mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân
và đây được xem là một trong những vấn đề cốt yếu, quan trọng thể hiện bản chất
của nhà nước. Đặc biệt, trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam sửa đổi, bổ sung năm 2013 các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân càng được thể chế hóa sâu sắc, đầy đủ hơn và được quy định tại
Chương II, điều này một lần nữa càng khẳng định thêm về nhà nước dân chủ, thể
15



chế dân chủ, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân. Để giúp hiểu rõ hơn về tính chất ưu việt đó, trong bài viết này tác giả
tiếp cận, trình bày khái quát về một số nội dung liên quan đến vấn đề quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong các quy định của bản Hiến
pháp mới này như sau:
Những điểm mới thể hiện sự tiến bộ về chất trong các quy định về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp năm 2013 sửa
đổi. Ngoài việc tiếp tục ghi nhận về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân từ giá trị lập pháp của các bản hiến pháp trước đó mà nhất là từ Hiến
pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001). Các quyền con người, quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân được ghi nhận trong Chương II của bản Hiến pháp mới này đã
thể hiện đầy đủ về tính dân chủ, nhân văn và cơ chế nhằm đảm bảo, bảo vệ tuyệt
đối của Nhà nước ta bằng pháp luật đối với mọi người dân về quyền con người,
quyền công dân. Đồng thời, thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng về vấn đề
quyền con người, quyền công dân trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa và nổ lực của Nhà nước ta trong việc hiến định những vấn đề có
liên quan đến quyền con người trong các công ước quốc tế về nhân quyền mà Việt
Nam là thành viên. Cụ thể đó là:
Một là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi quy định đầy đủ hơn và đã có sự phân định
rạch ròi về quyền con người, quyền công dân. Mặc dù, trong Hiến pháp năm 1992
đã ghi nhận về quyền con người, nhưng các quyền đó chỉ được thể hiện thông qua
các quy định về quyền công dân. Điều này dẫn đến rất khó khăn khi cần xác
định “ranh giới” đâu là quyền con người để thể chế hóa quy định của Hiến pháp
cũng như xác định, đưa ra những biện pháp để bảo đảm cho mọi người dân thực
hiện quyền của mình. Vì thế, trong Hiến pháp năm 2013 sửa đổi, đã có sự phân
định rõ ràng về vấn đề này, đồng thời các quy định về quyền con người, quyền
công dân được đặt ở vị trí trang trọng trong đạo luật cơ bản tại Chương II của Hiến
pháp. Mặt khác, trong các quy định cụ thể của bản Hiến pháp này cũng đã thể hiện
rõ ràng về vấn đề đó, chẳng hạn chúng ta thấy những quy định nào ghi nhận“mọi
người có quyền”, thì đó là sự thể hiện cụ thể về quyền con người, còn những quy

16


định nào ghi nhận “công dân có quyền” thì đó là thể hiện cụ thể về các quyền cơ
bản của công dân;

Trẻ em được chăm sóc và giáo dục

17


Hai là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi đã xác định rõ ràng hơn về các nguyên tắc để
đảm bảo quyền con người, quyền công dân theo hiến định. Hiến pháp
năm 1992 chỉ quy định “các quyền con người được tôn trọng”, nhưng trong các
quy định của Hiến pháp năm 2013 sửa đổi đã xác định rõ ràng rằng “ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Quyền con người, quyền công dân chỉ
có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do
quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe
của cộng đồng” (Điều 14). Như vậy, trong các chế định này có hai nội dung
mới được ghi nhận, đó là 1) quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn
chế trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng chứ không thể vì lý do nào
khác và 2) việc hạn chế quyền con người, quyền công dân phải do quy định
của pháp luật, tức là phải được quy định trong các đạo luật do cơ quan có thẩm
quyền của Nhà nước ban hành chứ không thể bị hạn chế một cách tùy tiện. Bên
cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi còn xác định cụ thể về cách thức để mọi
người thực hiện được các quyền này, đó là “việc thực hiện quyền con người,
quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi

ích hợp pháp của người khác” (khoản 4 Điều 15). Đồng thời, xác định về sự
bình đẳng, bình quyền của mọi người trước pháp luật, đó là “mọi người đều
bình đẳng trước pháp luật, không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính
trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội” (Điều 16);
Ba là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi khẳng định rõ ràng và với đầy đủ trách nhiệm
về các mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, giữa Nhà nước
với công dân, với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và trách nhiệm quốc tế đối
với những người đấu tranh vì tự do, độc lập và chủ nghĩa xã hội. Để đảm bảo điều
này, tại Điều 2, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi khẳng định hùng hồn rằng, “Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về Nhân dân...” (khoản 2). Đồng thời, một lần nữa khẳng định lại
18


về mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ công dân, theo đó “quyền công dân không
tách rời nghĩa vụ công dân” (khoản 1 Điều 15); xác định rõ trách nhiệm của cá
nhân, công dân trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân là phải có
nghĩa vụ tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, không được xâm
phạm lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc (khoản 2, khoản 4 Điều 15). Xác định rõ về
mối quan hệ và trách nhiệm giữa Nhà nước, xã hội và công dân, theo đó trong Hiến
pháp ghi nhận rõ ràng rằng“công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với
Nhà nước và xã hội” (khoản 3 Điều 15); đồng thời “Công dân Việt Nam không thể
bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác. Công dân Việt Nam ở nước ngoài được
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ” (Điều 17). Đặc biệt, với
các quy định hiện hành Hiến pháp đã làm rõ thêm về tình cảm, đạo lý và trách
nhiệm đối với bộ phận người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Điều 18) và trách
nhiệm quốc tế đối với những người nước ngoài đấu tranh vì tự do, độc lập, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội, theo đó “Người nước ngoài đấu tranh vì tự do và độc lập dân
tộc, vì chủ nghĩa xã hội, dân chủ và hoà bình hoặc vì sự nghiệp khoa học mà bị bức
hại thì được Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xem xét cho cư

trú” (Điều 49);
Bốn là, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi đã bổ sung và quy định rõ ràng, đầy đủ hơn
về các quyền cụ thể của quyền con người, quyền công dân phù hợp với đời sống
thực tiễn. Về vấn đề này và để đảm bảo cho các quyền tự nhiên của con người phù
hợp với điều kiện của đời sống thực tiễn, trong các quy định của bản Hiến pháp
này đã bổ sung thêm các quyền con người, quyền công dân như, quyền sống (Điều
19); quyền hiến mô, bộ phận người và hiến xác (khoản 3 Điều 20); quyền được
đảm bảo an sinh xã hội (Điều 34); quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế (khoản
2 Điều 32); quyền được bảo vệ sức khỏe, quyền bình đẳng trong việc sử dụng các
dịch vụ y tế (khoản 1 Điều 38); quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ (Điều
40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, quyền tham gia vào đời sống
văn hóa và sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc của mình,
quyền sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ và tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều
42); quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43)... Đồng thời, bổ sung và
19


quy định rõ hơn về quyền của các nhóm đối tượng đặc thù, như trẻ em, thanh niên,
người cao tuổi. Đó là, Hiến pháp quy định rõ rằng, trẻ em có quyền được tham gia
vào các vấn đề liên quan tới trẻ em; nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ
mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em
(khoản 1 Điều 37); người cao tuổi được Nhà nước, gia đình và xã hội tôn trọng,
chăm sóc và phát huy vai trò trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (khoản 3
Điều 37). Liên quan đến quyền lao động Hiến pháp năm 2013 sửa đổi quy định rõ
ràng, đầy đủ hơn về quyền này, Theo đó, công dân có quyền làm việc, lựa chọn
nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Đặc biệt, Hiến pháp còn đưa ra các quy
định để bảo đảm thực hiện các quyền này, chẳng hạn bên cạnh việc quy định mọi
người bình đẳng trước pháp luật, thì Hiến pháp cũng quy định rõ ràng rằng “Không
ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội” (khoản 2 Điều 16)...;

Trên đây là một số điểm mới, tiến bộ thể hiện về tính ưu việt, dân chủ trong hoạt
động lập hiến của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong tiến trình
xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân.
Câu 6. Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính
phủ, Toà án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Phân tích điểm mới về mối
quan hệ giữa các cơ quan đó trong thực hiện Quyền lực nhà nước.
Trả lời:
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ
sung phát triển năm 2011) Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nguyên tắc mới về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta. Đó là quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là quan điểm, vừa là
nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước ta
trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới cả về kinh tế lẫn
chính trị. Vì thế tìm hiểu nguyên tắc mới này của Hiến pháp có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc xây dựng các dự án luật
20


về tổ chức bộ máy nhà nước.
Về quyền lực nhà nước là thống nhất, theo nội dung và tinh thần của Hiến pháp
năm 2013 thì quyền lực nhà nước thống nhất là ở nhân dân. Quan niệm thống nhất
quyền lực nhà nước là ở nhân dân thể hiện ở nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân.
Đối với Quốc hội:
Vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, cơ bản giữ
như quy định của Hiến pháp năm 1992; đồng thời, có sửa đổi, bổ sung để phù hợp
với chức năng của cơ quan thực hiện quyền lập hiến, lập pháp và mối quan hệ giữa
các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; cụ thể như sau:

Sửa đổi, bổ sung Điều 83 của Hiến pháp năm 1992, khẳng định Quốc hội là cơ
quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với
hoạt động của Nhà nước (Điều 69).
Quy định rõ, khả thi và phù hợp hơn trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN quyền quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ
bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (khoản 3 Điều 70) để xác định rõ hơn
vai trò, trách nhiệm, quyền quyết định của Quốc hội và quyền quản lý, điều hành
của Chính phủ.
Tiếp tục quy định Quốc hội quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi
giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định dự toán ngân sách
nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước; bổ sung thẩm quyền Quốc hội quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia,
nợ công, nợ chính phủ (khoản 4 Điều 70).
Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn việc bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7 Điều 70) để phù
hợp với yêu cầu đổi mới mô hình Tòa án nhân dân, làm rõ hơn vai trò của Quốc
hội trong mối quan hệ với cơ quan thực hiện quyền tư pháp, đồng thời nâng cao vị
thế của Thẩm phán theo tinh thần cải cách tư pháp.
21


Bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức và hoạt
động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước
và cơ quan khác do Quốc hội thành lập (các khoản 2, 6, 7 và 9 Điều 70).
Tiếp tục quy định việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn (khoản 8 Điều 70).
Quy định rõ và hợp lý hơn các loại điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn
hoặc bãi bỏ của Quốc hội (khoản 14 Điều 70). Đó là những điều ước quốc tế liên

quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều
ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều
ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội.
Hiến định thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành lập Ủy ban lâm thời để
nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề nhất định được quy
định tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật tổ chức Quốc hội (Điều 78).
Đồng thời, bổ sung quy định giao Quốc hội quyết định việc thành lập, giải thể Ủy
ban của Quốc hội (Điều 76).

22


Đối với Chính phủ:
Một là, Hiến pháp đã sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ theo
hướng khái quát, hợp lý hơn, phù hợp với vị trí hành pháp của Chính phủ (Điều
96), chẳng hạn như: (i) Khẳng định vai trò hoạch định chính sách của Chính phủ,
Hiến pháp quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ "đề xuất, xây dựng chính
sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo
thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều này..." (khoản 2
Điều 96).

Phiên họp của Chính phủ - cơ quan thực hiện quyền hành pháp

Khẳng định vai trò quản lý, điều hành vĩ mô của Chính phủ, Hiến pháp đã làm rõ
hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp và
pháp luật (khoản 1); thi hành các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ quốc, bảo
đảm tính mạng, tài sản của nhân dân (khoản 3); bổ sung quy định trình Quốc hội
quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính đối với
đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 4);...

Bên cạnh quyền trình dự án luật, Hiến pháp (sửa đổi) đã bổ sung quyền ban hành
văn bản pháp luật của Chính phủ như một nhiệm vụ, quyền hạn độc lập của chức
năng hành pháp tại Điều 100: "Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ
23


trưởng cơ quan ngang bộ ban hành văn bản pháp luật để thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, kiểm tra việc thi hành các văn bản đó và xử lý các văn bản trái pháp
luật theo quy định của luật".
Trong mối quan hệ với Quốc hội: Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ quy định về thẩm
quyền của Quốc hội quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, tạo điều
kiện cho Chính phủ và các chủ thể khác chủ động, linh hoạt trong việc đề xuất xây
dựng luật, pháp lệnh; phân định rõ hơn phạm vi chính sách và các vấn đề quan
trọng do Quốc hội quyết định (trong một số lĩnh vực Quốc hội chỉ quyết định các
chính sách cơ bản). Chính phủ có quyền ban hành các chính sách, biện pháp cụ thể
để quản lý, điều hành; phân định rõ và phù hợp hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ trong việc đàm phán, ký
kết, gia nhập điều ước quốc tế... Theo đó, Chính phủ có thẩm quyền "Tổ chức đàm
phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước;
quyết định việc ký, gia nhập, phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế
nhân danh Chính phủ, trừ điều ước quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại
khoản 14 Điều 70" (khoản 7 Điều 96).
Hai là, Hiến pháp quy định rõ cơ cấu, thành phần của Chính phủ "gồm Thủ tướng
Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ". Như vậy, Hiến pháp (sửa đổi) đã bỏ cụm từ "các thành viên khác" so
với Hiến pháp năm 1992 và bổ sung quy định "cơ cấu, số lượng thành viên Chính
phủ do Quốc hội quy định" để trên cơ sở đó sẽ quy định trong luật về cơ cấu, số
lượng thành viên Chính phủ nhằm bảo đảm tính ổn định.
Ba là, Hiến pháp tăng cường vai trò, vị thế và trách nhiệm cá nhân của Thủ tướng
Chính phủ (Điều 98). Thủ tướng Chính phủ được xác định là người đứng đầu

Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Quốc hội về hoạt động của Chính phủ và những
nhiệm vụ được giao; báo cáo công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trước
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước (thay vì quy định chung
chung, không rõ ràng như Hiến pháp năm 1992).
Chức năng chủ yếu của Thủ tướng là lãnh đạo tập thể Chính phủ thực hiện chức
năng hành pháp; điều hành hoạt động của Chính phủ. Các nhiệm vụ, quyền hạn cụ
24


thể của Thủ tướng được tăng cường và sắp xếp lại hợp lý hơn như: Lãnh đạo công
tác của Chính phủ (bỏ quy định "lãnh đạo... các thành viên Chính phủ, Ủy ban
nhân dân các cấp" của Hiến pháp năm 1992); bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn của
Thủ tướng Chính phủ: lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thi hành pháp
luật (khoản 1); lãnh đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động của hệ thống hành chính
Nhà nước từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thông suốt
của nền hành chính quốc gia (khoản 2); "Quyết định và chỉ đạo việc đàm phán, chỉ
đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ;
tổ chức thực hiện điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên" (khoản 5)...
Tăng cường chế độ báo cáo của Thủ tướng trước nhân dân thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền giải quyết
của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ (khoản 6).
Phó Thủ tướng Chính phủ giúp Thủ tướng Chính phủ làm nhiệm vụ theo sự phân
công của Thủ tướng và bổ sung quy định Phó Thủ tướng "chịu trách nhiệm trước
Thủ tướng về nhiệm vụ được phân công".
Với các sửa đổi, bổ sung này, vị thế và vai trò của Thủ tướng Chính phủ đã được
nâng cao hơn. Thủ tướng Chính phủ có đủ quyền hạn để trở thành nhân tố định
hướng các mục tiêu chung và thúc đẩy, định hướng xây dựng chính sách và toàn bộ
hoạt động của Chính phủ và lãnh đạo hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương
tới cơ sở trong việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền theo quy định của pháp

luật.
Bốn là, Hiến pháp tăng cường vai trò, trách nhiệm cá nhân của Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ.
Hiến pháp thể hiện rõ vị trí, nhiệm vụ của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang
bộ với tư cách vừa là thành viên Chính phủ, vừa là người đứng đầu bộ máy hành
chính Nhà nước trong lĩnh vực phụ trách, lãnh đạo công tác của Bộ, cơ quan ngang
Bộ; chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực được phân công (khoản
1 Điều 99). Về nhiệm vụ, quyền hạn, Hiến pháp đã bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn
của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ: "tổ chức thi hành và theo dõi việc
25


×