Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

bài dự thi tìm hiểu hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.28 KB, 18 trang )







BÀI DỰ THI:
TÌM HIỂU HIẾN PHÁP NƯỚC CỘNG HÒA
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM










Họ tên: Hoàng Văn Thành
Ngày sinh: 20/05/1988
Giới tính: Nam
Dân tộc: Kinh
Địa chỉ: Khoa Kỹ thuật - Công nghệ,
Trường Đại học Quảng Bình














Quảng Bình, 12/2014





Câu 1:
Từ năm 1945 khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đến nay, nước ta có mấy bản Hiến pháp? Các bản
Hiến pháp đó được Quốc hội thông qua vào ngày, tháng, năm nào?
Trả lời:
Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là văn bản pháp luật có
giá trị cao nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Bản hiến pháp đang có hiệu
lực là bản của năm 2013, là bản Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 6 thông qua vào ngày vào
sáng ngày 28 tháng 11 năm 2013 với số phiếu thuận áp đảo.
Từ sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lịch sử Việt Nam ghi
nhận 5 bản Hiến pháp đã được ra đời. Đó là:
- Hiến pháp năm 1946: được thông qua ngày 9 tháng 11 năm 1946
- Hiến pháp năm 1959: được thông qua ngày 31 tháng 12 năm 1959
- Hiến pháp năm 1980: được thông qua ngày 18 tháng 12 năm 1980
- Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi vào năm 2001): được thông qua ngày 15
tháng 4 năm 1992

- Hiến pháp năm 2013 (được sửa đổi vào năm 2013): được thông qua vào ngày
28 tháng 11 năm 2013
Câu 2.
Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày, tháng, năm
nào? So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001) có bao nhiêu
điều được giữ nguyên? Có bao nhiêu điều được sửa đổi, bổ sung? Điều sửa đổi, bổ
sung nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?
Trả lời:
Bản Hiến pháp mới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 28/11/2013 (Hiến pháp năm 2013) có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2014. So với Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001), Hiến
pháp 2013 giữ nguyên 7 điều, bổ sung 12 điều mới và sửa đổi 101 điều.
Trong đó, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định 2 thiết chế mới là Hội đồng
bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ
chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ đạo và hướng dẫn bầu cử đại biểu HĐND các
cấp. Kiểm toán Nhà nước thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính, tài
sản công của đất nước.
Đây là điều bổ sung tôi tâm đắc nhất vì các thiết chế này sẽ khắc phục những hạn
chế trong công tác bầu cử thời gian qua; kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát việc quản lý
và sử dụng ngân sách Nhà nước, tài sản quốc gia. Đây được xem là công cụ quan
trọng để góp phần phát huy dân chủ, thực hiện nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân
Câu 3.
Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân…”. Bạn
hãy nêu và phân tích ngắn gọn các quy định của Hiến pháp năm 2013 về những cách
thức để Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Trả lời:
Hiến pháp năm 2013 thể hiện những nội dung mới quan trọng nhằm thể chế hóa

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011); quy định đầy đủ, rõ nét về chủ thể là Nhân dân trong Hiến
pháp, về quyền lực của Nhà nước thuộc về Nhân dân.
Thứ nhất, ngay Lời nói đầu Hiến pháp 2013 thể hiện: “ Nhân dân Việt Nam xây
dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” đã thể hiện rõ trách nhiệm của nhân dân trong việc xây dựng,
thi hành và bảo vệ Hiến pháp. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. 2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” đã thể
hiện nhất quán quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao quyền làm chủ của
nhân dân trong Hiến pháp là nhà nước của dân, do dân và vì dân, đồng thời thể hiện
đất nước Việt Nam là do chính nhân dân làm chủ, nhân dân là chủ thể quan trọng
trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 từ Nhân dân
được viết hoa, đây không phải đơn thuần là cách thể hiện từ ngữ mà là diễn đạt ý
nghĩa của một chủ thể quan trọng của đất nước theo tư tưởng của Bác Hồ. Người
viết:
“Nước ta là nước dân chủ,
Bao nhiêu lợi ích đều là vì dân,
Công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân,
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra,
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên,
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.
Chính vì lẽ đó mà từ Nhân dân được viết hoa là thể hiện đầy đủ và sâu sắc tư
tưởng của Bác Hồ về vai trò của Nhân dân.
Thứ hai, khoản 2 Điều 4 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt
Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân
dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”, đây là điểm
bổ sung mới quan trọng, vì vai trò làm chủ của Nhân dân đối với nước, Nhân dân

giao phó trách nhiệm cho Đảng để lãnh đạo Nhà nước và xã hội, vì vậy, Đảng phải
chịu sự giám sát và chịu trách nhiệm trước nhân dân trong việc lãnh đạo của mình.
Thứ ba, tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội
đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”, quy định đa dang hơn
về thực hiện quyền lực của Nhân dân so với Hiến pháp năm 1992, đặc biệt thể hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp đã làm rõ hơn, sâu sắc hơn vai trò làm
chủ của Nhân dân.
Thứ tư, lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 2003 ghi nhận quyền con người, quyền
cơ bản của công dân tại chương II, đặt trang trọng sau chương I quy định về chế độ
chính trị. Hiến pháp năm 2013 đã có những nhận thức mới về đề cao nhân tố con
người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển.
Điều 14 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa,
xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”.“Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của
luật, trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn
xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Đây là những nguyên tắc căn bản đề
cao trách nhiệm của Nhà nước trong mối quan hệ với quyền con người, quyền công
dân, là cơ sở hiến định để mọi người và công dân bảo vệ và thực hiện quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngoài việc thể hiện quyền làm chủ
của Nhân dân trong Hiến pháp, còn thể hiện các cam kết của Việt Nam trong việc
thực hiện các điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người mà Việt Nam là thành
viên.
Thứ năm, Điều 53 Hiến pháp năm 2013 thể hiện: “Đất đai, tài nguyên nước, tài
nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác
và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý” đã khẳng định quyền sở hữu
của Nhân dân và Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước đại diện Nhân dân để sở hữu và
thống nhất quản lý, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về việc quản lý tài sản do Nhân

dân ủy quyền.
Thứ sáu, Điều 65 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Lực lượng vũ trang nhân dân
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc
gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” thể hiện
trách nhiệm của lực lượng vũ trang là tuyệt đối trung thành với Nhân dân và trước
hết là phải bảo vệ Nhân dân là một chủ thể làm chủ đất nước, sau đó là bảo vệ Đảng,
Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, Điều 69 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam” đã nhấn mạnh vai trò của Nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về Nhân dân. Nhân dân
ủy thác thực hiện quyền lực cao nhất cho Quốc hội để thực hiện quyền lập hiến như
đề xuất sửa đổi Hiến pháp, thành lập Ủy ban dự thảo Hiến pháp, thảo luận và biểu
quyết thông qua Hiến pháp, khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết
tán thành; việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định
Quốc hội có trách nhiệm quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc
gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội
thành lập và bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm các chức danh đứng đầu các cơ quan này
nhằm đảm bảo sự vận hành và thực thi hoạt động quản lý nhà nước và quản lý xã
hội theo theo sự ủy quyền của Nhân dân cho Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất.
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện nhất quán tư tưởng của Bác Hồ, của Đảng về vị
trí, vai trò của Nhân dân trong lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ đất nước trải
qua mấy ngàn năm lịch sử. Tư tưởng lấy dân làm gốc của Bác Hồ đã được lịch sử
chứng minh qua các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, chính vì vậy, Hiến pháp năm
2013 là sự kết tinh và thể hiện tính đúng đắn về quyền làm chủ của Nhân dân đối
với đất nước, hướng đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân đã lựa chọn.

Câu 4.
Những quy định nào của Hiến pháp năm 2013 thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân
tộc?
Trả lời:
Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành đường
lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã và đang từng bước được hiện thực
hóa trong quá trình cách mạng. Chính vì thế, cùng với quá trình đấu tranh giành độc
lập dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam cũng được giải phóng, quyền bình đẳng giữa
các dân tộc được khẳng định; đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế của
các dân tộc thiểu số được từng bước nâng cao, an ninh chính trị và toàn vẹn lãnh thổ
được bảo đảm vững chắc. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận của cách mạng
Việt Nam trong hơn 68 năm qua.
Trong Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây và của nước
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, đều khẳng định các dân tộc thiểu
số có quyền bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Tinh thần đó tiếp tục được nhấn mạnh và làm rõ hơn trong Hiến pháp năm 2013.
Bên cạnh Điều 5 được xác định là định hướng cho công tác dân tộc, chính sách dân
tộc, lĩnh vực dân tộc, công tác dân tộc còn được quy định cụ thể trong các Điều 42,
58, 60, 61, 75 của Hiến pháp 2013, cụ thể:
* Về quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ của đồng bào dân tộc thiểu số
được quy định tại Điều 42 Hiến pháp: “Công dân có quyền xác định dân tộc của
mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”, đây là cơ sở pháp lý
để xây dựng bộ tiêu chí xác định và xác định lại thành phần dân tộc, trình cơ quan
có thẩm quyền phê duyệt
* Về lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có
điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn được khẳng định tại khoản 1 Điều 58 của
Hiến pháp:
“1. Nhà nước, xã hội đầu tư phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe của
Nhân dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân, có chính sách ưu tiên chăm sóc sức
khoẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều

kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn”.
Để thể chế hóa các quy định của Hiến pháp, Chính phủ đã ban hành kế hoạch sửa
đổi, bổ sung 82 luật, pháp lệnh liên quan, trong đó có sửa đổi Luật Bảo hiểm y tế,
Luật Chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Dân số.
* Về lĩnh vực văn hóa, Hiến pháp tiếp tục khẳng định tại khoản 1 Điều 60 nguyên
tắc: “1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
* Về lĩnh vực giáo dục, Hiến pháp quy định rõ hơn các chính sách ưu tiên:“2.
Nhà nước ưu tiên đầu tư và thu hút các nguồn đầu tư khác cho giáo dục; chăm lo
giáo dục mầm non; bảo đảm giáo dục tiểu học là bắt buộc, Nhà nước không thu học
phí; từng bước phổ cập giáo dục trung học; phát triển giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp; thực hiện chính sách học bổng, học phí hợp lý.
3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân
tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng,
phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn
hoá và học nghề.”
Từ quy định này của Hiến pháp, Quốc hội phải sửa đổi Luật Giáo dục, đặc biệt
là chính sách cử tuyển đối với sinh viên người dân tộc thiểu số, chế độ đãi ngộ đối
với giáo viên ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn…
* Về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng và Chủ tịch Hội đồng dân
tộc được làm rõ hơn, đề cao vai trò, trách nhiệm, quy định tại khoản 2, khoản Điều
75 Hiến pháp:
“2. Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội về công tác dân tộc;
thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
3. Chủ tịch Hội đồng dân tộc được mời tham dự phiên họp của Chính phủ bàn về
việc thực hiện chính sách dân tộc. Khi ban hành quy định thực hiện chính sách dân
tộc, Chính phủ phải lấy ý kiến của Hội đồng dân tộc.”
Câu 5.

Những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 so với Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi,
bổ sung năm 2001) về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân?
Điểm mới nào bạn tâm đắc nhất? Vì sao?
Trả lời:
Hiến pháp năm 2013 đã quy định bao quát hầu hết các quyền cơ bản về chính trị,
dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Nếu như Hiến pháp năm 1992 quy
định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được tại chương V thì ở Hiến pháp năm
2013, chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là chương
II, chỉ xếp sau chương về chế độ chính trị. Đây không phải là sự ngẫu nhiên hoặc cơ
học mà đây là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con người trong
Hiến pháp. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân và
trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền
công dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Về tên chương cũng có sự thay đổi, nếu như ở Hiến pháp năm 1992 là “Quyền
và nghĩa vụ cơ bản công dân”, đến Hiến pháp năm 2013 chương này có tên là “Quyền
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân”. Qua đó để khẳng định quyền con
người được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo Công ước quốc
tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Tại Điều 14 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội,
sức khỏe của cộng đồng”. So với Hiến pháp năm 1992 thì Hiến pháp năm 2013 quy
định rõ quyền con người, quyền công dân chỉ sẽ hạn chế trong một số trường hợp
nhất định, tránh tình trạng xâm phạm quyền con người, quyền công dân.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 thay cụm từ “mọi công dân”
thành “mọi người”, cụ thể tại Điều 16 quy định “Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội”. Bổ sung thêm quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con

người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật” tại
Điều 19 Hiến pháp sửa đổi năm 2013.
Tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền hiến
mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y
học, dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người
phải có sự đồng ý của người được thử nghiệm”, đây là điểm mới so với Hiến pháp
năm 1992, thể hiện được quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của mọi
người để chữa bệnh cho người thân, cũng như đề cao vai trò của bộ phận cơ thể
người phục vụ cho việc nghiên cứu, chữa bệnh trong y học hiện nay.
Về quyền tự do kinh doanh: Tại Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân
có quyền tự do kinh doanh” thì tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi
người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”
đã mở rộng hơn về đối tượng được kinh doanh và ngành nghề được kinh doanh tạo
điều kiện mọi người tự do kinh doanh làm giàu chính đáng, tạo động lực phát triển
kinh tế - xã hội.
Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể và bổ sung
đầy đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 như gộp các điều 65, 66, 67 và bổ sung thêm
một số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53 Hiến pháp năm
1992 quy định về công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân thành
Điều 29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu
quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”…
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo hướng
ghi nhận mọi người có quyền, công dân có quyền và quyền con người là quyền tự
nhiên, bất cứ ai cũng cũng có quyền đó; quyền công dân là quyền của người có quốc
tịch Việt Nam… Để mọi người, công dân thực hiện quyền của mình thì Hiến pháp
năm 2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành văn bản pháp luật
để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ các quyền
của mình.
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản

của công dân là sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến
pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của
Đảng và nhà nước ta về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động lực quan
trọng của sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm
hướng đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong đó, điều thay đổi tôi tâm đắc nhất là thay đổi về quyền tự do kinh doanh.
Bởi vì sự thay đổi này thể hiện sự chuyển biến trong tư duy làm luật của chúng ta,
đó là không giới hạn những điều mà người dân được phép làm ở trong hiến pháp,
luật và các văn bản dưới luật, mà chỉ quy định những điều mà người dân không được
phép làm, ngoài những điều đã bị cấm, người dân hoàn toàn có thể tự do làm những
việc mà mình thích. Việc này giúp cho người dân có được sự tự do lớn hơn đối với
trách nhiệm của mình trước pháp luật.
Câu 6.
Những điểm mới, quan trọng về vị trí, chức năng của Quốc hội, Chính phủ, Tòa
án nhân dân trong Hiến pháp năm 2013. Phân tích điểm mới về mối quan hệ giữa
các cơ quan đó trong thực hiện quyền lực Nhà nước?
Trả lời:
- Về Quốc hội
Trên cơ sở sửa đổi, bổ sung Điều 83 Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 tiếp tục
khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực
nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát
tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hiến pháp 2013 đã sửa đổi quy định về
nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội quyết định “mục tiêu, chỉ tiêu,
chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” (Khoản 3, Điều
70). Quy định như vậy rõ ràng, khả thi, phù hợp hơn với điều kiện phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN của đất nước và xác định rõ hơn quyền quyết
định của Quốc hội với quyền quản lý, điều hành của Chính phủ.
Thứ hai, Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội “quyết định chính sách cơ bản về tài

chính, tiền tệ quốc gia”, đồng thời bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc
“quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ” (Khoản 4,
Điều 70).
Thứ ba, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm,
miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Khoản 7, Điều 70).
Thứ tư, bổ sung thẩm quyền của Quốc hội trong việc giám sát, quy định tổ chức
và hoạt động, quyết định nhân sự đối với Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà
nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập (Khoản 2, 6, 7, 9, Điều 70).
Thứ năm, bổ sung quy định về việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn (Khoản 8, Điều 70).
Thứ sáu, sửa đổi quy định về thẩm quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc
tế, theo đó, Quốc hội có thẩm quyền phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt
hiệu lực của các điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền
quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức
quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và
nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết
của Quốc hội (Khoản 14, Điều 70).
Thứ bảy, quy định trong Hiến pháp thẩm quyền của Quốc hội trong việc thành
lập Ủy ban lâm thời để nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra về một vấn đề
nhất định (Điều 78) được quy định tại Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Luật
Tổ chức Quốc hội.
Ngoài ra, Hiến pháp 2013 đã bổ sung một số thẩm quyền của Ủy ban thường vụ
Quốc hội với vị trí là cơ quan thường trực, hoạt động thường xuyên của Quốc hội
như thẩm quyền trong việc quyết định việc điều chỉnh địa giới các đơn vị hành chính
dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Khoản 8, Điều 74); thẩm quyền đề nghị
Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy bản của
Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước (Khoản 6,
Điều 74); thầm quyền phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh
toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Khoản 12, Điều 74).

- Về Chính phủ
Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành
pháp, khẳng định vị trí của Chính phủ trong tổ chức bộ máy nhà nước, bảo đảm tính
độc lập tương đối của Chính phủ, tạo cơ sở phát huy hơn nữa tính chủ động, sáng
tạo của Chính phủ trong hoạch định, điều hành chính sách quốc gia và tổ chức thực
thi pháp luật. Có thể nêu một số điểm mới cơ bản trong các quy định về Chính phủ
như sau:
Một là, Hiến pháp 2013 đã sửa đổi, bổ sung và sắp xếp lại nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ cho phù hợp với vị trí, chức năng của Chính phủ trên cơ sở kế thừa
các quy định tại Hiến pháp 1992. Hiến pháp 2013 đã bổ sung thẩm quyền của Chính
phủ trong việc đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc
hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
quy định tại Điều 96 (Khoản 2, Điều 96). Ngoài ra, Hiến pháp 2013 cũng phân định
rõ thẩm quyền của Chính phủ trong việc tổ chức đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân
danh Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước; quyết định việc ký, gia nhập, phê
duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ điều ước
quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại Khoản 14 Điều 70 (Khoản 7, Điều
96).
Thứ hai, Hiến pháp 2013 đã điều chỉnh và cơ cấu lại quy định về nhiệm vụ và
quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ để làm rõ hơn thẩm quyền định hướng, điều
hành hoạt động của Chính phủ; bổ sung thẩm quyền quyết định và chỉ đạo việc đàm
phán, chỉ đạo việc ký, gia nhập điều ước quốc tế thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của
Chính phủ, tổ chức thực hiện điều ước quốc tế và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên (Khoản 5, Điều 98).
Thứ ba, để làm rõ trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Hiến pháp 2013 quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “chịu trách
nhiệm cá nhân trước Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ và Quốc hội về ngành và lĩnh
vực được phân công phụ trách, cùng các thành viên khác của Chính phủ chịu trách
nhiệm tập thể về hoạt động của Chính phủ” (Khoản 4, Điều 95). Ngoài ra, nhằm tăng
cường trách nhiệm của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Hiến pháp bổ sung

quy định Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ “thực hiện chế độ báo cáo trước
Nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng về những vấn đề quan trọng
thuộc thẩm quyền giải quyết của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ” (Khoản 2,
Điều 99).
- Về Tòa án nhân dân
Hiến pháp 2013 đã bổ sung quy định Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp
(Khoản 1, Điều 102), đồng thời sửa đổi quy định về nhiệm vụ của Tòa án nhân dân,
theo đó, Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân (Khoản 3, Điều 102). Bên cạnh đó, Hiến
pháp 2013 không xác định cụ thể các cấp Tòa án như Hiến pháp 1992 mà để Luật
quy định.
Về nguyên tắc hoạt động của Tòa án, theo yêu cầu cải cách tư pháp, Hiến pháp
2013 đã bổ sung nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm và chế độ xét xử
sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (Khoản 5, 6, Điều 103).
Câu 7.
Cấp chính quyền địa phương quy định trong Hiến pháp năm 2013 gồm những cơ
quan nào? Bạn hãy nêu nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa
phương đối với Nhân dân.
Trả lời:
Nhằm đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước trong thời kỳ mới, Hiến pháp 2013 đã quy định một cách khái quát và
nguyên tắc về mô hình chính quyền địa phương làm cơ sở Hiến định để Luật Tổ
chức chính quyền địa phương sau này cụ thể hóa. Hiến pháp 2013 quy định những
vấn đề có tính nguyên tắc về phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương
và giữa các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương, đồng thời phát huy quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương, cụ thể như sau:
Một là, về đơn vị hành chính, Hiến pháp 2013 bổ sung quy định về đơn vị hành
chính – kinh tế đặc biệt và đơn vị hành chính tương đương với quận, huyện, thị xã

thuộc thành phố trực thuộc trung ương, theo đó, “nước chia thành tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành
phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương
đương; huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành
phường và xã; quận chia thành phường. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do
Quốc hội thành lập” (Khoản 1, Điều 110). Ngoài ra, Hiến pháp bổ sung quy định
“Việc thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính phải lấy ý kiến
nhân dân địa phương và theo trình tự, thủ tục do luật định” (Khoản 2, Điều 110).
Hai là, về tổ chức chính quyền địa phương, Hiến pháp 2013 quy định khái quát
theo hướng việc tổ chức Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cụ thể ở từng đơn vị
hành chính sẽ được quy định tại văn bản Luật; việc tổ chức chính quyền địa phương
cần phù hợp với đặc điểm nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính – kinh tế đặc
biệt (Khoản 2, Điều 111).
Ba là, về nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, Hiến pháp 2013 quy
định “chính quyền địa phương tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp
luật tại địa phương; quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; chịu sự kiểm
tra, giám sát của cơ quan nhà nước cấp trên”, và “nhiệm vụ, quyền hạn của chính
quyền địa phương được xác định trên cơ sở phân định thẩm quyền giữa các cơ quan
nhà nước ở trung ương và địa phương và của mỗi cấp chính quyền địa phương”
(Khoản 1, 2, Điều 112).
Câu 8.
Hiến pháp năm 2013 quy định như thế nào về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội,
đại biểu Hội đồng nhân dân đối với cử tri và Nhân dân?
Trả lời:
Quyền hạn và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội đối với cử tri và Nhân dân được
Hiến pháp năm 2013 quy định như sau:
1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở
đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước.
2. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu
thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ

quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động
của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn
đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo.
3. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và
pháp luật.
4. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán
nhà nước.
5. Người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy
ban thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp
cần thiết, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản.
6. Đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông
tin, tài liệu liên quan đến nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó. Người đứng
đầu cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có trách nhiệm trả lời những vấn đề mà đại biểu
Quốc hội yêu cầu trong thời hạn luật định.
7. Đại biểu Quốc hội có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu, có quyền
tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc hội.
8. Ủy ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác của Nhà nước có trách
nhiệm tạo điều kiện để đại biểu Quốc hội làm nhiệm vụ đại biểu.
9. Nhà nước bảo đảm kinh phí hoạt động của đại biểu Quốc hội.
10. Không được bắt, giam, giữ, khởi tố đại biểu Quốc hội nếu không có sự đồng
ý của Quốc hội hoặc trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của
Ủy ban thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đại biểu Quốc hội phạm tội quả tang
mà bị tạm giữ thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban
thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Câu 9.
“…Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục

tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (trích Lời nói đầu Hiến
pháp năm 2013)
Theo bạn, Nhà nước và mỗi người dân có trách nhiệm làm gì và làm như thế
nào để thi hành và bảo vệ Hiến pháp?
Trả lời:
Theo quy định tại Điều 8, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, ngày 9/11 hằng
năm là Ngày Pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Việc Quốc hội lựa chọn ngày 9/11 là Ngày Pháp luật vì vào ngày này cách
đây 67 năm, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua bản Hiến
pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp năm 1946. Đây là một sự kiện chính trị-pháp
lý có ý nghĩa đặc biệt, là dấu mốc quan trọng mở đầu con đường phát triển mới
không chỉ của lịch sử lập hiến mà của cả dân tộc ta.
Chính vì vậy, ý nghĩa của Ngày Pháp luật trước hết là nhằm thể hiện tinh thần
tôn vinh các giá trị, vai trò đặc biệt quan trọng của Hiến pháp, pháp luật trong cuộc
sống của mỗi con người và trong sự phát triển của quốc gia, sự hưng thịnh của dân
tộc, đồng thời qua đó làm cho tinh thần thượng tôn pháp luật thực sự thấm sâu vào
ý thức, hành vi, hoạt động của mọi người dân, mọi cơ quan, tổ chức và toàn xã hội.
Ngày Pháp luật ra đời được coi là một dấu ấn, điểm nhấn quan trọng trong
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của
nhân dân.
Đây sẽ là một trong những chế định quan trọng đặt tiền đề cho việc đổi mới
tổ chức thực hiện công tác phổ biến giáo dục pháp luật, là một cách làm hay để góp
phần thay đổi nhận thức, thái độ của cơ quan Nhà nước đối với nhân dân, hướng tới
xây dựng hình ảnh một Nhà nước gần dân, vì dân, phục vụ nhân dân. Đồng thời,
cũng nhắc nhở, đề cao quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của cá nhân công dân
trong học tập, tìm hiểu pháp luật. Điều này được coi là một trong những tiến bộ về
tư duy rất quan trọng được thể chế hóa trong Luật PBGDPL nói chung cũng như quy
định về Ngày Pháp luật nói riêng.
Nhìn rộng ra, trên thế giới, hiện có khoảng 40 quốc gia tổ chức "Ngày Pháp

luật" hay “Ngày Hiến pháp” như một ngày hội hằng năm để kỷ niệm ngày ký, ban
hành Hiến pháp của nước mình.
Ở nước ta, vì có nhiều đối tượng thụ hưởng nên “Ngày Pháp luật” sẽ mang
nhiều sắc thái khác nhau. Nhưng dù được tổ chức dưới hình thức, quy mô nào thì
Ngày Pháp luật đều sẽ hướng tới đề cao giá trị của Hiến pháp, pháp luật trong Nhà
nước pháp quyền, đồng thời, phê phán, loại bỏ các hành vi vi phạm pháp luật, nhằm
thiết lập kỷ cương văn minh của xã hội ngay từ trong nếp nghĩ, cách sống của mỗi
công dân, mỗi gia đình trong thời kỳ CNH-HĐH đất nước.
Với việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các nội dung của Hiến pháp, Nhà
nước và nhân dân sẽ phải bắt tay vào công việc rất lớn, đồ sộ và khó để cụ thể hóa
một cách đúng đắn, đầy đủ các quy định của Hiến pháp thành các đạo luật.
Trước hết là các luật về tổ chức bộ máy Nhà nước Trung ương và địa phương,
cũng như các luật nhằm thực thi nguyên tắc tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ các quyền
con người, quyền cơ bản của công dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước đòi hỏi của quá trình phát triển kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,
Chính phủ nhận thức ngày càng rõ hơn yêu cầu chuyển hướng chiến lược từ trọng
tâm xây dựng pháp luật sang hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, nâng
cao hơn nữa hiệu quả thi hành pháp luật. Chính phủ coi đây là một trong những vấn
đề cấp bách hiện nay.
Chính vì vậy, từ góc độ Nhà nước, như tôi đã nêu trên, Ngày Pháp luật được
tổ chức một mặt nhằm tạo bước phát triển mới trong việc nâng cao hiệu quả tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, vốn được coi là một bộ phận của công tác giáo
dục chính trị tư tưởng; mặt khác, Ngày Pháp luật còn có tác dụng nhắc nhở nhân dân
tôn trọng, nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật, thực hành tự giác: “Sống và làm việc
theo Hiến pháp và pháp luật”.
Đối với công chức, viên chức Nhà nước, Ngày Pháp luật là cơ hội để mỗi
người tự soi mình, suy ngẫm để tự điều chỉnh ý thức và thái độ hành xử trong quan
hệ với nhân dân sao cho xứng đáng với sự chờ đợi và đòi hỏi của người dân, của xã
hội về một Nhà nước gần dân, vì dân và về một đội ngũ công chức “phụng công thủ

pháp”.
Như vậy, bên cạnh mục tiêu trước mắt là tuyên truyền, phổ biến pháp luật,
Ngày Pháp luật còn đóng vai trò tích cực trong việc nâng cao hiệu quả thi hành pháp
luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, công bằng, thống nhất, phòng
chống tội phạm, tham nhũng. Qua đó, xây dựng nền hành chính trong sạch, tăng
cường thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động hành chính.
Sâu xa hơn, ở một chừng mực nào đó, Ngày Pháp luật còn góp phần đề cao
giá trị con người, xây dựng nhân cách; đề cao ý thức làm chủ, tôn trọng kỷ luật, tự
do trong khuôn khổ pháp luật; ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, ý chí vươn
lên vì tương lai của mỗi người và tiền đồ của đất nước.
Chính vì vậy, có thể khẳng định rằng Ngày Pháp luật có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật và nâng cao nhận thức của người dân:
“Tinh thần thượng tôn pháp luật phải thể hiện suốt 365 ngày trong năm”
Để Ngày Pháp luật thật sự hiệu quả, có ý nghĩa thiết thực, để lại dấu ấn tích
cực và được nhân dân ghi nhận, việc hành động theo tinh thần thượng tôn pháp luật
không chỉ thực hiện trong ngày 9/11 mà còn trong cả 365 ngày trong năm của mỗi
cơ quan, tổ chức. Và tôi tin rằng, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, Ngày
Pháp luật hằng năm sẽ thật sự trở thành ngày tôn vinh Hiến pháp và pháp luật, ngày
hội của toàn dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.

×