Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích nguyên tắc xây dựng chương trình SGK Tiếng Việt Chủ điểm Cha Mẹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.63 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

TÊN ĐỀ TÀI:
NÊU VÀ PHÂN TÍCH NHỮNG NGUYÊN TẮC
XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TRONG CHỦ
ĐIỂM “CHA MẸ” (TIẾNG VIỆT 2/ TẬP 1)

TIỂU LUẬN GIỮA HỌC PHẦN
MÔN: Lí luận dạy học Tiếng Việt I

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6/ 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

TÊN ĐỀ TÀI
NÊU VÀ PHÂN TÍCH NHỮNG NGUYÊN TẮC XÂY
DỰNG CHƯƠNG TRÌNH TRONG CHỦ ĐIỂM
“CHA MẸ” (TIẾNG VIỆT 2/ TẬP 1)
Học phần: Lí luận dạy học Tiếng Việt I
Lớp: tiết 7 – 10, thứ 2

THÀNH VIÊN NHÓM:
Họ và tên:
1/ Nguyễn Ngọc Diệu Hiền

MSSV: 41.01.901.052



2/ Đặng Thị Hường

MSSV: 41.01.901.066

3/ Ngô Kim Lộc

MSSV: 41.01.901.091

4/ Phan Thị Quỳnh Như

MSSV: 41.01.901.129
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
Nguyễn Lương Hải Như

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6/ 2017
2


I/ Nguyên tắc quán triệt mục tiêu dạy học của bộ môn Tiếng Việt:
1/ Mục tiêu chung nhất của bộ môn Tiếng Việt là hình thành năng lực sử dụng
ngôn ngữ (năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt).
Hình thành thái độ, tình cảm của học sinh thông qua những hành vi cụ thể và liên hệ
hành vi cụ thể trực tiếp với chính cha mẹ của mình.
Trong SGK, với phân môn Tập Làm Văn trang 110 có yêu cầu kể về gia đình HS thì
có liên hệ với chính gia đình của trẻ. Nhưng với các phân môn khác, ví dụ như bài tập
đọc“Mẹ” trang 101chỉ dừng lại ở mức tìm hiểu ngữ liệu bài thơ chứ HS không có những
hành vi cụ thể và liên hệ cuộc sống của trẻ. đề xuất khi dạy bài “Mẹ”: GV có thể đặt thêm
các câu hỏi cho HS suy nghĩ như: Người mẹ trong bài thơ làm gì để cho người con ngủ ngon
giấc? Còn mẹ của em có làm giống như vậy không? Hay mẹ của em làm gì để em ngủ ngon

giấc?...
a/ Hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe,
viết, đọc, nói) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy.
- Kĩ năng nghe:
+ Nghe hiểu: Nghe và trả lời câu hỏi về những mẩu chuyện có nội dung đơn
giản gần gũi với lứa tuổi (kết hợp nhìn hình minh họa).
VD: Bài “Sự tích cây vú sữa” trang 96 có nội dung đơn giản, gần gũi với trẻ,
giúp trẻ biết được nguồn gốc cổ tích của trái vú sữa đồng thời đó là tình yêu thương
sâu nặng của người mẹ đối với con. HS được nghe GV đọc mẫu, nắm được sơ lược
nội dung toàn bài và có thể trả lời được các câu hỏi. Nội dung này SGK thực hiện tốt.
+ Nghe – viết: Nghe – viết được bài chính tả một đoạn văn, đoạn thơ hoặc bài
thơ có độ dài khoảng 50 chữ trong khoảng 15 phút.
VD: Bài (1) chính tả trang 97, HS nghe GV đọc rồi viết lại một đoạn văn trong
bài Sự tích cây vú sữa với 54 chữ. Về việc HS viết đúng tốc độ, là do cách thức tổ
chức của người GV. SGK chỉ cung cấp ngữ liệu.
Còn ở bài “Qùa của bố” đòi hỏi học sinh khi nghe phải phân biệt và viết đúng
chính tả các từ có chứa thanh hỏi hay thanh ngã.
- Kĩ năng viết:
+ Viết chữ: Biết viết chữ hoa cỡ vừa, biết nối chữ cái viết hoa với chữ cái viết
thường. Viết chữ thường tương đối thành thạo.
VD: Qua bài tập viết trang 108, HS viết được chữ hoa L cỡ chữ vừa (về độ
cao, chiều rộng, số lượng nét, cỡ chữ). Thông qua bài tập vận dụng, HS biết được
cách nối giữa chữ viết hoa với chữ viết thường. Nhưng về HS có viết thành thạo hay
không là do sự nỗ lực rèn luyện thêm của học sinh (vì hầu hết các bài tập viết trong
3


vở tập viết không có thời gian học trên lớp nên HS phải hoàn thành ở nhà) chứ không
phải do SGK.

+ Viết chính tả: Viết đúng tất cả từ.
VD: Bài chính tả trang 102, giúp HS phân biệt được các vần iê/yê/ya, phụ âm
đầu r/gi, thanh hỏi, thanh ngã. Bài chính tả tập chép “Bông hoa Niềm Vui” giúp HS
biết viết hoa chữ cái mở đầu câu, viết hoa tên người (Chi). Nội dung này SGK thực
hiện tốt.
+ Viết đoạn văn, văn bản: Viết đoạn văn kể, tả đơn giản có độ dài khoảng 3 – 5
câu bằng cách trả lời câu hỏi.
VD: BT2 Tập làm văn trang 110 giúp HS biết viết được một đoạn văn từ 3 đến
5 câu kể về gia đình của mình bằng cách trả lời câu hỏi ở BT1. Trong tiết tập làm văn
này gồm hai hoạt động, giúp HS phối hợp được nhiều kĩ năng. Nội dung này SGK
thực hiện tốt.
- Kĩ năng đọc:
+ Đọc thông: đọc đúng, liền mạch các từ, cụm từ trong câu; đọc trơn đoạn, bài
đơn giản (khoảng 120 -150 chữ), tốc độ khoảng 50 – 60 chữ/phút; biết nghỉ hơi ở chỗ
có dấu câu.
VD: Bài tập đọc Bông hoa Niềm Vui trang 104, mặc dù mục tiêu đưa ra là 120
– 150 từ nhưng bài này lại dài hơn 200 từ, gây trở ngại cho HS khi đọc. SGK cần
chọn lọc lại các ngữ liệu có độ dài phù hợp với trẻ hơn.
+ Bước đầu biết đọc thầm, đọc lướt để nắm thông tin. VD: bài Tập làm văn
trang 103, HS có thể đọc lướt văn bản “Gọi điện” nắm thông tin rồi trả lời câu hỏi
bên dưới. Nội dung này SGK thực hiện tốt.
+ Đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, màn kịch ngắn. Trong chủ điểm Cha Mẹ
không có bài tập để trẻ đọc diễn cảm  đề xuất: Khi dạy bài “Mẹ” bổ sung câu hỏi
tìm hiểu bài: Đọc lại bài thơ trên với giọng nhẹ nhàng, tình cảm.
+ Đọc – hiểu: Hiểu nội dung của đoạn văn, đoạn thơ, bài văn, bài thơ và một
số văn bản thông thường đã học.
VD: bài tập đọc “Há miệng chờ sung” trang 109, HS có hiểu được văn bản thì
mới trả lời được câu hỏi số 4 “Câu nói của anh chàng lười có gì đáng buồn cười?”
Bài thơ “Mẹ” trang 101 giúp HS hiểu được tình cảm yêu thương của mẹ dành
cho con. Cuối bài có giải thích cho HS một số từ khó như nắng noi, giấc tròn. Nhưng

có thể hình ảnh so sánh “mẹ là ngọn gió của con suốt đời” HS khó có thể hiểu được.
.+Ứng dụng kĩ năng đọc: Thuộc lòng đoạn văn, đoạn thơ, bài thơ (khoảng 40 –
50 chữ)
VD: bài thơ Mẹ trang 101 có yêu cầu HS học thuộc lòng bài thơ, nhưng bài
thơ này đến 70 chữ. Độ dài ngữ liệu cần phải rút ngắn lại để phù hợp với chương
trình đã đề ra.
4


- Kĩ năng nói:
+ Chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, mời , nhờ, đề nghị, tự giới thiệu, đáp lời cảm ơn,
xin lỗi, lời mời,…trong các tình huống giao tiếp ở trường học, gia đình, nơi công
cộng.
Trong SGK chủ điểm Cha Mẹ không có thực hành nói về tình huống giao tiếp
 đề xuất: khi dạy Tập làm văn bài tập 2 trang 103, có thể cho HS đóng vai: một bạn
là người gọi điện, một bạn sẽ đồng ý, một bạn khác sẽ từ chối.
+ Trả lời và đặt câu hỏi đơn giản
Trong SGK chủ điểm Cha Mẹ chỉ có một vế trả lời chứ không có vế đặt câu
hỏi. VD: Tập làm văn bài 1 trang 110 yêu cầu HS kể về gia đình mình theo các câu
hỏi gợi ý như: Gia đình em gồm mấy người? Đó là những ai?,… đề xuất: cho hai
HS đóng vai: 1 người là phóng viên (hỏi), 1 người là người được phỏng vấn (trả lời).
.+ Kể một mẩu chuyện hoặc một đoạn của câu chuyện được nghe.
VD: bài tập 1 tiết Kể chuyện trang 97 yêu cầu HS kể lại đoạn 1 câu chuyện Sự
tích cây vú sữa” bằng lời văn của em. Bài tập đọc “Bông hoa Niềm Vui” giúp HS biết
nhận xét đơn giản về nhân vật thông qua câu 4 tìm hiểu bài: Theo em, bạn Chi có
những đức tính gì đáng quý?”. Nội dung này SGK thực hiện tốt.
+ Nói lời giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, bạn bè, trường lớp theo gợi
ý.
VD: bài tập 1 tiết Luyện từ và câu trang 108 yêu cầu HS kể tên những việc em
đã làm ở nhà giúp cha mẹ. Nội dung này SGK thực hiện tốt.

Tuy nhiên ở chủ điểm này, kỹ năng nói chưa được phát huy triệt để. Nội dung
nói chỉ xoay quanh nội dung bài tập đọc thông qua tiết kể chuyện chứ chưa liên hệ tới
đời sống cá nhân của học sinh nhiều.
*Phát triển thao tác tư duy:
VD: Tiết kể chuyện trang 105
BT1: Kể lại đoạn mở đầu câu chuyện bằng hai cách. HS chỉ việc nhìn sách rồi kể lại
(mức độ Nhận biết theo thang Bloom).
BT2: Nhìn tranh, kể lại câu chuyện (đoạn 2,3) bằng lời văn của em. HS kết nối các
chi tiết, sự kiện lại với nhau và dựa vào tranh để kể lại (mức độ Phân tích, tổng hợp
theo thang Bloom).
BT3: Kể lại đoạn cuối câu chuyện có lời cảm ơn của bố Chi do các em tưởng tượng
ra. HS dựa vào những điều mình đã biết để sáng tạo ra đoạn cuối của câu chuyện
(mức độ Sáng tạo theo thang Bloom).
 SGK có thể hiện mức độ từ dễ đến khó, phù hợp lứa tuổi của trẻ. Nhưng có một số
bài VD: Bài tập đọc “Quà của bố” trang 106. Hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài chỉ dừng
lại ở mức độ ở nhớ/nhận biết. HS chỉ cần gạch chân ngữ liệu trong sách là trả lời
được (Quà của bố đi câu về có những gì, đi cắt tóc về có những gì? Những từ nào,
5


câu nào cho thấy các con rất thích những món quà của bố?). Ở phân môn Tập đọc,
SGK cần thiết kế lại hệ thống câu hỏi để phát triển tư duy của trẻ.
b/ Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt; về tự nhiên, xã hội
và con người; về văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngoài.
- Cho học sinh tiếp xúc, tìm hiểu về các thể loại văn học Việt Nam:
Chủ điểm Cha Mẹ có các bài tập đọc đa dạng về thể loại như cổ tích (Sự tích
cây vú sữa), văn xuôi (Điện thoại, Bông hoa Niềm Vui, Quà của bố), thơ (Mẹ),
Truyện cười (Há miệng chờ sung)  tích hợp nhiều kiến thức cho trẻ con .
 Nội dung Sgk đã cung cấp cho học sinh những ngữ liệu đọc đa dạng về các thể loại
văn học để các em tìm hiểu, học tập: truyện cổ tích, truyện cười, thơ (thơ lục bát), văn

xuôi.
- Có sự liên kết vê nội dung của các đơn vị chủ điểm với phân môn: tập đọc, luyện từ
và câu, tập làm văn, chính tả, kể chuyện trong từng chủ điểm cụ thể.
Nội dung của bài học của chủ điểm Cha Mẹ có đảm bảo kiến thức được đề ra trong
chương trình cấp tiểu học. Hầu hết các bài đều có liên quan đến chủ điểm (trừ bài tập
đọc Há miệng chờ sung).
Ở tiết luyện từ và câu: học sinh được mở rông vốn từ thể hiện tình cảm giữa
các thành viên trong gia đình, được kể về những việc làm giúp đỡ cha mẹ.
Thái độ: Thể hiện qua việc hình thành những suy nghĩ trong trẻ về việc thực
hiện những hành động đẹp, việc làm đúng, nói lời hay, thể hiện tình cảm với người
thân trong gia đình.
Câu hỏi bài tập đọc Sự tích cây vú sữa trang 97 câu 4 (Theo em, nếu được gặp
lại mẹ, cậu bé sẽ nói gì?) đã cho trẻ cơ hội thể hiện ít nhiều những suy nghĩ, nhìn
nhận về vấn đề của mình.  Từ đó dẫn đến đề xuất: Trong hoạt động củng cố bài học,
giáo viên hãy liên hệ nội dung sgk thành các hoạt động liên quan đến từng đứa trẻ để
các em được thoải mái thể hiện suy nghĩ của bản thân. Việc làm này góp phần khiến
giáo viên hiểu rõ hơn học sinh của mình, phát hiện ra điểm mạnh, điểm yếu kém
trong sự trình bày của học sinh, giúp các em cải thiện khả năng nói của mình.
- Ngữ âm và chữ viết:
+ Biết mẫu chữ cái viết hoa: K, L
+ Biết quy tắc viết hoa chữ đầu câu và viết hoa tên riêng Việt Nam. VD: Tập
chép bài Bông hoa Niềm Vui, HS biết viết hoa đầu câu, viết hoa tên riêng (Chi). 
Nội dung này SGK thực hiện tốt.
- Từ vựng:
+ Biết các từ ngữ chỉ một sự vật, hoạt động, tính chất thông thường; các số
đếm tự nhiên dưới 1000; một số thành ngữ, tục ngữ dễ hiểu.

6



VD: Qua bài tập đọc “Sự tích cây vú sữa” HS biết các từ chỉ hoạt động, tính
chất như vùng vằng, la cà,…Bài tập viết trang 108, giúp HS hiểu nghĩa câu tục ngữ
đơn giản: Lá lành đùm lá rách. Nội dung này SGK thực hiện tốt.
+ Bước đầu nhận biết các từ có quan hệ đồng nghĩa, trái nghĩa
VD: bài tập 1 Luyện từ và câu trang 99, HS sẽ biết yêu mến gần nghĩa yêu
mến, yêu quý, yêu kính,…Nhưng từ có quan hệ trái nghĩa chưa đề cập trong chủ
điểm này. SGK cần bổ sung thêm nội dung này.
- Ngữ pháp:
+ Bước đầu nhận biết các từ ngữ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm, tính chất.
VD: bài tập 1 Luyện từ và câu trang 99, giúp HS mở rộng vốn từ về tình cảm
như: yêu mến, quý mến,…Nội dung này SGK thực hiện tốt.
+ Nhận biết câu trong đoạn; nhận biết kiểu câu kể, câu hỏi.
VD: bài Điện thoại trang 98, HS biết được các câu kể như: “Mấy tuần nay, mẹ
mệt. Nhưng Tường không muốn làm bố lo.”Các câu hỏi như: “Bố thế nào ạ? Bao giờ
bố về?”. Nội dung này SGK thực hiện tốt.
+ Bước đầu biết cách dùng dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy.
VD: bài tập 4 trang 100 yêu cầu HS đặt dấu phẩy vào câu văn đã lược bỏ dấu
câu. Nội dung này SGK có thực hiện.
c/ Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa cho học sinh.
VD: Qua các tiết Chính tả giúp HS viết đúng chính tả, ngôn ngữ trong sáng.
Qua các tiết Luyện từ và câu giúp HS mở rộng vốn từ, làm giàu đẹp tiếng Việt.
Qua các tiết tập đọc góp phần hình thành nhân cách của trẻ, bồi dưỡng thêm tình yêu
tiếng Việt ở trẻ.
 Nội dung này SGK thể hiện tốt.
2/ Nhận thức về mối liên hệ tương hỗ, gắn bó với nhau giữa các phần học, giữa các
hoạt động ngôn ngữ trong việc thực hiện mục tiêu chung của bộ môn Tiếng Việt  năng lực
sử dụng ngôn ngữ.
* Trong SGK bài Luyện từ và câu trang 99.

BT1: Ghép các tiếng đã cho thành những từ có hai tiếng  hệ thống hóa lại vốn từ về
tình cảm.
BT2: Chọn từ rồi điền vào chỗ trống  giúp học sinh hiểu và sử dụng tốt các từ ngữ.
BT3: Nhìn tranh và miêu tả hoạt động của mẹ và con  giúp học sinh vận dụng tất cả
những gì mình biết để sử dụng tốt ngôn ngữ của mình.
BT4: Đặt dấu phẩy  giúp học sinh viết đúng cấu trúc ngữ pháp, ngừng nghỉ hợp lý.
7


 Bài tập 1,2,3 có tính tương hỗ. Còn bài tập 4 không có tính tương hỗ, không liên quan
gì đến 3 bài tập phía trên. Về “dấu phẩy, HS đã được học ở tuần 8 nhưng sang đến tuần 12
mới được ôn lại. Do SGK “nhảy cóc” nên học sinh sẽ mau quên và không biết  không có
tính tương hỗ, hỗ trợ với nhau. Cần cho học sinh ôn lại vào tuần tiếp theo sau khi học để học
sinh nhớ lâu hơn.
 Đề xuất khi dạy bài này: Cần tổ chức hoạt động 3’ trước khi chuyển sang bài tập 4.
VD như cho HS xem một bức tranh có các thành viên trong gia đình, yêu cầu HS đặt câu
theo câu hỏi gợi ý: trong tranh gồm mấy người? đó là những ai? (HS trả lời: Đó là ba, mẹ,
anh, chị, ông bà,…) Họ đang làm gì? (Ba, mẹ xem tivi,…)  giúp trẻ nhớ lại kiến thức cách
sử dụng dấu phẩy cho HS rồi mới tiến hành giải bài tập 4.
- Phải nhận thức tính chất thực hành, rèn luyện kỹ năng của bộ môn Tiếng Việt ở tiểu học.
SGK Tiếng Việt hiện hành rất chú trọng đến thực hành và kỹ năng cho trẻ. Ngoài Tập
đọc, các phân môn còn lại thiết kế dưới dạng bài tập.
VD: tiết Tập viết trang 100 rèn cho HS kỹ năng viết: viết đúng chữ hoa K, tiếng Kề
(viết đúng mẫu, đều nét và nối nét đúng quy định) thông qua bài tập ứng dụng và viết cụm từ
ứng dụng (Kề vai sát cánh) bằng cỡ chữ nhỏ. Ngoài ra còn giáo dục cho HS tính cẩn thận,
thẩm mỹ.
- Kết hợp khai thác vốn kinh nghiệm ngôn ngữ, rèn luyện kỹ năng, mở rộng những hiểu biết
về Tiếng Việt.
VD: tiết Tập viết trang 100
Hoạt động 1: Viết chữ hoa K.

Hoạt động 2: Viết ứng dụng: Kề vai sát cánh (Sau khi học xong bài này, HS sẽ biết
được “Kề vai sát cánh” có nghĩa là cùng chung sức với nhau để làm việc gì đó, nhằm một
mục đích chung) mang tính sử dụng vào đời sống. Hoạt động 2 có móc xích, liên kết với
hoạt động 1 để học sinh nhớ được lâu hơn chữ hoa K viết như thế nào và biết được chữ K sử
dụng trong trường hợp nào.
3/ Nhận thức tính thực hành, rèn luyện sử dụng Tiếng Việt
VD: Bài Luyện từ và câu trang 99. BT1 bằng cách ghép các tiếng đã cho thành từ có
hai tiếng giúp các em mở rộng vốn từ về tình cảm. Sau đó sang BT2 giúp các em ghép các từ
đó vào câu, vào những ngữ cảnh cụ thể  Các bài tập được thiết kế liên tiếp nhau giúp trẻ
tránh sự bỡ ngỡ và rèn luyện cho trẻ cách sử dụng những tiếng mới học ở BT1.
SGK rất coi trọng bài tập thực hành. Ngoại trừ phân môn Tập đọc, các phân môn còn
lại đều được thiết kế dưới dạng các bài tập cho HS thực hành. Nhưng đa số chỉ rèn được cho
các em đến mức độ Nhớ/Nhận biết và Hiểu.  Cần cho các em vận dụng nhiều hơn, nếu các
em biết vận dụng thì có nghĩa là các em đã nhận biết và hiểu được nó.
4/ Kết hợp với vốn kinh nghiệm ngôn ngữ, rèn kĩ năng, mở rộng hiểu biết về
tiếng Việt
VD: Bài tập 3 tiết Tập làm văn trang 100, yêu cầu HS nhìn tranh, sau đó nói 2 – 3 câu
về hoạt động của mẹ và con, dựa vào vốnkinh nghiệm ngôn ngữ mà các em có để nói trước
lớp. Sau đó GV sẽ chữa những lỗi sai và mở rộng hiểu biết về tiếng Việt cho các em. Ngoài
8


ra bài tập này còn rèn rất tốt cho các em về kĩ năng nói và rèn luyện tư duy và giúp các em
mở rộng vốn từ.
Tuy nhiên có một số từ khó trong phân môn Tập đọc giải thích khó hiểu so với các em.
VD: Bài “Điện thoại” trang 98 có giải thích cho các em từ điện thoại (máy truyền tiếng nói
từ nơi này đến nơi khác), các em hay đi siêu thị và có thể nhầm lẫn điện thoại và bộ đàm.
Hoặc như từ bâng khuâng (lan man, ngẩn người ra), các em không biết bâng khuâng và có
thể không biết luôn từ lan man. Do đó, SGK chưa giải thích rõ nghĩa các từ khó, chưa giúp
các em mở rộng hiểu biết về tiếng Việt.  Cần tìm những từ ngữ đã được học hoặc thường

hay xuất hiện trong cuộc sống xung quanh các em. Không nên đưa những từ quá khó vào bài
học tránh trường hợp các em hiểu nhầm nghĩa hoặc không biết nghĩa dẫn đến làm sai, hiểu
sai.

II/ Nguyên tắc chú ý đến đặc điểm tâm lý của lứa tuổi tiểu học.
1/ Tính vừa sức
- Mục tiêu dạy học chung của môn Tiếng Việt được cụ thể hóa thành hệ thống những
nhiệm vụ dạy học cụ thể với những hệ thức và kĩ năng cơ bản môn học sinh cần đạt ở từng
khối lớp.
- Việc thực hiện nguyên tắc chú ý đến đặc điểm tâm lý của lứa tuổi tiểu học nhằm đảm
bảo tính vừa sức của chương trình. Đối với khối lớp 2 giáo viên cần đưa ra những câu hỏi và
bài tập phù hợp với lứa tuổi của học sinh không quá khó cũng không quá dễ đồng thời đưa ra
một bài giảng logic đê tránh hiện tượng các em chán nản hoặc bị áp lực.
VD: Trong chủ điểm “Cha mẹ” SGK Tiếng Việt lớp 2, tập 1.
Ở tiết chính tả trang 102, có sự chuyển biến về mức độ khó, dễ qua từng câu hỏi:
• Bài tập 1, yêu cầu học sinh tập chép bài thơ mẹ (từ Lời ru… đến suốt đời.). Yêu cầu này ở
mức độ dễ học sinh chỉ cần viết rõ ràng là được. Bên cạnh đó để tăng mức khó hơn đề bài đã
đưa ra 2 yêu cầu kèm theo để học sinh phát triển sự nhạy bén trong tư duy và bổ sung thêm
kiến thức cho học sinh.
• Bài tập 2, với yêu cầu điền vào chỗ trống iê, yê hay ya? để làm được bài tập này học sinh cần
phải nhớ lại cách đánh vần của ba từ cần điền vào (kiến thức lớp 1). Mức độ khó của bài tập
đã được tăng lên, kích thích trí nhớ cho học sinh rất phù hợp với học sinh lớp 2.
• Bài tập 3, ở bài tập này đề bài yêu cầu tìm trong bài thơ mẹ:
+ Với ý thứ nhất: tìm những tiếng bắt đầu bằng r, gi. Yêu cầu này sẽ rất dễ đối với học
sinh vì các em chỉ cần nhìn vô bài thơ và tìm những chữ y như đề bài yêu cầu nhưng đòi hỏi
sự cẩn thận của các em nếu không muốn bỏ sót từ.
+ Với ý thứ hai: tìm những tiếng có thanh hỏi, thanh ngã. Đối với yêu cầu này, học sinh
cần nhớ 2 dấu thanh đó viết như thế nào mới làm được bài này. Ở đây đòi hỏi sự ghi nhớ
kiến thức cũ của học sinh và 1 lần nữa rèn tính cẩn thận cho học sinh.
 Tiết chính tả chuyển biến từ mức độ dễ đến mức độ khó hơn nhưng cũng không quá

sức với học sinh. Dạng bài tập thay đổi để tránh sự nhàm chán, ôn lại kiến thức, rèn luyện
chữ viết và tính cẩn thận cho học sinh. Ngữ liệu đưa ra cũng rất gần gũi với cuộc sống => rất
phù hợp.
- Ở lứa tuổi này các em có sự chuyển biến từ tư duy trực quan hoạt động sang tư duy trực
quan hình ảnh.
9


VD: Trong chủ điểm “Cha mẹ” SGK Tiếng Việt 2, tập 1.
Ở bài tập 3 tiết luyện từ và câu, trang 100: yêu cầu nhìn tranh, nói 2-3 câu về hoạt động
của mẹ và con. Yêu cầu khá dễ với học sinh vì các hoạt động này thể hiện rất rõ qua bức
tranh, các em chỉ cần nói ra những gì mình nhìn thấy mà không bị áp lực hay gò bó. Dạng
bài tập này thể hiện rõ sự tuy duy trực quan hình ảnh, rèn luyện ngôn ngữ, tập cho các em
cách sử dụng từ ngữ. Bên cạnh đó giáo viên cũng có thể đặt thêm các câu hỏi gợi ý xoay
quanh vấn đề cho các em dễ dàng thực hiện yêu cầu hơn.
Thêm một điều nữa, đó là trong SGK minh họa rất nhiều bằng tranh vẽ thay vì hình ảnh.
Tranh vẽ biểu thị rõ hơn về vấn đề được nói đến và giúp trẻ phát triển tư duy, liên tưởng,
tưởng tượng của mình, chứ không bị thui chột tư duy như hình ảnh. Điều này rất phù hợp
với đặc điểm tâm sinh lí và sự phát triển tư duy của trẻ.
 Nói tóm lại tính vừa sức của SGK đặc biệt trong chủ điểm “Cha mẹ” SGK Tiếng Việt
lớp 2, tập 1 rất phù hợp với lứa tuổi của học sinh, ngữ liệu đưa ra không quá khó cũng như
không quá dễ, câu hỏi bám sát vào yêu cầu của bài, dạng bài tập phong phú.
2/ Tính phân hóa trong xây dựng chương trình Tiếng Việt ở tiểu học
Tầm quan trọng: phân hóa trong nội dung chương trình Tiếng việt giúp chúng ta khai
thác tối đa năng lực của học sinh khá giỏi; phụ đạo, kèm cặp cho học sinh yếu kém.
a/ Phân hóa theo sở thích, hứng thú, nhu cầu của trẻ
- Trình tự bài học của giáo trình đã cấu tạo theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực,
sáng tạo của người học. Giáo viên có thể đặt thêm các câu hỏi phụ, cho học sinh tìm
thêm các ví dụ, khuyến khích học sinh diễn đạt nhận xét của mình bằng nhiều cách khác
nhau.

+ Cùng một hoạt động, yêu cầu bài học Giáo viên có thể tổ chức nên nhiều góc học
tập khác nhau (vẽ, thảo luận nhóm, làm văn,…) để các em thực hiện.
+ Nhưng hiện tại trong chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt hiện hành vẫn chưa
thể hiện sự phân hóa theo sở thích, hứng thú, nhu cầu của trẻ. Chủ yếu sự phân hóa này
do người giáo viên tiến hành. Dựa trên chương trình của sách giáo khoa, giáo viên tự
thiết kế các hoạt động phù hợp theo sở thích, nhu cầu, hứng thú của học sinh (vẽ tranh,
làm thơ, hoạt động nhóm, chơi trò chơi, làm thí nghiệm,…)
VD: Tiết tập đọc bài “Điện thoại” trang 98-99, mặc dù nội dung bài tập đọc và hệ
thống câu hỏi để tìm hiểu bài không thể hiện được sự phân hóa theo sở thích nhu cầu,
hứng thú của học sinh, nhưng giáo viên có thể thiết kế bài dạy để dạy học phân hóa cho
bài học trên. Cụ thể:
Đọc văn bản: cho các em đọc thầm (phù hợp với nhngwx học sinh không thích
đọc thành tiếng), sau đó sẽ mời một bạn đọc trước lớp (cho những học sinh năng nổ,
thích xung phong, thích đọc bài trước lớp cho các bạn cùng nghe), hoặc phân vai thành
người dẫn chuyện, cậu bé và vai người bố để đọc văn bản (cho những học sinh thích sắm
vai).
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh kể lại một cuộc nói chuyện của các em với
người thân khác trong gia đình (ông bà, ba mẹ, anh/chị,..) hoặc giáo viên có thể tổ chức
cho học sinh lên thực hiện tình huống 2 người bạn thân lâu ngày mới dọi điện cho nhau,
10


để các em rèn luyện kĩ năng nói, thể hiện tình cảm của mình với người khác cũng như
mạnh dạn tự tin thực hiện trước lớp.
b/ Phân hóa theo trình độ năng lực của trẻ
- Trong cùng một nội dung kiến thức bài học, có em đã biết, biết ở mức độ, hoàn toàn
chưa biết…có em chỉ có khả năng phát hiện vấn đề, mỗi em hiểu và vận dụng kiến thức
ở các mức độ khác nhau. GV cần lựa chọn dạy cái gì để đạt hiệu quả cho từng em.
- Dựa theo nội dung bài học GV cần tìm một quy trình thỏa mãn cho nhiều đối tượng,
làm sao để những học sinh trung bình, yếu không, cảm thấy chán nản với một nội dung

quá khó, học sinh khá, giỏi không cảm thấy buồn tẻ, chán nản trước một nội dung quá
dễ.
Trong chủ điểm “Cha mẹ” SGK Tiếng Việt lớp 2, tập 1
+ Phân môn kể chuyện: tiết kể chuyện trang 97, có sự phân hóa về mức độ khó,
dễ qua từng câu hỏi:
Ở câu hỏi số 1: yêu cầu học sinh kể lại 1 đoạn của câu chuyện Sự tích cây vú sữa
bằng lời của các em. Yêu cầu này tạo sự thoải mái, không gò bó, khuôn khổ ép các
em phải kệ lại câu chuyện theo lối văn chương cố định, theo câu chữ của tác giả.
Ngoài ra, ở đây chỉ yêu cầu học sinh kể lại một đoạn của câu chuyện  mức độ yêu
cầu: dễ.
Ở câu hỏi số 2: yêu cầu các em kể lại phần chính của câu chuyện theo từng ý tóm
tắt mà đề bài đã đưa ra. Mức độ yêu cầu học sinh đã khó lên 1 bậc. đầu tiên các em
sẽ phải xác định được phần chính của câu chuyện là phàn nào. Sau đó phải kể lại
theo những gợi ý của đề bài.
Ở câu hỏi số 3: Em mong muốn câu chuyện kết thúc như thế nào? Hãy kể lại đoạn
cuối câu chuyện theo ý đó.
Để thực hiện theo yêu cầu của đề bài, đầu tiên học sinh phải có những cảm nhận về
kết thúc câu chuyện của tác giả, từ đó các em bày tỏ mong muốn có kết thúc khác và các
em sẽ phải suy nghĩ và cho ra một ý tưởng về kết thúc cho câu chuyện theo ý mình. Cuối
cùng học sinh mới kể lại đoạn cuối câu chuyện với kết thúc các em mong muốn.  mức
độ khó của yêu cầu đề bài lại tăng lên.
+ Phân môn chính tả: tiết chính tả trang 97 yêu cầu học sinh nghe – viết bài “Sự
tích cây vú sữa”: các em sẽ phải viết một đoạn có bốn câu, trong đó nó có những từ ngữ
đơn giản, không có từ khó, từ hiếm gặp đối với học sinh.
Tiết chính tả trang 110 yêu cầu học sinh nghe-viết bài “Quà của bố” ác em sẽ phải
viết một đoạn cũng gồm bốn câu, trong đó có nhiều từ lạ, từ khó (niềng niễng, cá sộp),
học sinh đễ viết sai.
 Qua hai tiết chính tả này ta thấy giữa hai bài có mức độ khó khác nhau về dữ liệu
đề bài, cụ thể bài chính tả sau khó hơn bài trước, học sinh khá giỏi sẽ viết bài tốt hơn
những học sinh trung bình, học sinh yếu.

- Đối với nguyên tắc này, GV cần chia HS thành các nhóm: giỏi, khá, trung bình,
yếu kém. HS vào nhóm nào là do GV quyết định. GV tạo bài tập giao cho mỗi nhóm với
trình độ nhóm khác nhau, nhưng thỉnh thoảng cũng phải chuyển HS yếu và giỏi cùng
nhóm với nhau để các em không cảm thấy mình ở mãi một nhóm dở. Sau đó, GV chia
đề dễ cho nhóm trung bình, yếu còn đề khó cho nhóm khá giỏi. Phải lưu ý là mỗi nhóm
phải thực hiện hoàn toàn cả một bài trong tiết học, các nhóm chỉ khác nhau về mức độ
11


thực hiện mục tiêu. VD: Trong bài tập đọc “Mẹ”, nhóm khá giỏi phải đọc bài thơ một
cách thành thạo. Còn nhóm trung bình, yếu thì có thể đọc chậm hơn, từ từ nhưng tất cả
các nhóm phải hoàn thành mục hiểu cả bài tập đọc. Do vậy, SGK chưa đáp ứng được sự
phân hóa, chuyện đáp ứng hay không phụ thuộc vào GV. Về phân hóa theo sở thích,
hứng thú của HS thì chủ yếu tập trung ở vùng nông thôn miền Bắc nhiều, HS miền Nam
không thể cảm thụ được văn phong miền Bắc (do SGK) vì cách ăn nói, bối cảnh của
miền Nam khác miền Bắc.
3/ Nguyên tắc tích hợp
Tích hợp là một xu thế, một trào lưu dạy học và giáo dục phổ biến trên thế giới trong
nhiều thập kỉ qua. Quan điểm dạy học tích hợp được xem là định hướng lí luận của chương
trình tiểu học Việt Nam hiện hành và những năm sắp tới.
Việc gia tăng tính tích hợp của nội dung dạy học nhằm gia tăng tính vận dụng, thực
hành, thực tiễn của chương trình và đánh giá trung thực khách quan, khắc phục kiểu đối phó
thi cử nặng nề.
Dạy học tích hợp có những ưu điểm chính sau đây:
- Mục tiêu học tập được người học xác định rõ ràng ngay tại thời điểm học.
- Tránh những kiến thức, kĩ năng trùng lặp; phân biệt được nội dung trọng tâm và nội
dung ít quan trọng; các kiến thức hình thành trong bài học gắn liển với kinh nghiệm sống
của học sinh.
- Tạo điếu kiện để hình thành và phát triển năng lực cho học sinh một cách hài hoà ở
nhiều lĩnh vực khác nhau.

- Dạy học tích hợp làm cho người học cảm thấy việc học có ý nghĩa vì họ giải quyết
được một tình huống, một vấn đế trong thực tiễn cuộc sống, từ đó có điều kiện hình thành và
phát triển kiến thức, kĩ năng liên quan.
- Dạy học tích hợp làm cho người học cảm thấy việc học thú vị vì hoạt động học nhẹ
nhàng, nội dung học gần gũi với kinh nghiệm sổng của bản thân.
- Dạy học tích hợp giúp học sinh hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn
lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẫm mỹ và các kĩ năng cơ bản góp phần hình thành
nhân cách con người việt nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng tư cách và trách nhiệm
công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học tốt ở các bậc học kế tiếp.
Xem xét nguyên tắc tích hợp của SGK tiếng việt ở tiểu học qua chủ điểm “cha mẹ” tiếng
việt 2 tập 1
Trước hết có thể thấy ngữ liệu của các phân môn đều có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến chủ điểm.
Ở phân môn tập đọc văn bản “sự tích cây vú sữa”. “điện thoại”, “mẹ”, “bông hoa niềm
vui”, “quà của bố” có liên quan trực tiếp đến chủ điểm nhưng văn bản “há miệng chờ sung”
thì lại không có vẻ là liên quan đến chủ điểm tuy nhiên ở phần định nghĩa từ “mồ côi cha
mẹ” cũng có phần liên quan đến chủ điểm.
Nội dung và các ngữ liệu trong chủ điểm “ Cha mẹ” gần gũi với kinh nghiệm và tâm lí
của học sinh nên thể hiện được tính tích hợp giữa việc mở rộng hiểu biết về ngôn ngữ với
hiểu biết về con người, văn hoá.
12


Tuy nhiên, các bài tập đọc trong chủ điểm không hoàn toàn được thiết kế như là một ngữ
liệu nguồn để từ đó triển khai các hoạt động ngôn ngữ cũng như các hoạt động nhận thức
khác một cách liên hoàn. Một số hoạt động ngôn ngữ khác đều có ngữ liệu riêng, chỉ có đề
bài tập làm văn có liên quan với các bài đọc về mặt chủ đề.
Tập đọc “điện thoại” – tập làm văn “viết 4,5 câu trao đổi qua điện thoại theo nội dung”
(bài tập 2 trang 103).
Tập đọc “quà của bố” – tập làm văn “kể về gia đình em” (bài tập 1 trang 110)

Để trẻ khai thác được triệt để các bài tập đọc.
VD: sau phân môn tập đọc văn bản “sự tích cây vú sữa”, ở bài tập 2 của phân môn
chính tả “điền vào chổ trống ng hay ngh?”. Thay vì lấy các ngữ liệu ngoài như “người cha,
ngon miệng” ta nên lấy các ngữ liệu trong bài tập đọc như “ngày xưa, ngọt thơm, thơm
ngon” để các bé điền ng vào. Chỉ khi trong ngữ liệu không có từ hay tiếng chứa âm ngh ta
mới lấy ngữ liệu ngoài.
Tương tự ở bài tập 3 “điền vào chổ trống – a) tr hay ch” có thể lấy các ngữ liệu trong bài
tập đọc như “ham chơi, trái cây, gieo trồng, chờ mong”.
Tiếp đến, hệ thống câu hỏi trong phân môn tập đọc của chủ điểm “cha mẹ” cũng phần
nào thể hiện được tính tích hợp dạy kĩ năng sử dụng ngôn ngữ và kĩ năng tư duy cho trẻ. Tuy
nhiên, hệ thống câu hỏi chỉ mang tính chất hướng dẫn học sinh nắm nội dung ý của bài đọc.
Mà việc nắm nội dung ý của bài đọc không có ý nghĩa trong việc mở rộng hiểu biết về một
lĩnh vực khác.
Chính vì vậy, ở phân môn tập đọc, bài “sự tích cây vú sữa” không nên chỉ đặt ra các câu
hỏi nhằm giúp trẻ nắm nội dung mà còn phải thiết kế các câu hỏi góp phần nâng cao nhận
thức song song đó giúp trẻ phát triển đạo đức, hoàn thiện nhân cách. Nên đưa ra câu hỏi “
theo em hành động bỏ nhà ra đi của cậu bé là đúng hay sai? Tại sao? ”, “nếu em là cậu bé
trong truyện, khi được gặp lại mẹ, em sẽ nói gì?” nhằm giúp trẻ tư duy, đưa ra suy nghĩ cũng
như nhận thức của bản thân để từ đó giáo viên hướng dẫn, điều chỉnh đúng đắn cho học sinh.
Tính tích hợp còn được thể hiện ở chổ, ngữ liệu của phân môn tập đọc được sử dụng
trong phân môn kể chuyện và chính tả.
Tập đọc - “sự tích cây vú sữa”  kể chuyện - kể lại đoạn 1 câu chuyện sự tích cây vú sữa
bằng lời của em  chính tả - nghe - viết :sự tích cây vú sữa (từ Từ các cành lá... đến như sữa
mẹ.)
Tập đọc – “mẹ”  chính tả - tập chép: “mẹ” (từ Lời ru... đến suốt đời)
Tập đọc – “bông hoa niềm vui”  kể chuyện – qua từng bài tập kể lại 4 đoạn của chuyện
bông hoa niềm vui  chính tả - tập chép: “bông hoa niềm vui” (từ Em hãy hái... đến cô bé
hiếu thảo.)
Tập đọc – “quà của bố”  chính tả - nghe viết: “quà của bố” (từ Bố đi câu về... đến cá
chuối quẫy toé nước, mắt thao láo...)


13



×