Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.32 KB, 17 trang )

MỤC LỤC


ĐẶT VẤN ĐỀ
--------------Trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt như
hiện nay, khuyến mại là một trong những hoạt động thương mại được nhiều doanh
nghiệp áp dụng. Đây là cách thức, biện pháp mà doanh nghiệp sử dụng để thu hút
khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho khách hàng, bao gồm lợi ích vật chất
(tiền, hàng hóa) hay lợi ích phi vật chất (được cung ứng dịch vụ miễn phí), nhằm
mục đích cuối cùng là thu được lợi ích lớn nhất về mình. Cũng chính bởi mục đích
lợi nhuận này mà không ít doanh nghiệp lợi dụng khuyến mại như một phương
thức để thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khiến cho hoạt động nảy
sinh nhiều mặt trái. Để làm rõ hơn vấn đề này, em xin chọn đề bài số 13: “Thực
trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh không
lành mạnh.” để làm đề tài cho bài tập học kì của mình. Do giới hạn kiến thức thực
tiễn cũng như kiến thức về luật học của em còn nhiều hạn chế nên bài viết sẽ
không tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý
từ thầy cô để em sửa chữa và hoàn thiện bài viết được tốt hơn. Em xin chân thành
cảm ơn.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
-------------I.

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH VÀ KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH

MẠNH
1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh 2004 quy định: “ Hành vi cạnh tranh không
lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh


2


nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.”. Theo cách tiếp cận này, Điều 39 Luật Cạnh
tranh 2004 đã liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong đó bao gồm 10
hành vi.
Nhìn chung, cách tiếp cận hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy
định của pháp luật Việt Nam về cơ bản là phù hợp với Công ước Pari năm 1883 về
bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp cũng như pháp luật một số nước. Bản chất pháp
lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các chuẩn
mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Theo lý thuyết được
thừa nhận rộng rãi ở các nước châu Âu lục địa, thì về bản chất, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh là hành vi vi phạm quyền dân sự; các yếu tố cấu thành của
cạnh tranh không lành mạnh giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự
truyền thống, đó là hành vi cạnh tranh không lành mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại.
2. Hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
a) Khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Luật Thương mại 2005 quy định khái niệm khuyến mại tại khoản 1 Điều 88:
“Khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại của thương nhân nhằm mục xúc
tiến việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ bằng cách dành cho khách hàng
những lợi ích nhất định”.
Song khái niệm khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh không được
định nghĩa theo kiểu diễn giải cụ thể như khái niệm khuyến mại. Khái niệm khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh được Luật Cạnh tranh định nghĩa dưới dạng
liệt kê các hành vi khuyến mại bị cấm. Điều 46 Luật Cạnh tranh quy định về các
hình thức khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh như sau:“Cấm doanh
nghiệp thực hiện các hoạt động khuyến mại sau đây:
1. Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng;

3


2. Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa
dối khách hàng;
3. Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức
khuyến mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại;
4. Tặng hàng hoá cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu khách hàng đổi
hàng hoá cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách hàng đó đang sử
dụng để dùng hàng hóa của mình;
5. Các hoạt động khuyến mại khác mà pháp luật có quy định cấm.”
b) Đặc điểm của khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Thứ nhất, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng là một biện
pháp cạnh tranh. Khuyến mại là một biện pháp cạnh tranh quen thuộc nhằm thu hút
khách hàng dưới nhiều hình thức khác nhau như giảm giá, tặng quà, hứa thưởng... .
Trong một thời gian ngắn, vì đánh trúng tâm lý mua hàng của người tiêu dùng,
thương nhân có thể thu hút được một lượng lớn khách hàng mà nhờ đó thu được
một số lợi nhuận kha khá đủ bù cho chi phí thực hiện khuyến mại. Khi khách hàng
tập trung đông vào một thương nhân như vậy, hiển nhiên các đối thủ cạnh tranh
khác sẽ bị yếu thế hơn, nhất là khi chương trình khuyến mại này được tổ chức bất
ngờ có thể làm các đối thủ kia không kịp thích ứng, rơi vào thế bị động. Hậu quả
tất yếu sẽ tạo ra sự chênh lệch lợi nhuận, lợi thế cạnh tranh giữa các thương nhân là
đối thủ cạnh tranh của nhau.
Mặt khác, xét mặt tích cực của cạnh tranh đem lại, trên khía cạnh bảo vệ
quyền lợi khách hàng, khuyến mại lại đem lại một lợi ích đáng kể cho người tiêu
dùng, khi chấp nhận bỏ ra một phần lợi nhuận chuyển thành giá trị khuyến mại.
Ngoài ra, các chương trình khuyến mại cũng giúp thị trường sôi động, hấp dẫn
hơn, kích thích cung cầu, qua đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh, đem lại lợi ích
chung cho nền kinh tế.


4


Thứ hai, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Nhìn chung, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh cũng có các đặc điểm chung của hành vi cạnh tranh không lành mạnh như:
một là, hành vi này do các chủ thể kinh doanh trên thị trường thực hiện, nhằm mục
đích lợi nhuận. Hai là, hành vi này có tính chất đối lập, đi ngược lại các thông lệ
thông thường, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh (có thể hiểu là những quy tắc xử
sự chung được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị
trường). Cần lưu ý ở đặc điểm này đó là, hành vi cạnh tranh không lành mạnh luôn
gắn với lỗi cố ý của bên vi phạm, tuy nhiên khi áp dụng trong thực tiễn xét xử
tranh tụng, yếu tố này thường mang tính suy đoán hơn là có bằng chứng cụ thể. Ba
là, hành vi khuyến mại nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh bị kết luận là
không lành mạnh và cần phải được ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả
năng gây thiệt hại cho ba đối tượng nhóm doanh nghiệp cạnh tranh khác, người
tiêu dùng và Nhà nước.
Thứ ba, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là cách thức, biện
pháp thu hút khách hàng thông qua việc dành lợi ích cho khách hàng, bao gồm lợi
ích vật chất như tiền, hàng hóa hay lợi ích phi vật chất (được cung ứng dịch vụ
miễn phí) nhưng lại gây tổn hại đến hoạt động kinh doanh của các đối thủ cạnh
tranh và lợi ích của người tiêu dùng để thu được nhiều lợi nhuận. Dấu hiệu dành
cho khách hàng những lợi ích vật chất nhất định là dấu hiệu đặc trưng để phân biệt
hoạt động khuyến mại với các hình thức xúc tiến thương mại khác. Theo đó, dấu
hiệu này đi kèm với các đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh tạo nên
điểm khác biệt với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác.
Thứ tư, khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh bị kiểm soát bởi một
số cơ chế của pháp luật, trong đó có những quy định hiện hành về cạnh tranh
không lành mạnh như những giới hạn về giá trị khuyến mại cũng như thời gian
thực hiện chương trình khuyến mại (được quy định cụ thể tại Nghị định số

37/2006/NĐCP).
5


c) Các dạng hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
Luật cạnh tranh quy định cấm năm dạng hành vi khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh khác nhau:
 Một là, hành vi khuyến mại gian dối về giải thưởng.
Đối với hành vi này, bên vi phạm đã đưa ra những thông tin sai lệch về giải
thưởng, trao giải thưởng không đúng theo nội dung cam kết, công bố trong thể lệ
khuyến mại hay các thông tin, quảng cáo trước khi thực hiện chương trình khuyến
mãi (thường là có giá trị nhỏ hơn). Hành vi này có tính chất lôi kéo bất chính người
tiêu dùng để họ tham gia chương trình khuyến mại. Ví dụ cụ thể như: Vụ gian dối
về giải thưởng của công ty điện tử LG Việt Nam diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh
vào năm 2006. Giải thưởng được đưa ra bao gồm chiếc xe Toyota trị giá gần
30.000 đô la (giải nhất), xe tải Huyndai 1,5 tấn (giải nhì), xe máy Honda Dylan
(giải ba). Chương trình bốc thăm giải thưởng đang được diễn ra thì có một khách
hàng tuyên bố lá phiếu 233 mà anh ta đang giữ cuống vé không có trong thùng
phiếu. Ban tổ chức để khách hàng đó kiểm tra thùng. Quả nhiên trong thùng không
có lá phiếu số 233. Và tất cả các tờ phiếu từ số 200 trở lên do một số người khác
nắm giữ đều không có trong thùng .
 Hai là, hành vi khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa,
dịch vụ để lừa dối khách hàng.
Trong trường hợp này, hoạt động khuyến mại được doanh nghiệp sử dụng làm
công cụ để làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về hàng hóa, dịch vụ. Hành vi này
được thực hiện với thủ đoạn đưa những thông tin gian dối về giải thưởng, không
trung thực về hàng hoá, dịch vụ hoặc gây nhầm lẫn để lừa dối người tiêu dùng. Bản
chất lừa dối của hành vi khuyến mại là việc các doanh nghiệp đã không trung thực
về các lợi ích mà khách hàng sẽ được hưởng hoặc dùng các lợi ích đó để tạo ra sự
nhận thức sai lệch về hàng hoá, dịch vụ của khách hàng. Những hành vi như tổ

chức và công bố công khai về giải thưởng song không có giải thưởng hoặc giải
6


thưởng không đúng với những gì đã công bố; hành vi tổ chức khuyến mại bằng
cách đưa hàng mẫu cho khách hàng dùng thử với chất lượng cao cấp hơn nhiều so
với hàng hóa được dùng để mua bán hòng làm cho khách hàng bị nhầm lẫn về chất
lượng hàng hóa đều bị coi là cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ cụ thể như: các
doanh nghiệp tham gia chương trình khuyến mãi tự động tăng giá bán lên 10 –
15% trước thời điểm diễn ra tháng khuyến mại, để đến khi vào chương trình
khuyến mại thì lại "giảm giá” với các biển hiệu quảng cáo rất ăn khách như "sale
50 – 70%” hay "Đại hạ giá”… Khách hàng những tưởng mua được hàng hóa với
giá rẻ, nhưng thực tế lại bị "móc túi” một cách trắng trợn mà không hề hay biết.
 Ba là hành vi phân biệt đối xử giữa các khách hàng, không đảm bảo sự bình
đẳng và cơ hội hưởng lợi ích kinh tế dành cho mọi người tham gia trong cùng
một chương trình khuyến mại.
Tuy nhiên, căn cứ vào chiến lược kinh doanh chung của doanh nghiệp để
nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động kinh doanh tại một địa phương nhấy định, pháp
luật sẽ không can thiệp cấm nếu như doanh nghiệp thực hiện ưu đãi lớn hơn đối
với khách hàng tại địa phương riêng biệt này. Điển hình như: Chương trình khuyến
mại của mạng di động Vinaphone thực hiện từ ngày 15/5 đến 17/5/ 2010, khuyến
mại nhân 100% số tiền nạp thẻ cho các thuê bao của mạng. Tuy chương trình
khuyến mại thực hiện trong 03 ngày như trên nhưng không phải khách hàng nào
cũng nhận được tiền khuyến mại. Chỉ những khách hàng nhận được tin nhắn thông
báo về việc khuyến mại thì mới được hưởng khuyến mại. Tuy nhiên, một điều băn
khoăn được đưa ra đó là Vinaphone dựa vào tiêu chí nào để phân loại cho các thuê
bao mạng di động được hưởng khuyến mại và tổng số thuê bao được hưởng
khuyến mại là bao nhiêu. Câu trả lời không rõ ràng từ phía lãnh đạo của
Vinaphone, đó là tiêu chí phân loại có thể thay đổi, có khi là ưu đãi cho khách hàng
trung thành, các thuê bao trả trước đã sử dụng nhiều năm, có khi là những người

vừa hòa mạng, cước phí phát sinh chưa nhiều. Rõ ràng là đã có sự phân biệt đối xử
đối với khách hàng trong chương trình khuyến mại của Vinaphone. Tuy đây là một
hình thức được quy định trong Luật Cạnh tranh, nhưng trên thực tiễn thì trường
7


hợp phân biệt đối xử này thường ít diễn ra bởi điều kiện khách quan của nền kinh
tế đất nước và mong muốn chủ quan của các doanh nghiệp là cần có thêm nhiều
khách hàng và mở rộng thị trường của mình. Những trường hợp phân biệt đối xử
trong khuyến mại chủ yếu là hành vi xuất phát từ phía chủ quan của thương nhân
muốn dành những ưu đãi của mình cho những khách hàng lâu dài và tin cậy của
họ.
 Bốn là hành vi tặng hàng hóa cho khách hàng dùng thử nhưng lại yêu cầu
khách hàng đổi hành hóa cùng loại do doanh nghiệp khác sản xuất mà khách
hàng đang sử dụng để dùng hàng hóa của mình.
Hành vi này là một hình thức khuyến mại vi phạm đặc biệt bởi tính chất của
nó nhằm cản trở, gây rối hoạt động của doanh nghiệp khác, phá vỡ các quan hệ ổn
định của khách hàng đối với đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu khách hàng hài
lòng với sản phẩm khuyến mãi được dùng thử hơn, đương nhiên họ sẽ không sử
dụng sản phẩm cạnh tranh kia nữa, do đó việc yêu cầu này khách hàng đem sản
phẩm cạnh tranh đổi lấy hàng khuyến mại là không cần thiết, hạ thấp uy tín đối thủ
cạnh tranh và vì thế bị coi là không trung thực hay thiện chí. Hành vi này xét ở góc
độ sâu xa, đó là hành vi nhằm làm thay đổi thói quen tiêu dùng của khách hàng, từ
đó để khách hàng sử dụng sản phẩm của mình nhiều hơn. Kết quả là làm giảm thị
phần của đối thủ cạnh tranh, tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thực hiện
chương trình khuyến mại. Bên cạnh đó, hành vi này phần nào tác động đến quyền
tự do lựa chọn sử dụng sản phẩm của khách hàng. Ví dụ: doanh nghiệp A và B
cùng sản xuất bột giặt, doanh nghiệp A đưa ra chương trình khuyến mại là tặng bột
giặt của doanh nghiệp mình cho khách hàng dùng thử, nhưng khách hàng phải đổi
bột giặt do doanh nghiệp khác sản xuất mà họ đang sử dụng. Hành vi này bị coi là

một dạng không lành mạnh bởi nó được thực hiện nhằm xoá bỏ một cách không
chính đáng thói quen tiêu dùng của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp
khác.
 Năm là các hành vi khuyến mại khác mà pháp luật có quy định.
8


Thực tế cho thấy cùng với đà phát triển của nền kinh tế đang hội nhập của
Việt Nam, hoạt động khuyến mãi nói riêng và các hoạt động xúc tiến thương mại
nói chung đang ngày càng phát triển phong phú hơn, kéo theo đó, các hành vi
khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng đa dạng hơn. Ngoài bốn hành
vi nói trên, tùy từng trường hợp mà pháp luật cạnh tranh và các hệ thống pháp luật
khác sẽ có quy định cụ thể cho hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh này.
II.

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ KHUYẾN MẠI NHẰM
CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Thứ nhất, pháp luật cạnh tranh Việt Nam về khuyến mại nhằm cạnh tranh

không lành mạnh còn chưa tập trung. Pháp luật cạnh tranh về khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh là một phần của hệ thống pháp luật cạnh tranh Việt
Nam, do đó cũng chịu ảnh hưởng chung của pháp luật cạnh tranh nói chung. Tuy
nhiên, các điều khoản quy định về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
vẫn chưa được xây dựng tập trung thành một văn bản pháp luật nào, mà được quy
định rải rác tại nhiều điều luật trong các văn bản pháp luật khác nhau. Khuyến mãi
nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định trực tiếp tại khoản 7 Điều 39 và
Điều 46 Luật Cạnh tranh 2004; Điều 36 Nghị định 120/2005/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
và Điều 34 Nghị định 71/2014/NĐ – CP quy định chi tiết luật cạnh tranh về xử lý

vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Nhìn chung, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật Việt Nam còn chưa có hệ thống đầy đủ, cũng như chưa thể hiện triết lí
lập pháp rõ ràng nên hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng
không tránh khỏi thực trạng này. Các quy định về hành vi khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh vừa được tiếp thu từ kinh nghiệm xây dựng pháp luật cạnh
tranh của các quốc gia phát triển tại các giai đoạn khác nhau vừa xuất phát từ yêu
cầu thực tiễn quản lí hoạt động thương mại trong nước, nhất là hoạt động xúc tiến
9


thương mại đang được đẩy mạnh trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam. Một
ví dụ có thể thấy rõ của bất cập này chính là ngay trong văn bản dưới luật quan
trọng nhất là Nghị định số 116/2005/NĐCP của Chính phủ ngày 15/9/2005 về việc
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh cũng không có quy định
nào về hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, chỉ có hướng dẫn
kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh và tố tụng cạnh tranh. Mặt khác, hành vi
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh là một hành vi xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn trong quản lý hoạt động thương mại trong nước, tức là các vấn đề pháp lý
phát sinh từ hành vi này liên quan khá nhiều đến thực tiễn nhưng pháp luật Việt
Nam lại không thừa nhận các án lệ. Thẩm quyền thực thi pháp luật về cạnh tranh
không lành mạnh tại Việt Nam thuộc về cơ quan hành chính là Cục quản lý cạnh
tranh thuộc Bộ công thương, mà không phải là tòa án, do đó cũng sẽ hạn chế đáng
kể khả năng các điều luật được giải thích, cụ thể hóa trong lĩnh vực pháp luật cạnh
tranh.
Thứ hai, dù chưa được quy định tập trung nhưng những quy định hiện hành
về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh vẫn là những quy định mở. Xét
về mặt lý luận, nếu tiếp cận bằng cách đưa ra khái niệm thế nào là khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh cần trải qua một quá trình nghiên cứu khá dài
và khó khăn, do bản chất của cạnh tranh không lành mạnh vốn đã bao trùm lên

nhiều lĩnh vực khác nhau. Cách tiếp cận từ mặt trái của khuyến mại phù hợp với
nguyên tắc chung của tự do trong kinh doanh, theo đó cá nhân, tổ chức kinh doanh
có thể tự do “làm những việc mà pháp luật không cấm”. Xét về mặt thực tiễn, xuất
phát từ việc hoạt động kinh doanh đa dạng, phong phú, hoạt động xúc tiến thương
mại đang được đẩy mạnh phát triển, có thể ở từng thời điểm, từng giai đoạn khác
nhau mà một chương trình khuyến mãi sẽ bị xác định là phải cạnh tranh khi đi
ngược lại với lợi ích của nhà nước và xã hội, xâm phạm lợi ích của người tiêu dùng
và các doanh nghiệp cạnh tranh khác. Do vậy, pháp luật về khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh cũng xây dựng những quy định mở để có thể áp dụng linh
hoạt hơn.
10


Thứ ba, quy định về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn
khúc mắc trong việc hiểu và áp dụng các quy định pháp luật. Điều 46 Luật Cạnh
tranh 2004 sử dụng từ “giải thưởng” là một vấn đề đáng chú ý. Nếu căn cứ theo
các hình thức khuyến mãi được quy định tại Luật Thương mại 2005 và Nghị định
số 37/2006/NĐCP, chỉ có hai hình thức khuyến mại có xuất hiện giải thưởng là bán
hàng, cung ứng dịch vụ có kèm phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao
thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố và bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm
theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi. Nếu hiểu khoản 1 Điều 46
Luật Cạnh tranh chỉ giới hạn áp dụng đối với hai hình thức khuyến mại nói trên thì
sẽ chưa thực sự hợp lý. Thực tế, trong nhiều trường hợp doanh nghiệp công bố giải
thưởng khuyến mãi là các chương trình giảm giá không trung thực, gây nhầm lẫn
cho người tiêu dùng, khi này “giải thưởng” được điều chỉnh theo khoản 1 Điều 46
sẽ hợp lý hơn so với khoản 2 Điều 46. Từ sự nhập nhằng giữa quy định của hai
điều khoản cho thấy khái niệm “giải thưởng” trong khuyến mãi cũng cần được xem
xét lại về phạm vi của nó, “giải thưởng” có thể hiểu là mọi hình thức lợi ích kinh tế
mà doanh nghiệp đã công bố, cam kết khi đưa ra chương trình khuyến mãi, bao
gồm cả quà tặng hay giảm giá, chiết khấu.

Thứ tư, pháp luật cạnh tranh về khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành
mạnh chưa thực sự đảm bảo được lợi ích của khách hàng. Trong thực tế, khách
hàng là người phải chịu thiệt thòi cho những gian lận trong khuyến mại, do các sai
sót kĩ thuật trong in ấn tem, phiếu, vật phẩm có chứa đựng thông tin về lợi ích mà
khách hàng được hưởng trong đợt khuyến mại. Ví dụ là vụ việc Công ty điện LG
Việt Nam khuyến mại gian dối tại Thành phố Hồ Chí Minh, số phiếu rút thăm
trúng thưởng của khách hàng không có trong thùng phiếu, các giải thưởng đều
được sắp xếp để dành cho các đại lý “ruột” của LG.
Thứ năm, pháp luật về xử lí vi phạm đối với hành vi khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh vẫn còn gặp phải khó khăn. Theo quy định tại Điều 36
Nghị định số 120/2005/NĐCP về xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh
tranh, doanh nghiệp thực hiện một trong các hoạt động khuyến mại nhằm cạnh
11


tranh không lành mạnh sẽ bị phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.
Doanh nghiệp vi phạm bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng nếu
việc khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh thuộc một trong các trường
hợp sau: hàng hóa, dịch vụ liên quan là các mặt hàng lương thực, thực phẩm, trang
thiết bị y tế, thuốc phòng và chữa bệnh cho người, thuốc thú y, phân bón, thức ăn
chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi và các dịch vụ y tế,
chăm sóc sức khỏe; quy mô tổ chức khuyến mại thuộc phạm vi từ hai tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trở lên. Ngoài việc bị phạt tiền, doanh nghiệp vi phạm
có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả như tịch
thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện khuyến mại nhằm cạnh tranh
không lành mạnh, buộc cải chính công khai. Hiện tại Nghị định 120/2005/NĐ-CP
đã hết hiệu lực và được thay thế bằng Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014
về hướng dẫn luật cạnh tranh về xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
Hình thức xử phạt đối với hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh
được quy định tại Điều 34 của Nghị định và đã có sự thay đổi. Mức phạt tiền đối

với các hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh được tang lên rất
nhiều (từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng). Quy định là vậy, song vướng
mắc từ thực tiễn xét xử chính là ở các căn cứ để xác định thể nào là một hành vi
khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh, từ việc thu thập chứng cứ chứng
minh, việc thẩm định...; nhất là thẩm quyền của tòa án trong thực thi pháp luât về
cạnh tranh bị hạn chế hơn cơ quan hành chính có thẩm quyền là Cục quản lí cạnh
tranh.
III.

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT NHẰM
HẠN CHẾ CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH NÓI CHUNG VÀ
KHUYẾN MẠI NHẰM CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH NÓI

RIÊNG
1. Những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật
Pháp luật cần có định nghĩa cụ thể hơn về hoạt động khuyến mại bị coi là
cạnh tranh không lành mạnh. Theo luật cạnh tranh năm 2004, hành vi khuyến mại
12


được xác định là cạnh tranh không lành mạnh khi nó “trái với các chuẩn mực
thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại đến lợi ích Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Trong trường
hợp hành vi đó gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước
nhưng do sẽ không có bên khiếu nại vì không có tổ chức, cá nhân nào bị xâm hại
trực tiếp nên vụ việc đó có thể không được đưa ra giải quyết. Mặt khác, nếu đưa vụ
việc ra giải quyết, cơ quan có trách nhiệm giải quyết là Cục quản lý cạnh tranh –
một cơ quan Nhà nước, thay mặt Nhà nước thực hiện quyền lực công, kiểm soát
cạnh tranh trong khi, bên bị xâm phạm lợi ích ở đây lại chính là Nhà nước. Như
vậy, có thể không đảm bảo tính khách quan khi xử lý việc cạnh tranh này.

Cần quy định cụ thể các hành vi được coi là hoạt động khuyến mại nhằm
cạnh tranh không lành mạnh. Cần quy định cụ thể thế nào được hiểu là “như nhau”
theo quy định tại khoản 3 Điều 46 Luật Cạnh tranh năm 2004: “Phân biệt đối xử
đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại...”. Đây là
quy định mang tính định tính do đó sẽ gây nên các cánh hiểu và áp dụng không
đồng nhất. Bên cạnh đó cần thiết phải xem xét có nên bổ sung thêm “tặng dịch vụ”
trong quy định tại khoản 4 Điều 46 Luật cạnh tranh 2004 hay không. Theo quy
định tại Khoản 4 này thì đối tượng của hành vi này chỉ là hàng hóa, tuy nhiên hiện
nay, nhiều doanh nghiệp ngoài việc khuyến mại hàng hóa còn tiến hành cả hoạt
động khuyến mại tặng dùng thử đối với dịch vụ. Như vậy, hành vi này có bị coi là
cạnh tranh không lành mạnh hay không? Pháp luật cần quy định cụ thể và rõ ràng
hơn.
Hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại. Luật Cạnh tranh tuy có quy
định hình thức xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhưng chỉ mới
điều chỉnh các hành vi này bằng mệnh lệnh hành chính (Điều 117 Luật cạnh tranh
2004). Vấn đề bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra
không được quy định cụ thể. Cần xác định rõ chủ thể có quyền khởi kiện yêu cầu
bồi thường thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra? Những loại
13


chế tài nào sẽ được áp dụng cho các hành vi cạnh tranh không lành mạnh? Và mức
bồi thường thiệt hại và xác định mức bồi thường thiệt hại là như thế nào?
Hoàn thiện pháp luật hình sự để xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Hiện tại Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 của Việt Nam đã có
một số quy định về việc xử lý hình sự đối với một số hành vi cạnh tranh không
lành mạnh như tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156, Điều 157, Điều 158), tội
lừa dối khách hàng (Điều 162), tội quảng cáo gian dối (Điều 168). Mới đây, Bộ
luật hình sự 2015 đã bổ sung thêm quy định mới về tội vi phạm quy định về cạnh
tranh (Điều 217 BLHS 2015) tuy nhiên, lại chưa thấy có quy định nào của luật

hình sự xử lí hành vi giả danh người nước ngoài, Việt Kiều để tổ chức khuyến mại
gian dối …
2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
Cần hoàn thiện thủ tục, trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh. Bổ sung biện
pháp ngăn chặn hành chính là. Tạm đình chỉ hoạt động khuyến mại có dấu hiệu
cạnh tranh không lành mạnh. Hoạt động tạm đình chỉ này nhằm răn đe, ngăn cản
các bên đã, đang và sắp có hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Bổ sung quy trình điều tra rút gọn: thủ tục rút gọn được phép sử dụng với
những trường hợp vi phạm quả tang, có chứng cứ rõ ràng, tình tiêt vụ việc đơn
giản. Thủ tục này giúo cho cơ quan quản lý cạnh tranh xử lý vụ việc dễ dàng hơn,
đảm bảo yêu cầu của pháp luật, đồng thời tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên
liên quan.
Quy định hiệu lực thi hành ngay đối với quyết định xử lý hoạt động khuyến
mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Việc quy định này sẽ có tác dụng ngăn
chặn ngay lập tức các hành vi vi phạm, đảm bảo lợi ích của các bên và cũng tránh
trường hợp có quyết định xử phạt rồi những hành vi vi phạm vẫn hiên ngang xảy
ra.
Cần có các giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh trong họat động khuyến mại. Tăng cường công tác
tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh tơi cộng đồng doanh nghiệp và người
tiêu dùng. Cần phải tuyên truyền sâu rộng pháp luật cnhj tranh để các doanh
14


nghiệp nắm bắt được. Các doanh nghiệp nhận thức được pháp luật cạnh tranh sâu
sắc sẽ là công cụ hữu hiệu để họ bảo vệ quyền và lợi ích của chính họ. Bên cạnh đó
cũng rất cần tuyên truyền pháp luật cạnh tranh đến với người tiêu dùng. Người tiêu
dùng hiểu biết vè pháp luật cạnh tranh để có thể bảo vệ được quyền và lợi ích
chính đáng của họ.
Nâng cao vai trò chủ động của cộng đồng doanh nghiệp, các hiệp hội ngành

nghề, xây dựng quy tắc ứng xử trong các ngành, lĩnh vực kinh doanh. Cộng đồng
kinh doanh, hiệp hội ngành nghề có vai trò quan trọng trong việc điều tiết các hoạt
động kinh doanh. Các hiệp hội xây dựng tốt các quy tắc ứng xử, các chuẩn mực
của ngành sẽ tạo điều kiện cho một môi trường kinh doanh lành mạnh. Các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong khuyến mại sẽ bị doanh nghiệp trong hiệp hội
lên án và đây cũng là sức ép không nhỏ để các doanh nghiệp không thực hiện các
hành vi gian dối trong hoạt động này.
Nâng cao năng lực thực thi pháp luật cạnh tranh. Cần nâng cao đội ngũ cán
bộ làm công tác quản lý cạnh tranh và tăng cường kinh phí phục vụ cho công tác
này.
Tăng cường kiểm soát các hoạt động khuyến mại, để hạn chế kịp thời và tối
đa các hành vi nhằm cạnh tranh không lành mạnh, cũng như bảo vệ được quyền lợi
của các đối tượng liên quan bao gồm người tiêu dùng và các doanh nghiệp.

15


KẾT THÚC VẤN ĐỀ
----------------Hành vi khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh gây ra những tác
động xấu không chỉ với doanh nghiệp bị ảnh hưởng mà còn đối với quyền lợi
người tiêu dùng, sâu xa hơn là trật tự nền kinh tế thị trường. Trên thực tế, hành vi
này diễn ra rất đa dạng, trong khi pháp luật vẫn còn những hạn chế nhất định. Qua
những phân tích và vụ việc cụ thể nêu trên, có thể thấy hệ thống pháp luật của
nước ta cần tiếp tục được hoàn thiện để những hành vi khuyến mại nhằm cạnh
tranh không lành mạnh nhanh chóng bị loại bỏ và xử lý nghiêm minh, từ đó nâng
cao môi trường cạnh tranh lành mạnh của nền kinh tế nước ta.

16



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-------------------1
2
3
4

Luật cạnh tranh năm 2004.
Bộ luật Dân sự năm 2005.
Bộ luật Hình sự năm 1999.
Nghị định của Chính phủ số 71/2014/NĐCP ngày 21/7/2014

về xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.
5 Nghị định của Chính phủ số 06/2006/NĐCP ngày 09/01/2006 về việc thành lập
và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lí
cạnh tranh
6 Nghị định của Chính phủ số 158/2013/NĐCP quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo.
7 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật cạnh tranh, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2011.
8 Quách Thị Hương Giang, “Chế tài đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh theo pháp luật Việt Nam” , Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2011.
9 Vũ Thu Giang - "Cạnh tranh không lành mạnh - Thực trạng và những đề xuất
xử lý vi phạm ở Việt Nam" - luận văn thạc sĩ - Hà nội 2010.
10 Bản tin cạnh tranh và người tiêu dùng, số 23, tháng 12/2010.

17




×