Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự việt nam về chống khủng bố

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (558.32 KB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu trong thời đại ngày nay. Trong quá
trình toàn cầu hoá, bên cạnh những mặt tích cực còn xuất hiện những mặt
trái của nó mà mỗi quốc gia không thể tự giải quyết được. Một trong những
vấn đề thuộc mặt trái của toàn cầu hoá đó là khủng bố quốc tế.
Khủng bố ban đầu xuất hiện là những tội phạm quốc gia, cùng với quá
trình toàn cầu hoá, tội phạm này hiện nay là mối đe doạ hoà bình và an ninh
quốc tế, điển hình là vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại Hoa Kỳ, vụ khủng bố
Trường trung học Beslan của Nga, vụ khủng bố các toa xe lửa ở Mardrit,
Tây Ban Nha…
Trước sự phát triển của khủng bố quốc tế, cộng đồng quốc tế đã có
nhiều nỗ lực nhằm ngăn chặn tội phạm này, trong đó có việc xây dựng các
văn bản pháp luật quốc tế về chống khủng bố. Việc xây dựng văn bản pháp
luật quốc tế về chống khủng bố được tiến hành từ những năm đầu thế kỷ XX
nhưng tới năm 1963 mới cho ra đời điều ước quốc tế về chống khủng bố đầu
tiên. Hiện nay, pháp luật quốc tế về chống khủng bố bao gồm 12 điều ước đa
phương thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc, 8 điều ước khu vực và rất nhiều
điều ước quốc tế song phương… Tuy nhiên, pháp luật quốc tế về chống
khủng bố hiện chưa hoàn chỉnh, chưa có điều ước nào đưa ra được định
nghĩa về khủng bố vì thế hiện tại chưa thể phân biệt một cách rõ ràng hành
vi khủng bố và các hành vi khác theo quy định tại các điều ước này.
Đề tài luận văn được thực hiện nhằm đưa ra khái niệm ban đầu về
khủng bố, giúp phân biệt khủng bố và các tội phạm khác có cấu thành gần
giống trên cơ sơ nghiên cứu các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế
giới. Đây là vấn đề có tính cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh
1
chống khủng bố quốc tế, đồng thời hạn chế hành xử tuỳ tiện của các quốc
gia trong cuộc chiến chống khủng bố.
Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên 8 điều ước quốc tế về chống
khủng bố, tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay mà đặc biệt là Bộ luật


hình sự - công cụ đặc biệt quan trọng trong đấu tranh chống tội phạm nói
chung và tội khủng bố nói riêng chưa tương thích với pháp luật quốc tế.
Chính vì thế, việc nghiên cứu, sửa đổi các quy định tại Bộ luật hình sự là
việc làm cần thiết hiện nay để nâng cao hiệu hợp tác đấu tranh chống loại tội
phạm đặc biệt nguy hiểm này.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu pháp luật quốc tế về chống
khủng bố không nhiều. Ở cấp độ luận văn chỉ có một đề tài của tác giả
Nguyễn Long tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có tên: “Pháp luật
quốc tế về chống khủng bố - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”. Ngoài ra,
còn một số sách tham khảo giới thiệu các công ước quốc tế về chống khủng
bố và các bài viết hội thảo về vấn đề này.
Trên thế giới cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học
giả về khủng bố quốc tế như Schmid Alex, Bruce Hoffman… tuy nhiên các
nghiên cứu tập trung phân tích nguyên nhân làm phát sinh khủng bố và các
mặt chính trị - xã hội xung quanh nó mà ít đề cập đến vấn đề pháp lý.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài đề cập vấn đề khá thời sự hiện nay trên thế giới: Khủng bố
quốc tế. Câu hỏi: Thế nào là khủng bố cũng là vấn đề gây tranh luận gay gắt
giữa các quốc gia cũng như các nhà nghiên cứu và là trở lực lớn cho việc
thông qua Công ước chung về chống khủng bố. Chính vì thế, đề tài đi vào
kiến giải câu hỏi này dựa trên những biểu hiện khách quan của hành vi
khủng bố cũng như các quan điểm hiện nay trên thế giới về khủng bố. Qua
2
đó, đề tài cũng góp phần vào việc nghiên cứu thực trạng và giải pháp hoàn
thiện pháp luật hình sự Việt Nam về vấn đề này góp phần nâng cao hiệu quả
hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam với các nước trong khu
vực cũng như trên thế giới.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý xung quanh một vấn đề

thời sự hiện nay: Khủng bố quốc tế với nguồn chủ yếu là các điều ước quốc
tế về chống khủng bố và quy định pháp luật quốc gia về vấn đề này, trong đó
đặc biệt là Việt Nam.
Đề tài không đi sâu về các nguyên nhân làm phát sinh khủng bố cũng
như các vấn đề chính trị - xã hội xung quanh nó mà chủ yếu xem xét khủng
bố dưới góc độ pháp lý - một tội phạm nguy hiểm cần phải bị loại trừ ra khỏi
đời sống nhân loại.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài chủ yếu là phân tích, so sánh, liệt
kê… với nền tảng là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
pháp biện chứng duy vật.
5. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu vấn đề còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam: Khủng
bố quốc tế. Việc nghiên cứu đề tài vì vậy sẽ mở ra những nghiên cứu tiếp
theo sâu sắc hơn.
Không những thế, những nghiên cứu của đề tài sẽ trả lời câu hỏi: Thế
nào là khủng bố - một vấn đề gây tranh luận gay gắt hiện nay giữa các quốc
gia và các nhà nghiên cứu và là nguyên nhân chính cản trở việc thông qua
Công ước quốc tế chung về chống khủng bố. Đây mới chỉ là nghiên cứu
bước đầu với kết quả còn khiêm tốn nhưng cách lý giải về khủng bố trên cơ
sở pháp lý tại luận văn hy vọng sẽ là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu
tiếp theo.
3
Luận văn cũng phân tích và nêu ra thực trạng và các giải pháp góp
phần hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam góp phần nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế của Việt Nam trong đấu tranh chống tội phạm này.
6. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương 1 trình bày những vấn đề cơ bản nhất về khủng bố và pháp
luật quốc tế về chống khủng bố, trong đó có nêu ra các quan điểm hiện nay
trên thế giới về khủng bố, định nghĩa khủng bố cũng như các đặc điểm phân

biệt khủng bố và các tội phạm khác.
Chương 2 trình bày nội dung cơ bản của pháp luật quốc tế về chống
khủng bố, trong đó có các nguyên tắc cơ bản trong đấu tranh chống khủng
bố, các hành vi khủng bố nêu tại các điều ước quốc tế, nghĩa vụ hợp tác của
các quốc gia…
Chương 3 trình bày thực trạng các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam và một số giải pháp hoàn thiện các quy định này nhằm nâng cao hiệu
quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố của nước ta.
4
CHƯƠNG 1
KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG BỐ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1.1. KHÁI NIỆM KHỦNG BỐ
Thuật ngữ “Khủng bố” đã xuất hiện từ khá lâu trên thế giới, từ khoảng
thế kỷ thứ XVIII. Hầu hết các quan điểm đều cho rằng thuật ngữ “Khủng
bố” (terrorism) bắt nguồn từ cụm từ tiếng Pháp “regime de la terreur” (chế
độ khủng bố). Thuật ngữ này lần đầu tiên xuất hiện ở Pháp năm 1873-1874
và có liên quan đến chính quyền Cách mạng Pháp lúc bấy giờ. Để giữ vững
chính quyền đang còn trứng nước, những người Gia-cô-banh đã thiết lập chế
độ độc tài và chế độ kinh tế hà khắc với các vụ bắt giữ, hành quyết, tra tấn
các phần tử bị cho là phản cách mạng… và từ “terreur” (khủng bố) được sử
dụng để chỉ các hoạt động đó. Tuy nhiên, cũng có một số quan điểm cho
rằng thuật ngữ “Khủng bố” xuất hiện vào năm 1798 do nhà triết học Đức E-
ma-nu-en Kăng sử dụng để mô tả sự bi quan về số phận con người và cùng
năm đó thuật ngữ này cũng xuất hiện trong một phụ lục của Đại từ điển Viện
hàn lâm Pháp.
Đến thế kỷ XIX, thuật ngữ “Khủng bố” được sử dụng để chỉ các hoạt
động chống chính quyền, bắt đầu xuất hiện tại nước Nga Sa hoàng rồi lan
sang châu Âu và Mỹ. Khái niệm này dùng để chỉ những kẻ khủng bố chống
chính quyền với triết lý và lý tưởng vô chính phủ, phủ nhận nhà nước với

các hành vi bạo lực như ám sát nguyên thủ quốc gia, các quan chức chính
phủ và những nhà hoạt động chính trị khác…
Ở Việt Nam, từ “Khủng bố” xuất hiện vào những năm cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX gắn với các cuộc càn quét, đàn áp, giết hại thường dân vô tội
của chính quyền thực dân Pháp và sau này là Mỹ, Ngụy.
5
Hiện nay, trên thế giới có khoảng hơn 100 định nghĩa về khủng bố,
nhưng nhìn chung những định nghĩa này thường không đầy đủ và chưa có
một định nghĩa nào được toàn thế giới thừa nhận. Thậm chí, theo một nghiên
cứu của CIA thì từ năm 1936 đến năm 1981 có không ít hơn 109 định nghĩa
về khủng bố và có ít nhất 60 định nghĩa đối chọi nhau [42]. Sự khác nhau
trong cách định nghĩa khủng bố xuất phát từ sự khác nhau về lập trường,
mục tiêu, lợi ích. Điều này dẫn đến trường hợp một nhóm cực đoan nước
ngoài được một nước coi là khủng bố nhưng ở quốc gia khác lại được coi là
anh hùng, chiến sỹ đấu tranh vì tự do và đây chính là cản trở lớn của pháp
luật quốc tế trong đấu tranh chống khủng bố - một nguy cơ toàn cầu đang
ngày càng gia tăng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu các quan điểm khác nhau
về khủng bố một cách khách quan trên cơ sở phân tích thực tiễn hành vi này
dưới dạng một loại tội phạm nguy hiểm cho nhân loại cần phải được loại bỏ
để đưa ra định nghĩa chung nhất về khủng bố là việc làm cần thiết.
1.1.1. Các quan điểm về khủng bố hiện nay trên thế giới
1.1.1.1. Quan điểm của các nhà nghiên cứu
Giới học giả khi nghiên cứu vấn đề khủng bố dùng khá nhiều thuật ngữ
khác nhau và dưới các giác độ khác nhau, có người dùng thuật ngữ “Chủ
nghĩa khủng bố” (một thuật ngữ thường dùng để xem xét khủng bố dưới góc
độ tư tưởng cũng như các vấn đề chính trị - xã hội xung quanh nó), có người
sử dụng “Khủng bố”, “Hoạt động khủng bố”, “Hành vi khủng bố”… tuy
nhiên, tất cả các nghiên cứu dù dưới giác độ nào chăng nữa cũng đều phải
làm rõ một vấn đề cơ bản: Thế nào là khủng bố? Trả lời câu hỏi này có
nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, tuy nhiên hầu hết các

quan điểm đều thống nhất việc loại trừ khủng bố ra khỏi đời sống xã hội
quốc tế, vì đây là những hành vi chống lại nhân loại tiến bộ

[23]. Tác giả Lại
Văn Toàn cho rằng: Bất chấp động cơ gây tội ác của khủng bố toàn cầu là gì,
6
mức độ hủy diệt của nó gây ra nhiều hay ít, đối với ai, bao giờ, ở đâu – hành
động khủng bố là không thể dung tha và không gì có thể biện minh

[23,
104]. Rob – Giáo sư Đại học San Francisco Hoa Kỳ trong một bài phát biểu
của mình đã lên án các chính sách của Mỹ, coi chính sách đối ngoại của Mỹ
và những mặt trái của toàn cầu hóa là một trong những nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến việc xuất hiện khủng bố. Tuy nhiên ông cũng khẳng định: “Tôi nhắc
lại: không có cái gì chúng ta đã làm, không có chính sách nào dù đáng chất
vấn đến đâu có thể bào chữa cho những hành động khủng bố. Nhưng nếu
chủ nghĩa khủng bố không bao giờ có thể thanh minh được thì điều đó
không có nghĩa là không thể giải thích nó hoặc không thể hiểu nó”. Chúng
tôi cũng chia sẻ với ông về quan điểm: “Kiên quyết đối phó với khủng bố
hiện hữu bằng pháp luật chứ không phải bằng chiến tranh. Bắt giữ, kết tội
khủng bố thông qua công việc của cảnh sát, của tòa án và khuyến khích các
nước hợp tác trong điều tra hình sự chứ không can thiệp quân sự; tố tụng ở
các tòa án quốc tế chứ không như hành động đơn phương của Hoa Kỳ hoặc
hăm dọa các nước khác để tô điểm hành động đơn phương”

[23, 56].
Hiện nay, theo Từ điển Tiếng Việt, khủng bố là “dùng các biện pháp
tàn bạo làm cho khiếp sợ để hòng khuất phục”. Từ điển Webste’s Collegiate
Dictionary cũng có cách định nghĩa tương tự, đó là “việc sử dụng các biện
pháp gây khiếp đảm để cai trị hoặc chống lại sự cai trị”. Các định nghĩa này

đơn giản, thông dụng, tuy nhiên phạm vi những hành vi bị coi là khủng bố
quá rộng, bao gồm tất cả các hành vi xâm lược, diệt chủng, tội ác chiến
tranh, các hành vi bạo lực nói chung. Xét từ góc độ pháp lý các hành vi này
có mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nên cần được phân hóa, tách
riêng xử lý để đảm bảo tính công bằng của luật. Cần phân biệt hành vi khủng
bố với các hành vi cấu thành tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội xâm
lược, chống loài người là những hành vi đặc biệt nguy hiểm - các tội phạm
7
quốc tế đặc biệt nghiêm trọng bị xét xử tại Tòa án hình sự quốc tế (ICC) và
các hành vi cấu thành các tội phạm thông thường khác như tội giết người, tội
cướp, các tội xâm phạm an toàn công cộng trật tự công cộng v.v
Sau biến cố 11-9-2001, cả thế giới mạnh mẽ lên án và công khai tuyên
chiến với các hành động khủng bố, nhưng đồng thời cũng xác định đây
không phải là cuộc chiến chống lại người Ả Rập hoặc người Hồi giáo mặc
dù có sự thật không thể phủ nhận đó là hầu hết những kẻ bị các quốc gia liệt
vào danh sách khủng bố phần lớn là các tín đồ Hồi giáo làm nhiều nhà
nghiên cứu có xu hướng đánh đồng Hồi giáo và khủng bố

[21, 64]. Việc
đánh đồng khủng bố và Hồi giáo là không thể chấp nhận được tuy nhiên
thực tế hiện nay có một số kẻ đang lợi dụng tôn giáo để biện minh cho việc
thực hiện các hành vi khủng bố của mình trong khi phần đông các học giả
Hồi giáo lên án mạnh mẽ các hành vi này và đồng tình với định nghĩa của Al
– Tawhid, cũng là một học giả người Hồi giáo: “Khủng bố là hành động
được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu vô nhân đạo và đồi bại, đe doạ an
ninh dưới bất cứ hình thức nào, xâm phạm quyền được loài người và tôn
giáo công nhận” [16, 9]. Đây là định nghĩa còn chưa rõ ràng vì nó chứa
đựng những cụm từ mang tính chung chung như: “vô nhân đạo”; “đồi bại”
Định nghĩa này cũng thể hiện quan điểm bảo vệ giáo lý tôn giáo, tuy nhiên
có sự kết hợp với các giá trị chung “quyền con người” để tranh thủ được

nhiều sự đồng thuận. Giáo lý tôn giáo mà Al – Tawhid bảo vệ ở đây chính là
đạo Hồi thông qua việc coi sự xâm phạm các quyền được tôn giáo công nhận
là một trong các tiêu chí đánh giá một hành vi là khủng bố. Để làm rõ hơn
định nghĩa này, Al – Tawhid cũng đã liệt kê các hành vi không thuộc phạm
vi định nghĩa, đó là:
8
a. Các hành vi của lực lượng kháng chiến quốc gia được thực hiện
nhằm chống lại lực lượng chiếm đóng, thực dân và phiến loạn cướp chính
quyền.
b. Sự kháng cự của dân chúng chống lại các phe cánh thiết lập sự
thống trị bằng vũ lực và vũ khí.
c. Chống chế độ chuyên chế độc quyền và các hình thức chuyên chế
khác, cũng như những nỗ lực nhằm lật đổ chế độ đó.
d. Kháng chiến chống phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử và những
cuộc tấn công vào các thành trì của phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử.
e. Trả đũa bất kỳ sự xâm lược nào nếu như không còn con đường nào
khác.
Ông cũng đưa ra loạt danh sách các trường hợp thuộc phạm vi định
nghĩa gồm:
a. Hành vi cướp trên đất liền, trên biển cũng như trên không;
b. Mọi chiến dịch thực dân bao gồm chiến tranh và chiến dịch quân
sự;
c. Mọi hành động độc tài chống lại nhân dân và mọi hình thức bảo vệ
chế độ độc tài, bất kể đến những ách áp đặt trên các dân tộc.
d. Mọi biện pháp quân sự đi ngược lại nhân tính, chẳng hạn như việc
sử dụng vũ khí hoá học, bắn pháo vào các khu vực có cư dân sinh sống, phá
nhà dân, chiếm đóng những vị trí dân sự.
e. Mọi hình thức làm ô nhiễm môi trường văn hoá, địa lý và thông tin.
Trên thực tế khủng bố tri thức đang là loại khủng bố nguy hiểm nhất;
f. Mọi biện pháp làm suy yếu gây tác động bất lợi cho điều kiện kinh

tế quốc tế hoặc quốc gia, tác động bất lợi cho người nghèo và túng quẫn, đào
sâu hố ngăn cách giữa các dân tộc bằng những rào cản kinh tế - xã hội và
trói buộc các dân tộc bằng những món nợ quá đáng;
9
g. Mọi hành vi lén lút nhằm cản trở con đường độc lập, tự do giữa các
quốc gia và áp đặt những điều ước bất bình đẳng [16, 11].
Đây là định nghĩa mang nặng tính chủ quan với ý đồ chính trị rõ ràng.
Định nghĩa của Al – Tawhid đưa ra nhằm bảo vệ các lực lượng chiến đấu
cho tự do, lên án các hành vi của nhà nước độc tài, đế quốc thực dân, coi
những hành vi đó mới là khủng bố. Khái niệm khủng bố theo Al – Tawhid
mở rộng sang cả các hành vi xâm lược, thực dân… vốn là các tội “đại ác”
được quy định tại Điều 5 đến Điều 8 Quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc
tế. Việc đánh đồng hành vi khủng bố với các hành vi là tội phạm chiến tranh
hay tội ác chống loài người của học giả người Hồi giáo này vô tình làm giảm
đi mức độ nghiêm trọng của các tội phạm quốc tế và nhìn từ góc độ pháp
luật, những quan điểm mang nặng tính chính trị này không giúp gì nhiều cho
sự phát triển của pháp luật quốc tế về đấu tranh chống khủng bố - nhất là sự
ra đời của một định nghĩa chung được cả thế giới thừa nhận.
Trong cuốn sách “Inside terrorism”, Bruce Hoffman cho rằng khủng
bố về cơ bản là bạo lực có ý thức, chuẩn bị sử dụng hoặc sử dụng bạo lực để
đạt được mục đích của mình. Ông cũng phân biệt khủng bố với các loại tội
phạm khác. Theo ông, có thể đánh giá khủng bố theo các tiêu chí sau:
- Bạo lực hoặc đe dọa sử dụng bạo lực;
- Mục tiêu và động cơ chính trị;
- Được dàn dựng để đạt được những tác động tâm lý sâu rộng không chỉ
đối với những nạn nhân trực tiếp của cuộc tấn công;
- Do một tổ chức với mạng lưới thống nhất điều khiển, tiến hành. Đây
phải là nhóm phi quốc gia hoặc thực thể phi quốc gia.
Như vậy, quan điểm của Hoffman trái ngược hẳn với Al – Tawhid khi
cho rằng chủ thể thực hiện hành vi khủng bố không phải là quốc gia mà chỉ

có thể là các nhóm, thực thể phi quốc gia. Hoffman cũng loại hẳn hành vi
10
khủng bố do cá nhân tiến hành. Định nghĩa của Hoffman đưa ra 3 dấu hiệu
để xác định một hành vi là khủng bố, đó là: chủ thể của hành vi - tổ chức phi
quốc gia tuy nhiên không loại trừ các lực lượng đấu tranh đòi tự do; hành vi
khách quan - hành vi bạo lực hoặc đe doạ bạo lực; mục đích của hành vi -
mục đích chính trị. Mục đích chính trị ở đây phải được hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm cả mục tiêu tôn giáo, lý tưởng v.v… Định nghĩa của Hoffman cũng
bị nhiều ý kiến phản đối, nhất là việc không thừa nhận các cuộc đấu tranh
của các lực lượng vũ trang đòi tự do. Hơn thế nữa, về mặt hành vi, định
nghĩa của Hoffman cũng mới chỉ nêu được loại hành vi bạo lực và đe doạ
bạo lực trong khi nhiều người cho rằng thực tế hiện nay đã xuất hiện các
hành vi khủng bố phi bạo lực (khủng bố tin học, sinh học…).
Ở Việt Nam, khi bàn đến định nghĩa khủng bố, quan điểm của các nhà
nghiên cứu lại khá thống nhất. Ví dụ, trong cuốn “Quan hệ quốc tế những
năm đầu thế kỷ XXI: vấn đề, sự kiện và quan điểm” tác giả đồng tình với
cách định nghĩa được nêu ra trong “Đại bách khoa toàn thư” của Trung
Quốc, đó là hành vi của một số cá nhân hoặc tập thể có mục đích chính trị và
xã hội nào đó, sử dụng bạo lực hoặc phi bạo lực tấn công hoặc đe doạ các cơ
quan hoặc cá nhân, hoặc để tạo ra bầu không khí hoảng sợ, giết hại bừa bãi
những người dân vô tội hoặc dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng khác [18,
23]; trong cuốn “Khủng bố và chống khủng bố qua lăng kính báo chí”, tác
giả đưa ra định nghĩa: Khủng bố là hành vi của cá nhân hay tập thể, sử dụng
các thủ đoạn bạo lực hay phi bạo lực tấn công và đe doạ cá nhân, tập thể, cơ
quan, giết hại bừa bãi cả thường dân vô tội để đạt mục đích chính trị, kinh tế
hay xã hội nào đó

[25, 47]. Nhìn chung hai định nghĩa này khá giống nhau,
đây là cách định nghĩa được nhiều học giả trên thế giới thừa nhận và nó
cũng phản ánh trong quan điểm lập pháp một số nước trên thế giới (phân

tích ở phần sau). Định nghĩa này đã chỉ ra 4 vấn đề cơ bản của hành vi
11
khủng bố, đó là: Chủ thể của hành vi khủng bố có thể là cá nhân hoặc tổ
chức; hành vi khủng bố là bạo lực hoặc phi bạo lực; đối tượng tác động của
hành vi đó chính là con người (tính mạng, sức khoẻ) hoặc tài sản; mục đích
của hành vi là mục đích chính trị hoặc xã hội nào đó. Tuy nhiên, định nghĩa
này vẫn còn chưa rõ ràng, chưa hoàn chỉnh, vì chưa chỉ rõ vấn đề đang gây
tranh cãi nhiều nhất hiện nay khi bàn đến định nghĩa khủng bố, đó là: Chủ
thể của hành vi khủng bố là tổ chức có bao gồm các lực lượng quân sự hay
không, có bao gồm hành vi của nhà nước không.
Một xu hướng khác của các nhà nghiên cứu hiện nay khi bàn đến định
nghĩa khủng bố là né tránh nó hoặc phủ nhận một định nghĩa chung về
khủng bố. Ví dụ, tác giả Lại Văn Toàn, một mặt cho rằng “khủng bố là
không thể dung tha và không gì có thể biện minh” thì lại không đưa ra định
nghĩa nào về khủng bố mà tập trung phân tích các nguồn gốc phát sinh nó
[23, 106]. Hay như Rob - học giả người Mỹ trong khi khẳng định không gì
có thể bào chữa cho các hành vi khủng bố thì cũng không đưa ra định nghĩa
khủng bố mà lại đi sâu phân tích các chính sách đối ngoại của Mỹ như một
nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh chủ nghĩa khủng bố [23, 114]. Tiêu cực
hơn trong cuốn sách “Political terrorism”, Alex Schmid cho rằng: Khủng
bố là một khái niệm trừu tượng và không thực tế, một định nghĩa duy nhất
không thể phù hợp cho tất cả các tình huống sử dụng thuật ngữ này

[41, 95].
Norman Solomon – nhà phê bình báo chí người Mỹ thậm chí còn phủ nhận
sự tồn tại của khủng bố mà cho rằng chúng chẳng qua chỉ là sản phẩm trong
chính sách “hai mặt” của Mỹ và phương Tây: “khi bọn khủng bố tấn công,
chúng là khủng bố; khi chúng ta tấn công, chúng ta chỉ trả đũa. Khi chúng
đáp trả lại cuộc trả đũa của ta, chúng lại là khủng bố; khi chúng ta đáp lại
bằng cách có thêm các cuộc tấn công, chúng ta lại chỉ trả đũa” [37, 23].

Tuy nhiên, đây là những quan điểm mang màu sắc chính trị không giúp gì
12
cho việc đấu tranh chống khủng bố vì bất kể nguyên nhân của nó là gì, quốc
gia nào phải chịu trách nhiệm lớn nhất trong việc làm phát sinh nó (mà trong
phạm vi luận văn này không đề cập đến) thì khủng bố hiện nay đang là một
nguy cơ toàn cầu cần sự chung sức của tất cả các quốc gia nhằm loại bỏ nó
ra khỏi đời sống nhân loại. Việc tìm tiếng nói chung trong cuộc đấu tranh
này không gì hiệu quả hơn là việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật quốc tế
và pháp luật mỗi quốc gia về chống khủng bố, mà muốn làm được việc này
thì cần phải tìm ra những điểm tương đồng trong các quan điểm hiện nay để
định nghĩa khủng bố, dựa trên cơ sở coi khủng bố là một loại tội phạm. Việc
định nghĩa một loại tội phạm bao giờ cũng phải căn cứ trước hết vào các
hành vi khách quan cùng các dấu hiệu khác liên quan như chủ thể của hành
vi, động cơ, mục đích v.v… Chúng tôi đồng tình với quan điểm của tác giả –
TS. Trần Quang Tiệp, khi cho rằng “trước hết, phải khẳng định, khủng bố là
hành vi phạm tội trái với pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự các nước
trên thế giới”. TS. Trần Quang Tiệp cũng đưa ra định nghĩa khái niệm này:
“Khủng bố là hành vi có sử dụng hoặc đe doạ sử dụng bạo lực, gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản của người dân nhằm mục
đích gây hoảng loạn trong cộng đồng dân cư, do các cá nhân hoặc tổ chức
thực hiện, trái với pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự của các nước trên
thế giới” [30, 64].
Như vậy, các nhà nghiên cứu hiện nay đều thống nhất cho rằng khủng
bố thực sự là nguy cơ gây ảnh hưởng hòa bình và an ninh quốc tế, cần phải
loại trừ ra khỏi đời sống nhân loại. Khi đưa ra định nghĩa khủng bố các nhà
nghiên cứu cũng chỉ ra được các biểu hiện cơ bản của nó về mặt hành vi, chủ
thể, khách thể, mục đích. Tuy nhiên, vấn đề khác biệt lớn nhất hiện nay giữa
các quan điểm của các nhà nghiên cứu đó là: Chủ thể của hành vi khủng bố
có bao gồm quốc gia, các tổ chức đang đấu tranh giải phóng dân tộc không?
13

1.1.1.2. Quan điểm lập pháp một số nước
Hiện nay, pháp luật hình sự của hầu hết các quốc gia đều quy định tội
khủng bố, tuy nhiên, việc coi những hành vi nào là khủng bố thì giữa các
quốc gia có những khác biệt nhất định.
Tại Việt Nam, các nhà làm luật thiết kế hai tội khủng bố nằm tại hai
chương của Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) với cấu
thành hoàn toàn khác nhau: Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân
(Điều 84 – Chương Các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và tội khủng bố
(Điều 230a – Chương Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng). Định nghĩa khủng bố tại Điều 84 khá hẹp, chỉ bao gồm các hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tự do thân thể của con người với mục đích
làm phương hại chính quyền nhân dân. Định nghĩa khủng bố tại Điều 230a
có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tự
do thân thể con người, các hành vi nhằm huỷ hoại tài sản của cơ quan, tổ
chức, cá nhân nhằm gây ra tình trạng hoảng loạn trong dân chúng. Với cách
quy định hai tội khủng bố với cấu thành khác nhau tại Bộ luật hình sự cho
thấy các nhà làm luật Việt Nam cũng chưa tìm ra được phương án định
nghĩa khủng bố một cách nhất quán.
Một số nước khác như Australia đã xây dựng Luật chống khủng bố
riêng, trong đó quy định cụ thể thế nào là hành vi khủng bố, các hoạt động
điều tra và ngăn ngừa khủng bố v.v Theo đó, hành vi khủng bố là hành
động hoặc lời đe dọa sẽ có hành động được thực hiện nhằm mục đích ép
buộc hoặc gây áp lực với công chúng hoặc bất cứ Chính phủ nào bằng cách
uy hiếp để giành thắng lợi cho một sự nghiệp chính trị, tôn giáo hoặc ý thức
hệ. Hành vi này gây ra:
- Sự chết chóc, xâm hại trầm trọng hoặc gây nguy hiểm cho người;
- Thiệt hại nghiêm trọng tài sản;
14
- Gây tổn hại cho sức khỏe hoặc sự an toàn của công chúng;
- Gây trở ngại nghiêm trọng, làm gián đoạn hoặc phá hủy cơ sơ hạ tầng

then chốt chẳng hạn như mạng viễn thông hoặc mạng điện lực [39].
Như vậy, hành vi khủng bố theo quy định tại Luật chống khủng bố của
Australia có phạm vi khá rộng, không chỉ là các hành vi xâm phạm hoặc đe
dọa xâm phạm tính mạng, sức khỏe mà còn bao gồm các hành vi phá hoại cơ
sở vật chất, hạ tầng, gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản. Các hành vi này
nhằm gây sức ép, gây sự hoảng sợ cho công chúng và chính quyền để đạt
không chỉ mục đích chính trị mà còn cả mục đích tôn giáo và ý thức hệ.
Cách quy định này tại Luật chống khủng bố của Australia tương đối phù hợp
với thực tiễn đấu tranh chống khủng bố quốc tế hiện nay trên thế giới.
Ở Cộng hòa Liên bang Nga, tội khủng bố được quy định tại Điều 202
Bộ luật hình sự, theo đó: “1. Khủng bố tức là thực hiện việc phá hoại, tiêu
hủy, bắn bằng vũ khí nóng hoặc các hành vi khác gây nguy hiểm cho tính
mạng con người, gây thiệt hại đáng kể về tài sản hoặc gây những hậu quả
khác nguy hiểm cho xã hội, nếu những hành động đó được thực hiện nhằm
mục đích vi phạm an toàn công cộng, làm cho nhân dân hoảng sợ hoặc gây
ảnh hưởng đối với cơ quan chính quyền để các cơ quan đó ra những quyết
định cũng như đe dọa thực hiện các hành động nói trên nhằm những mục
đích này”. Hành vi khủng bố quy định tại Bộ luật hình sự của Liên bang Nga
về cơ bản giống với Australia và đây là một trong những cách định nghĩa
được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng vì nó gắn liền với thực tiễn khủng
bố và được nhiều người chấp nhận. Trong định nghĩa của Liên bang Nga thì
hành vi cấu thành tội khủng bố khi nó xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm
nghiêm trọng tính mạng và tài sản của con người và gắn liền với những mục
đích nhất định mà theo tinh thần của điều luật thì đó là mục đích chính trị.
Cùng là mục đích chính trị song mục đích chính trị của hành vi khủng bố
15
theo quy định của pháp luật Liên bang Nga và Australia có sự khác biệt so
với Việt Nam. Theo quy định tại Bộ luật hình sự Việt Nam, nếu là hành vi
nhằm ép buộc chính quyền nhà nước sẽ bị tách riêng để xử lý về các tội xâm
phạm an ninh quốc gia, chỉ các hành vi nhằm gây hoảng loạn trong dân

chúng mới bị xử lý về tội khủng bố (Điều 202 Bộ luật hình sự).
Hầu hết các dấu hiệu: hành vi bạo lực có mục đích chính trị, tôn giáo,
lý tưởng xuất hiện tại hầu hết các định nghĩa về khủng bố trong pháp luật
các nước. Không chỉ định nghĩa của Việt Nam, Liên bang Nga, Australia mà
trong định nghĩa của pháp luật Anh, Ấn Độ đều nhắc tới dấu hiệu này. Ví
dụ: Luật chống khủng bố năm 2000 của Anh định nghĩa:“Khủng bố là việc
sử dụng hay đe dọa sử dụng: a) bạo lực nhằm vào con người hay gây thiệt
hại nghiêm trọng đối với tài sản hay gây nguy hiểm đối với tính mạng của
người khác ngoài người thực hiện hành động đó hay gây nguy hại đối với
sức khỏe hay an toàn của công chúng hoặc một bộ phận công chúng hay
nhằm gây trở ngại hoặc phá hủy hệ thống điện và b) sử dụng hoặc đe dọa sử
dụng bạo lực nhằm gây ảnh hưởng với một chính quyền hay để hăm dọa
công chúng hoặc một bộ phận công chúng và c) sử dụng hoặc đe dọa sử
dụng bạo lực nhằm mục đích thúc đẩy mục tiêu tư tưởng, tôn giáo hay chính
trị” [16, 46].
Ở Ấn Độ, định nghĩa khủng bố được ghi nhận trong Luật Bảo vệ an
ninh quốc gia năm 1986, tại Chương I đoạn Y. Trong pháp luật của Ấn Độ,
người ta định nghĩa khủng bố bằng cách liệt kê các hành vi, bao gồm: việc
sử dụng bom, chất công phá, các chất nổ, chất gây cháy, các loại súng cầm
tay, các loại vũ khí độc hại, các chất độc, khí ga, hóa chất hoặc bất kỳ các
chất khác độc hại mà gây ra hoặc có khả năng gây ra cái chết, chấn thương
cho con người hoặc tiêu hủy tài sản hoặc phá vỡ bất kỳ nguồn cung cấp dịch
vụ thiết yếu cho cuộc sống của cộng đồng. Tính mục đích của các hành vi
16
này cũng được liệt kê, đó là: làm kinh sợ đến Chính phủ; gây kinh hoàng
trong dân chúng; làm dân chúng nổi giận; gây ảnh hưởng bất lợi đến sự hòa
hợp dân tộc
(1)
.
Mỹ là quốc gia chịu hậu quả nặng nề của khủng bố, nhất là ngày

11/9/2001, vụ khủng bố xảy ra tại nước Mỹ đã làm hơn 3.000 người thiệt
mạng. Tội khủng bố đã được ghi nhận tại Mục 22 Bộ luật Liên bang Hoa
Kỳ, đoạn 2656f (d) như sau: “Khủng bố là hành vi bạo lực có chủ ý và mục
đích chính trị nhằm vào các mục tiêu không tham chiến do một nhóm vô
chính phủ, tiểu quốc gia hoặc các tổ chức bí mật tiến hành và luôn nhằm
mục đích gây ảnh hưởng tới người chứng kiến”; “khủng bố quốc tế là
khủng bố nhằm vào công dân hoặc lãnh thổ từ hai quốc gia trở lên”; “nhóm
khủng bố là nhóm thực hiện hoặc có những nhóm nhỏ quan trọng thực hiện
hành động khủng bố”. Khác với Liên bang Nga, Australia, Anh, Ấn Độ và
Việt Nam, hành vi khủng bố theo pháp luật Hoa Kỳ được mở rộng tới mức
tối đa, và hơn thế Hoa Kỳ chỉ ghi nhận hành vi khủng bố được tạo nên bởi tổ
chức, loại hẳn khủng bố do cá nhân đơn lẻ tiến hành. Định nghĩa này của Mỹ
hàm chứa ý đồ chính trị rất lớn, đó là dán nhãn khủng bố những tổ chức
đang đấu tranh giải phóng dân tộc và không thừa nhận hình thức chiến tranh
du kích. Khi đưa ra định nghĩa khủng bố là các hành vi bạo lực có chủ ý
nhằm vào các mục tiêu không tham chiến (non-combatant), chính phủ Mỹ đã
gộp cả các hành vi tấn công vào các quan chức quân sự và an ninh ngoài thời
gian thực hiện công vụ, các mục tiêu phục vụ cho quân đội nhưng hiện trong
1()
Chương I, đoạn Y Luật Bảo vệ an ninh quốc gia năm 1986 Ấn Độ định nghĩa: “khủng bố là bất kỳ người
nào với ý định làm kinh sợ đến Chính phủ như pháp luật đã quy định, hay gây kinh hoàng trong dân chúng
hoặc bất kỳ bộ phận dân chúng nào hoặc làm nổi giận bất kỳ bộ phận dân chúng nào, hoặc gây ảnh hưởng
bát lợi đến sự hòa hợp giữa các bộ phận dân chúng khác nhau, gây ra bất kỳ hành động hay việc làm bằng
cách sử dụng bom, chất công phá, hoặc các chất nổ, hoặc chất gây cháy, hoặc các loại súng cầm tay hay
các loại vũ khí độc hại, hoặc chất độc, hoặc khí ga độc hại, hoặc các hóa chất , hoặc bất kỳ các chất khác
(cho dù sinh học hay dạng khác) mang tính độc hại, trong đó như là một cách để gây ra cái chết, hoặc
chấn thương bất kỳ người nào hoặc nhiều người, hoặc gây thiệt hại hoặc tiêu hủy tài sản, hoặc gây phá vỡ
bất kỳ nguồn cung cấp hoặc dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống của cộng đồng", xem website:
- 21k -
17

trạng thái không trực tiếp phục vụ cho quân đội là khủng bố. Và người Mỹ
nêu ví dụ là vụ tấn công vào tàu quân sự USS Cole tại cảng Aden, Yemen
được coi là một vụ khủng bố cho dù tàu này là tàu quân sự [16, 57]. Định
nghĩa của Mỹ thực chất đưa ra tiêu chuẩn về một “cuộc chiến quân tử” giữa
quân đội quốc gia và du kích, giữa quân đội xâm lược, chiếm đóng và lực
lượng kháng chiến mà nếu tuân theo tiêu chuẩn này các lực lượng mà Mỹ
xem là đối phương ắt sẽ nhanh chóng bị đánh bại.
Ở các nước đã xây dựng luật riêng về chống khủng bố như Liên bang
Nga, Mỹ, Australia hay Anh… thì bên cạnh việc đưa ra định nghĩa về khủng
bố các nước này còn lập một bảng danh sách các tổ chức khủng bố. Các
bảng danh sách này được cập nhật thường xuyên bằng các đạo luật.
Bên cạnh các nước định nghĩa về khủng bố một cách cụ thể trong Bộ
luật hình sự thì có một nhóm nước khác không đưa ra định nghĩa khủng bố,
ví dụ Thụy Điển, Trung Quốc, Nhật Bản… Có ý kiến cho rằng “trong Bộ
luật hình sự Nhật Bản, tội khủng bố không được quy định riêng mà được
quy định trong nhiều điều luật như Điều 108: Tội gây hỏa hoạn đối với
những công trình xây dựng, phương tiện đang có người; Điều 109: Tội gây
hỏa hoạn đối với công trình xây dựng, phương tiện không có người ở; Điều
117: Tội gây nổ; Điều 119: Tội làm hư hỏng các công trình, phương tiện
bằng cách gây lũ lụt; Điều 126: Tội lật đổ tàu hỏa… Tương tự như vậy,
trong Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, tội khủng bố không được quy
định riêng mà nằm rải rác tại các Điều 1, 2, 3, 4, 5, 5a, 8, 8a Chương XIII”
[30, 64]. Tuy nhiên, theo chúng tôi thì không có căn cứ nào để cho rằng các
hành vi nêu trên tại Bộ luật hình sự Nhật Bản và Bộ luật hình sự Vương
quốc Thụy Điển là khủng bố. Nếu cho rằng các hành vi đó là khủng bố thì
đã đánh đồng các hành vi phạm tội khủng bố và các hành vi cấu thành các
tội “xâm phạm an toàn công cộng” bình thường khác. Thực tế Chương XIII
18
Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định về “Các tội xâm phạm an
toàn công cộng”, ví dụ tại Điều 1 Chương này quy định: “Người nào phát

hỏa gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của người khác hoặc gây thiệt
hại nghiêm trọng cho tài sản của người khác thì bị phạt tù từ 2 năm đến 8
năm về tội gây hỏa hoạn”; Điều 4 quy định: “Người nào hủy hoại hoặc cố ý
làm hư hỏng tài sản có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền tư pháp của
Vương quốc, sự tồn tại của xã hội, nền tư pháp và nền hành chính quốc gia,
hoặc có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc duy trì trật tự, an toàn xã hội
của Vương quốc, hoặc có hành vi khác gây cản trở nghiêm trọng hoặc can
thiệp vào việc sử dụng tài sản đó thì bị kết án về tội phá hoại…” Theo chúng
tôi, khi mà cộng đồng quốc tế vẫn chưa tìm được định nghĩa rõ ràng và được
chấp nhận rộng rãi về khủng bố thì việc một số nước như Thụy Điển hay
Trung Quốc và Nhật Bản… cũng chưa đưa ra và ghi nhận tội khủng bố trong
Luật hình sự cũng là điều dễ hiểu.
Qua nghiên cứu pháp luật một số quốc gia quy định về khủng bố, có thể
thấy một số điểm chung như sau: Thứ nhất, đều định nghĩa khủng bố từ dấu
hiệu hành vi bên cạnh các dấu hiệu khác có liên quan. Đây là điều dễ hiểu
xuất phát từ quan điểm chung coi khủng bố là một tội phạm nguy hiểm cần
loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội – mà việc định nghĩa một tội phạm bao giờ
cũng phải lấy dấu hiệu hành vi làm trung tâm. Hành vi khủng bố theo quy
định của pháp luật hầu hết các nước trên thế giới là hành vi bạo lực, đe dọa
sử dụng bạo lực. Tuy nhiên, cũng có một số nước như Liên bang Nga hay
Ấn Độ quy định hành vi khủng bố không nhất thiết phải mang tính bạo lực
mà có thể là các hành vi khác gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại về tài
sản, tính mạng con người có mục đích chính trị, tôn giáo – các hành vi tin
tặc, khủng bố sinh học Đây là những quy định phù hợp với xu hướng các
hành vi khủng bố trên thực tế hiện nay (các vụ khủng bố sinh học của giáo
19
phái Aum ở Nhật Bản) và trong tương lai khi “các cơ sở công nghệ thông
tin là hệ thần kinh của nền kinh tế”

[19]. Thứ hai, về đối tượng tác động của

các loại hành vi này có thể là con người hoặc tài sản. Thứ ba, các hành vi
khủng bố bao giờ cũng gắn liền với mục đích chính trị, tôn giáo được thực
hiện nhằm gây hoảng sợ cho người chứng kiến từ đó ép buộc Chính phủ
hoặc bộ phận dân chúng phải hành động hoặc không hành động theo yêu cầu
của cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi.
1.1.1.3. Định nghĩa khủng bố theo quy định tại các điều ước quốc tế
về đấu tranh chống khủng bố
Hiện nay, trong khuôn khổ Liên hợp quốc và các tổ chức thành viên
(ICAO, IMO, IAEA…) có 13 điều ước quốc tế đa phương về chống khủng
bố đã được thông qua. Công ước chung về chống khủng bố quốc tế mặc dù
được tiến hành xây dựng từ năm 1996
(2)
đến nay vẫn đang nằm dưới dạng
Dự thảo vì đang còn nhiều ý kiến bất đồng xung quanh vấn đề định nghĩa
khủng bố. Ở cấp độ khu vực cũng có 8 điều ước quốc tế được ký kết. Ngoài
ra còn rất nhiều các hiệp định quốc tế song phương và các nghị quyết của
Đại hội đồng, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp chống khủng
bố. Với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố
tương đối lớn tuy nhiên chưa văn bản nào đưa ra được định nghĩa rõ ràng,
toàn diện về khủng bố.
Có thể nói, định nghĩa về khủng bố đầu tiên xuất hiện tại một điều
ước quốc tế đa phương là định nghĩa được nêu ra trong Công ước về ngăn
ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế năm 1937 (còn gọi là Công ước Giơnevơ
1937). Theo Công ước Giơnevơ 1937 thì khủng bố là việc thực hiện các
hành vi phá hoại, hành vi gây nguy hiểm cho nhiều người, việc vận chuyển,
chuyển giao, cố ý sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả mạo, các hành vi ám sát
2()
Cho đến cuối năm 2006, Liên Hợp quốc đã đi đến một Dự thảo Công ước tương đối hoàn chỉnh.
20
nguyên thủ quốc gia và các nhà lãnh đạo của quốc gia khác…[24, 47]. Tuy

nhiên, do không hội đủ số lượng thư phê chuẩn nên Công ước đã không phát
sinh hiệu lực.
Trong 13 công ước quốc tế đa phương trong khuôn khổ Liên hợp quốc
về đấu tranh chống khủng bố thì chỉ có 3 Công ước trực tiếp nhắc đến khái
niệm “khủng bố” (“terrorism”) ngay tại tiêu đề đó là: Công ước về trừng trị
khủng bố bằng bom năm 1997 ký tại New York (International convention
for the suppression of terrorist bombings); Công ước về trừng trị việc tài trợ
cho khủng bố năm 1999 ký tại New York (International convention for the
suppression of the financing of terrorism); Công ước quốc tế về ngăn chặn
các hành vi khủng bố hạt nhân năm 2005 ký tại New York (International
convention for the suppression of acts of nuclear terrorism). Các công ước
còn lại quy định về những tội phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được
coi như là biểu hiện của khủng bố quốc tế. Ví dụ, tại phần cam kết mở đầu
Công ước quốc tế về chống bắt cóc con tin năm 1979 ghi nhận: “Xét rằng
việc bắt cóc con tin là một tội phạm gây lo ngại sâu sắc cho cộng đồng quốc
tế ; Nhận thấy rõ sự cấp thiết phải phát triển hợp tác quốc tế giữa các quốc
gia trong việc đưa ra các sáng kiến và sử dụng các biện pháp hữu hiệu để
ngăn chặn, truy tố và trừng trị tất cả các hành vi bắt con tin như là những
biểu hiện của khủng bố quốc tế”; hay như Công ước về việc đánh dấu chất
nổ dẻo để nhận biết năm 1991 ghi nhận tại phần mở đầu: “Bày tỏ mối lo
ngại sâu sắc đối với các hành vi khủng bố nhằm phá hoại tàu bay, các
phương tiện giao thông và các mục tiêu khác; Lo ngại rằng các vật nổ dẻo
vẫn được sử dụng cho các hành vi khủng bố như vậy; Xét rằng việc đánh
dấu vật liệu nổ dẻo để nhận biết sẽ góp phần quan trọng vào việc ngặn các
hành vi bất hợp pháp đó” Trong các công ước quốc tế đa phương trong
khuôn khổ Liên hợp quốc hiện nay chỉ có Công ước năm 1999 về trừng trị
21
việc tài trợ khủng bố là đưa ra định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về khủng bố,
các công ước còn lại chỉ đưa ra định nghĩa về từng tội phạm cụ thể thuộc
phạm vi điều chỉnh của Công ước. Công ước quốc tế về trừng trị các hành vi

tài trợ khủng bố năm 1999 bên cạnh việc định nghĩa hành vi tài trợ khủng bố
đã gián tiếp quy định thế nào là khủng bố. Theo Công ước này thì khủng bố
là bất kỳ hành vi nào cấu thành tội phạm được quy định tại các công ước về
đấu tranh chống khủng bố còn lại (được quy định tại phụ lục) hoặc “bất kỳ
hành vi nào khác với ý định giết hại hoặc làm bị thương nghiêm trọng đến
thân thể thường dân, hoặc bất kỳ người nào khác không tham gia vào chiến
sự trong bối cảnh xung đột vũ trang, nếu mục đích của hành vi này về bản
chất hoặc bối cảnh xảy ra là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một
chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất
kỳ hành vi nào” (Điều 2). 12 công ước quốc tế về trừng trị khủng bố còn lại
chỉ đưa ra định nghĩa về từng hành vi phạm tội cụ thể thuộc phạm vi điều
chỉnh của công ước, ví dụ, khủng bố bằng bom là việc: “ném, đặt làm nổ
hoặc kích nổ một cách bất hợp pháp và cố ý một thiết bị gây nổ hoặc gây
chết người khác tại, vào, hoặc chống lại một địa điểm công cộng, một trang
thiết bị của nhà nước hoặc Chính phủ, một hệ thống giao thông công cộng
hoặc cơ sở hạ tầng” (Điều 2 Công ước năm 1997 về việc trừng trị việc
khủng bố bằng bom). Theo Công ước về ngăn ngừa các hành vi khủng bố
hạt nhân năm 2005 thì “một người bị coi là phạm tội khủng bố hạt nhân nếu
người đó, một cách có chủ định và bằng con đường bất hợp pháp sở hữu
nguyên liệu phóng xạ, chế tạo hay sở hữu thiết bị hạt nhân với mục đích gây
thương vong lớn hay nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng hay môi trường; sử dụng
nguyên liệu hay thiết bị phóng xạ, sử dụng hoặc phá hoại cơ sở hạt nhân để
tạo ra sự rò rỉ phóng xạ gây thương vong lớn, nhằm phá hoại cơ sở hạ tầng
hay môi trường để ép buộc thể nhân hay pháp nhân, tổ chức quốc gia hay
22
quốc gia phải thực hiện hay không thực hiện hành động nào đó” (Điều 2
Công ước). Các hành vi này bị ngăn chặn và trừng trị mà không cần kèm
theo bất cứ mục đích gì là dấu hiệu định tội tuy nhiên, có một số công ước
quy định tính mục đích là một trong những tình tiết làm tăng thêm tính chất
nghiêm trọng của hành vi, ví dụ Điều 5 Công ước trừng trị việc khủng bố

bằng bom năm 1997 nhấn mạnh việc ngăn chặn “các hành vi phạm tội có ý
đồ hoặc tính toán nhằm gây ra trạng thái hoảng loạn trong công chúng nói
chung, hoặc trong một nhóm người hoặc một số người cụ thể, dù trong hoàn
cảnh nào đều không thể biện minh được bằng những suy xét có tính chất
chính trị, triết học, tư tưởng, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo hoặc tính chất
tương tự nào khác và sẽ bị trừng trị bằng các hình phạt phù hợp với tính
chất nghiêm trọng của các hành vi phạm tội đó”.
Các Nghị quyết của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc về các biện pháp
phòng chống khủng bố cũng không đưa ra định nghĩa nào về vấn đề này.
Đặc biệt Nghị quyết số 1373 ngày 28/9/2001 làm cơ sở ra đời Uỷ ban chống
khủng bố thuộc Hội đồng bảo an Liên hợp quốc mặc dù kêu gọi “các quốc
gia hợp tác khẩn thiết nhằm phòng và trấn áp các hành động khủng bố,
thông qua sự tăng cường hợp tác và thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế
liên quan đến chủ nghĩa khủng bố” cũng không đưa ra định nghĩa khủng bố.
Các điều ước quốc tế khu vực hầu hết cũng không đưa ra được định
nghĩa khủng bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác đấu tranh chống
khủng bố đều dẫn ra những hành vi được quy định tại 13 công ước quốc tế
đa phương của Liên hợp quốc. Ví dụ, Công ước của châu Âu về chống
khủng bố năm 1977 ngay tại Điều 1 đã đưa ra các hành vi thuộc phạm vi đấu
tranh của Công ước, yêu cầu các quốc gia thành viên phải tội phạm hoá, đó
là các hành vi được nêu trong Công ước năm 1970 về trừng trị việc chiếm
giữ bất hợp pháp tàu bay; Công ước năm 1971 về việc trừng trị các hành vi
23
bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng; Công ước về việc
ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại những người dược hưởng bảo
hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao năm 1973. Thời gian ký kết công
ước này thì Công ước về chống bắt cóc con tin năm 1979 hay Công ước
trừng trị khủng bố bằng bom năm 1997 chưa ra đời, tuy nhiên các tội phạm
nghiêm trọng liên quan đến bắt cóc, giam giữ trái phép, tội phạm nghiêm
trọng liên quan đến việc sử dụng bom, lựu đạn, rocket, súng tự động, bom

thư đã được liệt kê trong Công ước. Gần đây nhất, vào tháng 11/2007 tại
Cebu, các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á (ASEAN) đã ký Hiệp ước
chung về chống khủng bố (ASEAN Convention on Counter Terrorism). Tại
Điều 2 Hiệp ước này quy định về “Những hành vi phạm tội khủng bố” đã ghi
nhận các hành vi theo 13 Công ước đa phương về đấu tranh chống khủng bố
trong khuôn khổ Liên hợp quốc: “Đối với các mục đích của Công ước này,
tội phạm có nghĩa là bất kỳ hành vi phạm tội trong phạm vi được liệt kê như
sau:
- Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay năm
1970 ký tại La Haye;
- Công ước về trừng trị những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn
hàng không dân dụng năm 1971 tại Montreal;
- Công ước về ngăn chặn và trừng trị các tội phạm chống lại những
người được bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao năm 1973, ký tại
New York;
- Công ước về chống bắt cóc con tin năm 1979 ký tại New York;
- Công ước về bảo vệ an toàn vật liệu hạt nhân năm 1979 ký tại Viên;
- Nghị định thư về trừng trị các hành vi bạo lực bất hợp pháp tại cảng
hàng không dân dụng quốc tế năm 1988 ký tại Montreal;
24
- Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn
hành trình hàng hải năm 1988 ký tại Rome;
- Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại những
công trình trên thềm lục địa năm 1988 ký tại Rome;
- Công ước về trừng trị khủng bố bằng bom năm 1997 ký tại New
York;
- Công ước về trừng trị việc tài trợ cho khủng bố năm 1999 ký tại
New York;
- Công ước năm 2005 (sửa đổi Công ước năm 1980) về bảo vệ an
toàn vật liệu hạt nhân ký tại Viên;

- Công ước về trừng trị các hành vi khủng bố bằng hạt nhân năm
2005 ký tại New York;
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Công ước về ngăn chặn các hành
vi phi pháp chống lại an toàn hàng hải (Protocol of 2005 to the Convention
for the Suppression of Unlawful Acts Against the Safety of Maritime
Navigation);
- Nghị định thư năm 2005 bổ sung Nghị định thư về trừng trị những
hành vi bất hợp pháp chống lại những công trình trên thềm lục địa ký tại
London ngày 14/10/2005 (Protocol of 2005 to the Protocol for the
Suppression of Unlawful Acts Against the Safety of Fixed Platforms Located
on the Continental Shelf, done at London on 14 October 2005)”[40].
Như vậy, hiện nay cộng đồng quốc tế vẫn chưa có định nghĩa chung
về khủng bố mà mới chỉ ghi nhận một số hành vi nhất định là biểu hiện của
khủng bố và các biện pháp để hợp tác đấu tranh chống lại các hành vi đó.
Điều này đã và đang gây ra những khó khăn cho công tác đấu tranh phòng,
chống khủng bố ở từng quốc gia nói riêng và cho quá trình hợp tác trong
phạm vi từng khu vực và trên toàn cầu nói chung.
25

×