Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Giáo trình chuyên đề kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.03 KB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
CHUYÊN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
(Dành cho Sinh viên ngành Giáo dục chính trị-Hệ chính quy)

Tác giả: Th.S Nguyễn Thị Hương Liên

Năm 2017

1


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU-----------------------------------------------------------------------------3
CHUYÊN ĐỀ 1 LÝ LUẬN MÁC - LÊNIN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM
1.1 Sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường…………………………...4
1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam………………..7
1.3 Thực trạng và các giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế t định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam………………………………………………………10
CHUYÊN ĐỀ 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
2.1 Quan điểm và bản chất của công nghiệp hóa……………………………….18
2.2 Một số mô hình và kinh nghiệm về công nghiệp hóa trên thế giới…………20
2.3 Quan điểm của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời kỳ quá độ
lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam………………………………………………..43


CHUYÊN ĐỀ 3 SỞ HỮU TƯ LIỆU SẢN XUẤT VÀ NỀN KINH TẾ NHIỀU
THÀNH PHẦN KINH TẾ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI
3.1 Sở hữu và cơ cấu sở hữu………………………………………………........59
3.2 Sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam………………………………………………………………………………..59
3.3 Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội………………………………………………………………………………65
CHUYÊN ĐỀ 4 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÂN PHỐI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
4.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về phân phối………………………72
4.2 Vấn đề phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa……………………………………………………………………………...75
4.3 Quan điểm, giải pháp hoàn thiện cơ chế phân phối nhằm bảo đảm công bằng
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ………..83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2


LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho một tổ hợp các khoa học kinh tế.
Những kết luận của kinh tế chính trị biểu hiện ở các phạm trù và quy luật kinh tế
có tính chất chung là cơ sở lý luận của các môn kinh tế chuyên ngành và các
môn kinh tế chức năng, nó là cơ sở lý luận cho một số môn khoa học khác. Vì
thế, kinh tế chính trị Mác - Lênin cần phải phát hiện bản chất của các hiện tượng,
quá trình kinh tế của đời sống xã hội, tìm ra các quy luật chi phối sự vận động
của chúng, giúp con người vận dụng các quy luật kinh tế một cách có ý thức vào
hoạt động kinh tế nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội cao. Từ việc nghiên cứu các
hiện tượng và các quá trình kinh tế của đời sống xã hội, phát hiện ra bản chất,

các quy luật chi phối và cơ chế hoạt động của các quy luật, từ đó kinh tế chính trị
cung cấp những luận cứ khoa học để hoạch định đường lối, chính sách và biện
pháp kinh tế. Đường lối, chính sách và các biện pháp kinh tế dựa trên những luận
cứ khoa học đúng đắn đã nhận thức được sẽ đi vào cuộc sống làm cho hoạt động
kinh tế có hiệu quả cao hơn nhiều.
Tài liệu cung cấp cho sinh viên cách nhìn tổng quan về kinh tế thị trường và
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Một số vấn đề cơ bản về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam; Sở hữu tư liệu sản xuất và nền kinh tế
nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Một số vấn đề cơ
bản về phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

3


NỘI DUNG
CHUYÊN ĐỀ 1
LÝ LUẬN MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
1.1. Sự hình thành và phát triển của kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là cách tổ chức nền kinh tế - xã hội trong đó, các quan hệ
kinh tế của các cá nhân, các doanh nghiệp đều biểu hiện qua mua bán hàng hóa,
dịch vụ trên thị trường và thái độ cư xử của từng thành viên chủ thể kinh tế là
hướng vào việc kiếm lợi ích của chính mình theo sự dẫn dắt của thị trường.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, khi tất cả các
quan hệ kinh tế trong quá trình phát triển sản xuất xuất hiện đều được tiền tệ hoá,
các yếu tố của sản xuất như: đất đai và tài nguyên, vốn bằng tiền và vốn vật chất,
sức lao động, công nghệ và quản lý, các sản phẩm và dịch vụ tạo ra, chất xám
đều là đối tượng mua bán, là hàng hóa.
Tóm lại: Kinh tế thị trường là một trong những phương thức tồn tại của nền

kinh tế mà trong đó các quan hệ kinh tế đều được biểu hiện thông qua quan hệ
hàng hoá - thị trường. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế
hàng hoá.
1.1.2. Các bước phát triển của kinh tế thị trường
1.1.2.1. Từ nền kinh tế tự nhiên chuyển sang nền kinh tế hàng hoá giản đơn
Bước đi tất yếu của sản xuất tự cung, tự cấp là tiến lên sản xuất hàng giản đơn.
Điều kiện cho quá trình chuyển hoá này là sự phát triển của phân công xã hội.
Phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hoá. Họ trở thành những người sản
xuất hàng hoá. Trao đổi, mua bán, thị trường, tiền tệ ra đời và phát triển
Sản xuất hàng hoá ra đời, lúc đầu dưới hình thức sản xuất hàng hoá nhỏ, giản
đơn, nhưng là một bước tiến lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại
1.1.2.2. Từ nền kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển sang nền kinh tế tự do cổ
điển
Quá trình chuyển từ nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế tự do cổ điển được
thực hiện qua ba giai đoạn phát triển cả về lực lượng sản xuất, cả về quan hệ sản
xuất mới thích ứng với từng bước phát triển của lực lượng sản xuất.
- Kỹ thuật thủ công dựa trên lao động hiệp tác giản đơn:
Trong giai đoạn hiệp tác giản đơn, công nhân phụ thuộc vào nhà tư bản về kinh
tế nhưng vẫn còn độc lập về mặt kỹ thuật. Để tổ chức hiệp tác lao động, bước
4


đầu tiên phải tập trung tư liệu sản xuất, trên cơ sở đó tập trung sức lao động. Với
sản xuất quy mô lớn, trong hiệp tác giản đơn, phải mua nguyên liệu và buôn bán
hàng hoá, do đó đã làm xuất hiện một mạng lưới mua gồm nguyên liệu và bán lẻ
hàng hoá, từ đó thúc đẩy việc sản xuất và trao đổi sâu rộng trong xã hội. Hiệp tác
giản đơn đã bước đầu làm xuất hiện sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, nâng cao
năng suất lao động xã hội lên rất nhiều. Việc hiệp tác giản đơn làm xuất hiện sản
xuất lớn về mặt quy mô là một bước ngoặt rất quan trọng từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn.

- Phân công công trường thủ công Tư bản chủ nghĩa
Sự phát triển của hiệp tác giản đơn tư bản chủ nghĩa tất yếu dẫn tới hiệp tác có
phân công, làm xuất hiện các công trường thủ công tư bản chủ nghĩa. Công
trường thủ công là hình thức xí nghiệp tư bản thực hiện sự hiệp tác có phân công
dựa trên cơ sở kỹ thuật thủ công. Đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật của công
trường thủ công là: Quá trình sản xuất được phân chia thành những giai đoạn,
những công việc bộ phận để có sản phẩm hoàn chỉnh, trên cơ sở đó mỗi công
nhân chỉ chuyên làm một công việc bộ phận. Đặc điểm của sự phân công này là
chuyên môn hoá hẹp.
Cơ cấu tổ chức của công trường thủ công là những người lao động bộ phận, sử
dụng công cụ chuyên dùng thích ứng, hợp thành lao động tập thể.
- Đại công nghiệp cơ khí
Trên cơ sở kỹ thuật thủ công, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không thể
được xác lập một cách hoàn chỉnh và phát triển vững chắc. Máy móc được sử
dụng phổ biến trong xã hội thông qua cuộc cách mạng công nghiệp. Đó là cuộc
các mạng kỹ thuật thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc.
Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy cơ khí hoá ở các
ngành liên quan. Cơ khí hoá trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp thúc đẩy
cơ khí hoá ngành giao thông vận tải… cơ khí hoá bắt đầu từ ngành công nghiệp
nhẹ đến các ngành công nghiệp nặng. Máy móc và đại công nghiệp có tác dụng
chủ yếu làm năng suất lao động xã hội tăng vọt, xã hội hoá lao động và sản xuất
ngày càng cao, mở rộng thị trường, thúc đẩy sự ra đời của các trung tâm công
nghiệp và những thành thị lớn; đồng thời, tạo ra những tiền đề vật chất kỹ thuật.
1.1.2.3. Từ nền kinh tế thị trường tự do chuyển sang nền kinh tế thị trường
hỗn hợp
Xuất phát từ những khuyết tật của cơ chế thị trường:
5


Do chạy theo lợi nhuận cho nên các doanh nghiệp thường gây ô nhiễm môi

trường, thường khai thác tài nguyên một cách bừa bãi dẫn tới làm mất cân bằng
sinh thái mà doanh nghiệp không phải đền bù một khoản thiệt hại nào.
Cơ chế thị trường dễ làm xuất hiện căn bệnh: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp,
lạm phát và suy thoái.
Cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hóa giàu nghèo, dễ phát sinh những tiêu cực
xã hội.
Kinh tế thị trường là một bước phát triển sau của kinh tế tự nhiên và khi kinh tế
hàng hoá phát triển tới trình độ cao thì đó chính là kinh tế thị trường. Trong cơ
chế thị trường thì do những khuyết tật của nó dẫn đến phá vỡ cân đối của nền
kinh tế, gây lãng phí nhiều nguồn lực: tư liệu sản xuất, lao động, tạo ra sự phân
hóa xã hội. Vì vậy nhà nước phải có vai trò nhất định để khắc phục những nhược
điểm trên.
Trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kì tự do cạnh tranh thì kinh tế
thị trường phát triển theo tư tưởng lý thuyết bàn tay vô hình, nghĩa là nhà nước
không can thiệp kinh tế. Điều đó dẫn đến việc khủng hoảng kinh tế sau này
(1929 - 1933). Vì vậy đã xuất hiện lý thuyết kinh tế của Keyes yêu cầu nhà nước
phải can thiệp kinh tế và đến năm 1948 đã xuất hiện lý thuyết về nền kinh tế hỗn
hợp trong đó có sự kết hợp của hai nhân tố: sự điều tiết của thị trường (Bàn tay
vô hình) và sự can thiệp của chính phủ (Bàn tay hữu hình) và cả hai nhân tố này
đều tác động vào nền kinh tế.
Nhà nước có chức năng:
Định hướng sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật .
Thiết lập về một khuôn khổ về pháp luật, xây dựng hệ thống cơ sở nhất quán
tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho kinh tế phát triển.
Hạn chế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.
Trực tiếp đầu tư một số lĩnh vực của nền kinh tế: những ngành kinh tế công
cộng, năng lượng, cầu nhiều vốn….
Quản lý và bảo vệ tài sản công, kiểm kê, kiểm soát hoạt động kinh tế - xã hội.
Phân phối hợp lý các nguồn lực sản xuất.

1.1.3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường
Thị trường có những đặc trưng chủ yếu sau:
Thứ nhất, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất
kinh doanh, nhưng có sự cạnh tranh gay gắt giữa các chủ thể kinh tế tham gia thị
6


trường nhằm giành giật những điều kiện kinh doanh thuận lợi. Trong đó, tất yếu
sẽ có người được và người thua. Tuy nhiên, cần phân biệt cạnh tranh lành mạnh
và cạnh tranh không lành mạnh.
Thứ hai, giá cả do thị trường quyết định. Giá cả là phạm trù kinh tế trung tâm,
là công cụ quan trọng thông qua cung cầu để kích thích và điều tiết hoạt động
kinh tế của các chủ thể kinh tế tham gia thị trường. Sự biến động của cung cầu
kéo theo sự biến động của giá cả thị trường và ngược lại, giá cả thị trường cũng
điều tiết cung cầu. Hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có tác dụng
làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh
vực của nền kinh tế.
Thứ ba, nền kinh tế vận động theo những qui luật vốn có của kinh tế thị trường
như qui luật giá trị, qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh…Sự tác động của các
qui luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế.
Thứ tư, đối với nền kinh tế thị trường hiện đại cần có sự điều tiết vĩ mô của
nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. Tính
hiệu quả của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một thị trường hoàn chỉnh –
thị trường xã hội thống nhất, là một thị trường đồng bộ giữa các loại thị trường
(thị trường lực lượng sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vốn, kĩ thuật, sức lao động… )
và có luật pháp thương mại chi phối.
Trong nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lí của nhà nước, căn cứ vào thị trường, các doanh nghiệp sẽ quyết
định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai với số lượng là bao
nhiêu.

1.2. Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà
nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Hay có thể
nói, kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường, trong
đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị
trường. Điều kiện ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hoá cũng như các trình độ
phát triển của nó do sự phát triển của lực lượng sản xuất tạo ra. Kinh tế hàng hoá
phát triển ở hai trình độ khác nhau:
7


Ở giai đoạn thấp, còn gọi là kinh tế hàng hoá giản đơn, dựa trên sở hữu tư nhân
nhỏ về tư liệu sản xuất, kết hợp với sức lao động cá nhân, trình độ lao động thấp,
năng suất lao động không cao.
Giai đoạn cao, kinh tế hàng hoá phát triển với qui mô lớn dựa trên cơ sở sản
xuất lớn bằng máy móc, năng suất lao động cao, bao gồm kinh tế hàng hoá
TBCN và kinh tế hàng hoá XHCN. Kinh tế hàng hoá qui mô lớn vận động theo
yêu cầu các qui luật kinh tế khách quan trên thị trường người ta gọi là nền kinh
tế thị trường.
Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và
bản chất nhưng không đồng nhất với nhau. Chúng khác nhau về trình độ phát
triển.
1.2.2. Tính tất yếu khách quan
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được
thực hiện trên thị trường thông qua mua và bán.
Ở nước ta, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, những điều kiện chung của nền
kinh tế hàng hoá vẫn tồn tại. Do đó tồn tại kinh tế hàng hoá ở nước ta là một tất

yếu khách quan. Những điều kiện đó là:
+ Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hoá vẫn tồn
tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thể hiện ở chổ các
ngành nghề nước ta ngày càng đa dạng, phong phú và chuyên môn hóa sâu góp
phần phá vỡ tính chất tự cung, tự cấp của nền kinh tế trước đây và thúc đẩy kinh
tế hàng hoá phát triển mạnh hơn.
+ Sự tồn tại và phát triển của nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu
tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Là điều kiện tất yếu cho sự
tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá. Bởi vì sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của
riêng họ, cho nên các chủ thể trong nền kinh tế khi cần sản phẩm của nhau tất
yếu phải thông qua con đường trao đổi, mua bán.
1.2.3. Tác dụng của sự phát triển kinh tế thị trường
- Phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường ở nước ta có lợi ích:
+ Nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, muốn phát triển lực lượng sản xuất
phải xã hội hoá và chuyên môn hóa lao động. Quá trình đó chỉ có thể diễn ra một
cách thuận lợi trong nền kinh tế hàng hoá, thông qua sự trao dổi hàng hoá giữa
các đơn vị sản xuất để đảm bảo những nhu cầu cần thiết của các hoạt động sản
xuất khác nhau.
+ Chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát
8


triển năng động. Sử dụng kinh tế thị trường buộc các chủ thể kinh tế buộc phải
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật giá trị,
quy luật cung cầu. Cho nên cần phải chủ động, sáng tạo, cải tiến kỹ thuật để tăng
năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm.
+ Phát triển kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế phù hợp với lực
lượng sản xuất của nước ta. Một mặt tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, mặt khác
cho phép khai thác tối đa các tiềm năng để phát triển.
+ Qua cạnh tranh trên thị trường, những nhân tài quản lý kinh tế và lao động

thành thạo xuất hiện ngày càng nhiều. Đó là một dấu hiệu quan trọng của tiến bộ
kinh tế.
1.2.4. Đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt
Nam
1.2.4.1. Đặc trưng về mục tiêu phát triển kinh tế thị trường
Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. Thiết lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất
XHCN. Nghĩa là chúng ta không chỉ quan tâm phát triển kinh tế đơn thuần mà
còn phải chú trọng đến các vấn đề xã hội, thực hiện đồng thời mục tiêu tăng
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội. Làm cho dân giàu nước mạnh với
thực hiện dân chủ và công bằng xã hội.
1.2.4.2. Đặc trưng về chế độ sở hữu
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến một nền kinh tế với sự đa dạng về các
hình thức sở hữu: sở hữu tư nhân, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước. Vì vậy, đa
dạng hoá sở hữu là vấn đề tất yếu và do đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác
nhau. Tuy nhiên, khác với nền kinh tế thị trường TBCN dựa trên sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất, thì trong nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở
hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Từ sự đa dạng về các hình thức sở hữu dẫn đến đa
dạng các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế này vừa cạnh tranh vừa hợp
tác với nhau.
1.2.4.3. Đặc trưng về quan hệ phân phối
Chính sự đa dạng về các hình thức sở hữu dẫn đến tồn tại nhiều hình thức phân
phối. Không như nền KTTT TBCN lấy phân phối theo tư liệu sản xuất và theo
vốn là chủ yếu, trong nền KTTT định hướng XHCN chủ yếu thực hiện phân phối
theo lao động, ngoài ra còn có nhiều hình thức phân phối khác như: phân phối
theo nguồn lực đóng góp, phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội và tập thể.
9



Nhà nước phải có chính sách điều tiết sao cho phù hợp để đảm bảo tính công
bằng cũng như làm giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập trong xã hội.
1.2.4.4. Đặc trưng về vai trò điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế
Nhà nước quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta là Nhà nước
pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Định hướng XHCN được đảm bảo bởi sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
nhà nước. Nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Đây vừa là điều kiện vừa
là nội dung để phân biệt sự khác biệt về bản chất của mô hình KTTT của nước ta
với KTTT của các nước TBCN trên thế giới.
1.2.4.5. Đặc trưng về xu hướng phát triển
Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời của
thời đại, coi trọng việc kết hợp vai trò thúc đẩy sự ra đời các nhân tố của KTTT
và vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước XHCN trong quá trình chuyển sang KTTT
hiện đại.
Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế gắn liền với phát triển giáo dục, văn hoá
nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc.
KTTT nước ta phát triển theo xu hướng mở cửa, hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Phát triển trong sự kết hợp hài hoà giữa quy luật phát triển theo tuần tự với quy
luật phát triển nhảy vọt.
Từ các đặc trưng trên có thể nói: quá trình phát triển nền KTTT định hướng
XHCN ở nước ta là quá trình tiến tới thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
Từng bước phát triển kinh tế và hướng tới một xã hội hiện đại và tốt đẹp, trong
đó nhân dân được làm chủ, nhân ái, có văn hoá có trình độ, không có áp bức bóc
lột, mọi người đều được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển.
1.3. Thực trạng và giải pháp cơ bản để phát triển nền kinh tế thị trường
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.3.1. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
1.3.1.1. Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai

đoạn sơ khai
- Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một
số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều
ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu.
10


- Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin
liên lạc...còn lạc hậu, kém phát triển. Chính hệ thống giao thông kém phát triển
làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho
nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai thác, không chuyên
môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.
- Do cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động
kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa
thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng
khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ đóng góp khoảng 26% GDP, các
ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp.
- Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước còn rất
yếu. Do cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ lạc hậu, nên năng suất lao động
thấp, dẫn đến khối lượng hàng hoá nhỏ, chủng loại hàng hóa còn nghèo, chất
lượng hàng hoá thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
1.3.1.2. Hệ thống các thị trường đang trong quá trình hình thành nhưng
chưa đồng bộ
- Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều
hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối
loạn thị trường).
- Thị trường hàng hoá sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu
việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng đã nảy sinh hiện tượng
khủng hoảng. Nét nổi bật của thi trường này là sức cung về lao động lành nghề
nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá

xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm.
- Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều
trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn
nhưng không được vay vì vướng mắc thủ tục, trong khi nhiều ngân hàng thương
mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay.
- Thị trường chứng khoán ra đời nhưng chưa có nhiều hàng hoá để mua bán và
mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này.
- Thị trường bất động sản còn biểu hiện nhiều tiêu cực và lúng túng.
1.3.1.3. Quản lý nhà nước về nền kinh tế - xã hội còn yếu
Do thể chế mới của nền kinh tế thị trường còn chưa được xác lập hoàn chỉnh và
vững chắc, mà cơ chế quan liêu vẫn còn tồn tại giai dẳng và tái lập lại dưới nhiều
hình thức khác nhau. Vẫn chưa tách bạch rạch ròi giữa chức năng quản lý nhà
11


nước về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh, dẫn tới sự can thiệp quá sâu,
mang tính hành chính quan liêu của các cơ quan nhà nước vào hoạt động kinh
doanh của cơ sở. Không hiếm trường hợp cán bộ công quyền năng lực, phẩm
chất kém và thiếu công tâm, lạm dụng chức quyền để hành dân hơn là phục vụ
nhân dân. Đây là nguyên nhân làm suy yếu vai trò và sức mạnh của nhà nước
pháp quyền, phát triển tệ nạn tham nhũng và cửa quyền đang làm nhức nhối xã
hội và mất lòng tin của nhân dân.
Sự yếu kém của Nhà nước trong việc thực thi pháp luật cần thiết cho sự ra đời
và vận hành đồng bộ, khách quan của hệ thống kinh tế thị trường tới mọi mặt sản
xuất và đời sống cũng đang là lực cản lớn cho sự phát triển kinh tế thị trường.
Đáng chú ý là trong thời gian qua, cơ chế xin cho gắn với quyền lợi ích kỷ của
bộ máy hành chính quan liêu, trên thực tế vẫn còn tồn tại và có chiều hướng gia
tăng. Các doanh nghiệp không được thật sự chủ động kinh doanh theo pháp luật.
Vẫn chưa có sự bình đẳng thật sự giữa khu vực nhà nước và tư nhân. Doanh
nghiệp tư nhân vẫn gặp nhiều khó khăn về mặt bằng, vay vốn, gặp nhiều sách

nhiễu phiền toái.
1.3.2. Những giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở VN
1.3.2.1. Tiếp tục đổi mới đột phá tư duy lý luận và phương thức lãnh đạo
của Đảng
Cần khẳng định rằng sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cộng sản là điều kiện tiên
quyết, sống còn đảm bảo cho việc xây dựng thành công nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là điểm khác biệt căn bản so với
các nền kinh tế thị trường thông thường.
Hơn nữa, phải nhận thức sâu sắc rằng, phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa vừa là vấn đề khoa học, vừa là vấn đề chính trị. Đây là một sự
nghiệp to lớn và mới mẻ chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Vì vậy, nếu thiếu sự
lãnh đạo sáng suốt của Đảng thì không thể nói tới bất kỳ việc xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nào cả. Tuy nhiên, phát triển kinh tế
thị trường cũng đặt Đảng trước những thử thách phức tạp và mang tính sáng tạo.
Cho nên Đảng phải đi tiên phong trong trong đổi mới tư duy lý luận, nhận thức
về kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội.
Để làm được điều này, trước hết Đảng phải nâng cao bản lĩnh và trí tuệ, loại bỏ
những tư duy giáo điều, không còn phù hợp, tiếp thu, đào sâu tìm tòi những quan
niệm mới, tiến bộ về thế giới và thời đại; có cách nhìn biện chứng về các quá
12


trình kinh tế và xã hội ở nước ta hiện nay. Phải xem xét và đánh giá các quá trình
này một cách khách quan, tránh võ đoán và duy ý chí, lấy thực tiễn sinh động và
sự phát triển tiến bộ làm tiêu chuẩn cao nhất để kiểm nghiệm chân lý. Đồng thời
Đảng phải tiến hành tổ chức nghiên cứu, học tập lý luận một cách nghiêm túc,
đặc biệt là nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
để nắm được bản chất, linh hồn sống của học thuyết mácxít. Không biết vận
dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết mácxít, chắc chắn sẽ thất bại trong thực tiễn

và phá sản trong đường lối chiến lược.
Ngoài ra, Đảng phải nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về phát triển kinh tế thị
trường. Chỉ có như vậy mới mong tránh khỏi rơi vào cực đoan, giáo điều, bị
ngưng trệ và nô lệ về tư tưởng.
Chúng ta cần đổi mới tư duy mạnh mẽ hơn nữa, kiên quyết tháo dỡ những rào
cản nhận thức và định kiến không đúng xưa nay về kinh tế thị trường. Rõ ràng
nếu không có kinh doanh, lợi nhuận và làm giàu thì không thể cải thiện mức
sống, tích luỹ và tái sản xuất mở rộng, tăng trưởng và phát triển, không thể tiến
tới xây dựng chủ nghĩa giàu đẹp, phồn vinh và hạnh phúc.
Tuy nhiên kinh tế thị trường hàm chứa những mâu thuẫn, còn nhiều khiếm
khuyết và bất cập đối với yêu cầu của xã hội văn minh. Vì vậy chúng ta cần phải
sử dụng khôn khéo và thông minh kinh tế thị trường, mà không loại bỏ quy luật
khách quan, lại càng không thể chấp nhận một chiều hay sùng bái một cách mù
quáng. Nếu chúng ta đủ bản lĩnh và tri thức để sử dụng kinh tế thị trường, thì
kinh tế thị trường không có gì đáng sợ. Điều đáng sợ lại là không xác lập được
kinh tế thị trường, không biết vận dụng các quy luật và phạm trù của kinh tế thị
trường.
Thứ hai, Đảng cần nhanh chóng thay đổi căn bản phương thức lãnh đạo và cầm
quyền theo hướng không bao biện, làm thay chính quyền và bao trùm lên chính
quyền. Đảng và Nhà nước cũng phải nhanh chóng chuyển sang quản lý đất nước
bằng pháp luật. Đảng cầm quyền phải bằng cách giới thiệu được những cán bộ
ưu tú phục vụ nhân dân, được nhân dân tâm phục, khẩu phục, chứ không phải áp
đặt bất chấp lòng dân. Cần xoá bỏ tình trạng Đảng can thiệp quá sâu vào công
việc cụ thể của chính quyền và cơ quan chức năng nhưng không chịu trách
nhiệm gì trước pháp luật.
1.3.2.2. Xây dựng hệ thống hạ tầng hiện đại, phát triển đồng bộ các loại thị
trường
Trước tiên, cần thiết phải tập trung phát triển hạ tầng hiện đại của nền kinh tế
13



thị trường. Hạ tầng thị trường gồm đường sá, thông tin - liên lạc, sân bay, bến
cảng, nhà xưởng ...Hạ tầng thị trường tốt sẽ cho phép bảo đảm tính văn minh,
năng động và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế thị trường. Đầu tư ưu tiên cho
một hạ tầng hiện đại là cách đầu tư đúng đắn, khôn ngoan và mang lợi ích lớn
cho nền kinh tế.
Đầu tư cho lĩnh vực hạ tầng là những khoản đầu tư rất tốn kém, lãi suất thấp và
lại chậm thu hồi. Về nguyên tắc, các nhà đầu tư tư không muốn làm, vì vậy chỉ
có nhà nước mới có khả năng, hoặc phải dựa vào các khoản viện trợ viện trợ hay
vốn vay ưu đãi của nước ngoài, kể cả kêu gọi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
phát triển hạ tầng ở Việt Nam.
Ngoài ra, cũng cần trao đổi và tham khảo kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực
hạ tầng. Nhất là hợp tác với những nước phát triển trong việc quy hoạch, xây
dựng hệ thống giao thông và đô thị theo hướng đồng bộ, hiện đại và bền vững.
Thuờ các chuyên gia và tổ chức nước ngoài làm tư vấn thiết kế, giám sát và nhà
thầu xây dựng hạ tầng.
Bên cạnh đó cần phát triển đồng bộ các loại thị trường. Vì đây là điều kiện
không thể thiếu của nền kinh tế thị trường. Nhằm:
+ Bảo đảm cho thị trường vận hành liên tục và nhịp nhàng, sự ăn khớp giữa các
mắt trong khâu sản xuất, lưu thông, phân phối và tiêu dùng của quá trình tái sản
xuất xã hội.
+ Để thống nhất giữa các quan hệ phân công, quan hệ giá trị và quan hệ trao
đổi.
+ Bảo đảm phù hợp giữa các quá trình tạo ra giá trị sử dụng, giá trị, giá trị
thặng dư và giá trị gia tăng.
+ Bảo đảm sự kết hợp xã hội các quá trình kinh tế cũng như giữa các chủ thể
thị trường riêng, sự cân đối giữa cung - cầu cũng như gắn bó giữa sản xuất và
tiêu dùng.
Nhờ thế, cơ chế thị trường và các quy luật thị trường mới phát huy tác dụng
điều tiết và thúc đẩy sản xuất cũng như lưu thông.

Chúng ta tiến hành đổi mới đã hơn hai thập kỷ, nhưng hiện nay hệ thống thị
trường phát triển chưa đồng bộ, một số thị trường cơ bản và quan trọng vẫn chưa
phát triển, còn rất yếu và thiếu (như thị trường tài chính - tiền tệ, thị trường khoa
học và công nghệ) hoặc thậm chí phát triển lệch lạc và bộc lộ nhiều tiêu cực (như
thị trường đất đai - bất động sản). Tình hình này là do những lý do sau:
+ Do bị ảnh hưởng của quan niệm cũ nên nhiều người không chỉ kỳ thị và trấn
14


áp các quan hệ thị trường nói chung, mà còn tìm cách hạn chế một số loại hình
thị trường phát triển, nhất là các thị trường bậc cao của nền kinh tế thị trường
như thị trường tài chính, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động,
thị trường bất động sản.
+ Trong khi thị trường hàng hoá - dịch vụ ra đời tương đối đơn giản và thuận
lợi, thì trái lại việc hình thành một số thị trường bậc cao lại diễn ra phức tạp, khó
khăn hơn. Nhưng điều cốt lõi là chưa có các thể chế đặc thù thích hợp làm nền
tảng cho sự hình thành và vận động của các loại thị trường này.
Yêu cầu hội nhập và tăng trưởng đòi hỏi không thể chậm trễ trong việc hình
thành đồng bộ các loại thị trường.
Hình thành đồng bộ các loại thị trường là một yêu cầu khách quan của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Tư duy và chính sách về hỡnh thành và
phỏt triển đồng bộ các loại thị trường được khởi nguồn từ Đại hội lần thứ VI của
Đảng với tư tưởng giải phóng sức sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá bằng
việc thực hiện ba chương trỡnh mục tiờu về lương thực thực phẩm, hàng tiêu
dùng và hàng xuất khẩu. Tư duy này tiếp tục được làm rõ ở Đại hội Đảng lần
VII, VIII. Đến đại hội lần IX của Đảng vạch rõ ràng và dứt khoát hơn chủ trương
xây dựng đồng bộ các loại thị trường theo định hướng XHCN.
Sự cần thiết phải hình thành đồng bộ các loại thị trường được biểu hiện: Thực
tiễn ở các nước chuyển đổi và ở nước ta thời gian qua cho thấy dù muốn hay
không, một khi đó lựa chọn con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng

XHCN, có nghĩa là đó chấp nhận sự hiện hữu của thị trường với đầy đủ các loại
thị trường. Chúng ta cần xây dựng đầy đủ các loại thị trường để nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành có hiệu quả. Trong nền kinh tế
thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân
bổ vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta phải hình
thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Phát triển thị trường hàng hoá - dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh sản xuất, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành thị trường sức lao động có tổ chức để
tạo điều kiện cho sự di chuyển sức lao động theo yêu cầu phát triển kinh tế và sử
dụng có hiệu quả nguồn nhân lực.
Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành và phát triển thị trường chứng
khoán để huy động các nguồn vốn vào phát triển sản xuất.
15


Quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà ở. Xây dựng, phát triển thị trường
thông tin, thị trường khoa học công nghệ. Hoàn thiện các loại thị trường đi đôi
với khuôn khổ pháp lý và thể chế, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà
nước, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh, có biện pháp hữu hiệu chống
buôn lậu và gian lận thương mại.
Phương pháp tiếp cận để xây dựng đồng bộ các loại thị trường:
Việc xây dựng đồng bộ không có nghĩa là phải cùng một lúc xây dựng đầy đủ
các loại thị trường mà được tiến hành từng bước, có thử nghiệm, rút kinh nghiệm
và làm tiếp. Cần hiểu quá trình phát triển đồng bộ các loại thị trường là một quá
trình liên tục, kiên định và cần có thời gian, không thể nóng vội cũng không
được ngập ngừng, do dự, gây ra chậm trễ và tổn thất mọi mặt.
1.3.2.3. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ,
đẩy mạnh CNH - HĐH
Một trong những điều kiện để các doanh nghiệp có thể đứng vững trong

cạnh tranh là thường xuyên đổi mới công nghệ để hạ chi phí sản xuất, nâng cao
chất lượng sản phẩm. Vì vậy cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng
dụng các thành tựu mới của khoa học, công nghệ vào quá trình sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút
ngắn thời gian so với các nước đi trước. Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá,
tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, hiện đại về khoa học công nghệ.
Ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ
hiện đại và tri thức mới, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
1.3.2.4. Hoàn thiện vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, hoàn thiện hệ
thống pháp luật
Để nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý của nhà nước, cần nâng cao năng lực
của các cơ quan luật pháp, hành pháp và tư pháp, có hệ thông chính sách nhất
quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh tế, hạn chế khắc
phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Nhà nước sử dụng các biện pháp
kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế, chứ không phải là mệnh lệnh. Vì vậy,
phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính
sách tiền lương và giá cả.
Hiện nay, mặc dù nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta còn ở trình
độ kém phát triển, bởi lẽ cơ sở vật chất, kĩ thuật còn lạc hậu, thấp kém, nền kinh
tế còn mang tính tự cấp tự túc. Tuy nhiên, nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến
16


trình phát triển của các nước đi trước: Kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển lên
kinh tế thị trường tự do, rồi từ kinh tế thị trường tự do chuyển lên kinh tế thị
trường hiện đại, mà cần phải và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại
định hướng xó hội chủ nghĩa theo kiểu rút ngắn. Điều này có nghĩa là phải đẩy
mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá để phát triển nhanh chóng lực lượng sản
xuất, xây dựng tương đối được cơ sở vật chất kĩ thuật, nắm bắt kịp thời với tốc

độ phát triển chung của thế giới. Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc quản lý kinh tế vĩ mô và thực hiện định hướng XHCN.
1.3.2.5. Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và các nhà kinh doanh
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý, kinh doanh tương ứng.
Chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng phát
triển kinh tế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo
và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, cán bộ kinh doanh cho phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải có năng lực và
chuyên môn giỏi thích ứng mau lẹ với kinh tế thị trường, dám chịu trách nhiệm,
dám chịu rủi ro và trung thành với con đường xã hội chủ nghĩa và nhân dân ta đã
chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lai cần phải có phương hướng sử dụng,
bồi dưỡng đãi nộ đúng đắn với đội ngũ đó nhằm kích thích hơn nữa việc không
ngừng nâng cao trìng độ nghiệp vụ, bản lĩnh quản lý tài năng kinh doanh của họ.
Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải được chú ý và đảm bảo cả ở vị trí vĩ mô và
vi mô của cán bộ quản lý lẫn cán bộ kinh doanh.
1.3.2.6. Thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế
Trong giai đoạn hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực
và thế giới, mới thu hút được vốn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại để khai thác
tiềm năng thế mạnh của đất nước nhằm phát triển kinh tế.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mở rộng kinh tế đối
ngoại theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Chủ động tham gia tổ chức thương mại quốc tế, các diễn đàn, các tổ chức một
cách có chọn lọc với bước đi thích hợp.

17



CHUYÊN ĐỀ 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
2.1. Quan điểm và bản chất của công nghiệp hóa
2.1.1. Các quan điểm về công nghiệp hóa
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng lao động Việt Nam (1960) xác
định: Công nghiệp hoá là quá trình thực hiện cách mạng kỹ thuật, thực hiện phân
công mới về lao động xã hội và là quá trình tích luỹ xã hội chủ nghĩa để không
ngừng thực hiện tái sản xuất mở rộng. Đây được coi là quan niệm chính thống về
công nghiệp hoá ở nước ta vào thời kỳ bấy giờ. Quan điểm này thể hiện nội
dung, mục tiêu, tính lịch sử của quá trình công nghiệp hoá. Tuy vậy, quan điểm
này dường như đã đồng nhất công nghiệp hoá với cách mạng kỹ thuật.
Dù có những điểm khác nhau, nhưng trong quan niệm của các tác giả cả trong
và ngoài nước vẫn đều có những điểm chung. Trên cơ sở đó, có thể khái quát lại
như sau:
Công nghiệp hoá là quá trình tạo sự chuyển biến từ nền kinh tế nông nghiệp với
cơ cấu kinh tế lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất thấp sang nền kinh
tế công nghiệp với cơ cấu kinh tế hiện đại dựa trên lao động sử dụng bằng máy
móc, tạo ra năng suất lao động cao.
2.2. Bản chất của công nghiệp hóa
Công nghiệp hoá tuy diễn ra tại nhiều nước khác nhau, vào những thời điểm
khác nhau và với những cách làm khác nhau, song xét về mặt kinh tế kỹ thuật thì
công nghiệp hoá là một quá trình có bản chất giống nhau. Đó là:
Thứ nhất: công nghiệp hoá là quá trình thực hiện cuộc cách mạng khoa học - kỹ
thuật để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế.
Con đường duy nhất để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại cho nền
kinh tế là thực hiện công nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá sẽ đảm bảo cho nền
kinh tế của một nước đạt được tốt độ tăng trưởng nhanh và ổn định, cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, thu hẹp dần khoảng cách
chênh lệch về trình độ so với các nước phát triển khác. Đây cũng là quá trình xây
dựng xã hội văn minh công nghiệp. Trong xu thế phát triển nhanh chóng của

cách mạng khoa học - công nghệ thế giới, khiến cho tuổi thọ của công nghệ ngày
càng ngắn lại thì việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá là yêu cầu cấp thiết
đối với mọi nền kinh tế, nhất là các nền kinh tế kém phát triển.
Thứ hai, công nghiệp hoá là quá trình bao trùm toàn bộ mọi ngành, mọi lĩnh
vực của nền kinh tế.
18


Công nghiệp hoá không chỉ là việc trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện
đại, phương pháp sản xuất tiên tiến, tạo khả năng khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực của nền kinh tế, mà công nghiệp hoá còn là quá trình thực
hiện bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm tạo dựng cơ cấu kinh tế hiện đại,
trong đó các ngành, các lĩnh vực được phát triển một cách hợp lý, tức là làn thay
đổi vị trí của các ngành, các lĩnh vực trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Nói cách khác, công nghiệp hoá không đơn thuần chỉ là sự phát triển công
nghiệp, mà còn bao hàm cả sự phát triển của các ngành khác, các lĩnh vực khác
có liên quan đến công nghiệp trong toàn bộ cơ cấu kinh tế.
Thứ ba, công nghiệp hoá là quá trình mở rộng quan hệ quốc tế.
Ngày nay không thể có công nghiệp hoá trong phạm vi một quốc gia, lại càng
không thể công nghiệp hoá trong một nền kinh tế khép kín. Sự xuất hiện những
lực lượng sản xuất mới dựa ngày càng nhiều vào công nghệ, kỹ thuật mới, hiện
đại như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ nanô....nhưng tại các nước tiến hành công nghiệp hoá muộn lại không thể
tạo ra những điều đó. Do vậy, để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, các
nước cần thiết phải mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để tranh thủ công nghệ từ
các nước phát triển, đồng thời mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình.
Thứ tư, công nghiệp hoá không chỉ là quá trình kinh tế - kỹ thuật, mà còn là
quá trình kinh tế - xã hội.
Công nghiệp hoá có nội dung cơ bản là ứng dụng các thành tựu khoa học - kỹ
thuật để tăng nhanh năng suất lao động xã hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc

dân. Do vậy, công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế, trong đó, một
bộ phận của cải quốc dân được huy động ngày càng tăng để phát triển cơ cấu
kinh tế nhiều ngành với kỹ thuật hiện đại, nhờ đó mà bảo đảm cho toàn bộ nền
kinh tế quốc dân phát triển với nhịp độ cao, bảo đảm đạt tới sự tiến bộ về kinh tế
- xã hội. Theo cách hiểu này, công nghiệp hoá cũng là quá trình gắn liền với xoá
đói giảm nghèo, gắn liền với quá trình chuyển từ lao động thủ công sang lao
động cơ khí, từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá với năng suất lao
động cao.
Nhưng cũng phải thấy rằng, công nghiệp hoá nhanh và tăng trưởng cao cũng có
mặt trái của nó, đó là dễ dẫn đến tình trạng mất cân đối, thiếu công bằng, làm tổn
hại đến môi trường sinh thái...Vì vậy, công nghiệp hoá cũng là một quá trình
mang tính xã hội cao, trong đó yếu tố con người và văn hoá được đặt lên vị trí rất
19


cao, bởi những nhân tố văn hoá là phương tiện có hiệu quả nhất trong việc khắc
phục tình trạng lạc hậu.
Mối quan hệ giữa công nghiệp hoá và văn hoá, xã hội là mối quan hệ hữu cơ,
thúc đẩy lẫn nhau, trong đó văn hoá là chìa khoá phát triển, còn phát triển lại làm
giàu thêm văn hoá. Chính vì lý do đó mà không thể bỏ qua hay xem nhẹ khía
cạnh văn hoá trong quá trình công nghiệp hoá.
2.2. Một số mô hình và kinh nghiệm công nghiệp hóa trên thế giới
2.2.1. Các mô hình công nghiệp hóa trên thế giới
2.2.1.1. Mô hình công nghiệp hoá cổ điển
Mô hình công nghiệp hoá cổ điển là mô hình công nghiệp hoá diễn ra trong
thời đại phát triển cổ điển, được các nước phát triển phương Tây, mà điển hình
nhất là nước Anh, thực hiện vào khoảng từ giữa thế kỷ thứ XVIII đến giữa thế kỷ
XIX; và Liên Xô cùng các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu thực hiện vào đầu thế
kỷ XX.
Mô hình công nghiệp hoá cổ điển có những đặc trưng cơ bản sau đây:

+ Quá trình công nghiệp hoá theo mô hình cổ điển diễn ra như một quá trình
lịch sử tự nhiên. Bước đi của quá trình này là: lúc đầu là máy móc được sản xuất
bằng công cụ thủ công (công nghệ truyền thống), từ máy công tác đến máy
truyền lực và cuối cùng là máy phát lục (tức động cơ). Khi máy móc đạt đến
hình thức hoàn bị và được sản xuất bằng máy, thì cũng có nghĩa là công nghiệp
hoá đã đạt được bước tiến căn bản, xuất hiện một ngành công nghiệp mới - công
nghiệp chế tạo máy móc. Nhờ đó, kỷ thuật cơ khí phát triển, có khả năng cải tạo
toàn bộ kỷ thuật của nền sản xuất xã hội, biến nền sản xuất xã hội từ ngành sản
xuất truyền thống thành một hệ thống công nghiệp.
+ Công nghiệp hoá theo mô hình cổ điển được thực hiện trong một cơ cấu kinh
tế khép kín hoàn bị.
Do không tranh thủ được ưu thế của phân công lao động quốc tế, nên nguồn
vốn tích luỹ cho công nghiệp hoá chủ yếu được lấy từ cướp bóc thuộc địa và
phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong nước. Với mục tiêu hướng tới
một nền kinh tế hoàn bị, các nước tiến hành công nghiệp hoá theo mô hình cổ
điển đã chọn điểm “đột phá” là công nghiệp nhẹ. Cụ thể là công nghiệp dệt da,
dệt len, vải bông. Sự phát triển của ngành dệt đã gây ra sự bất cập trong việc
cung cấp nguyên liệu của nền nông nghiệp truyền thống. Vì vậy, việc tiến hành
cuộc cách mạng trong nông nghiệp đã trở nên tất yếu. Sau đó, cuộc cách mạng
20


được truyền sang lĩnh vực công nghiệp nặng (cơ khí, luyện kim, điện lực, hoá
chất) và cuối cùng là hiện đại hoá các ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ.
+ Mô hình công nghiệp hoá cổ điển được đặc trưng bởi trạng thái phát triển tự
do.
Công nghiệp hoá theo mô hình cổ điển diễn ra dưới tác động của “bàn tay vô
hình”. Nhà nước với tính cách là một lực lượng điều hành, tuy có tác dụng to lớn
đối với sự ra đời của nền kinh tế phát triển, song lại không can thiệp sâu vào các
quá trình kinh tế.

+ Mô hình công nghiệp hoá cổ điển được hoàn thành trong một thời gian tương
đối dài.
Nếu kể từ cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh thì các nước Anh, Pháp
tiến hành công nghiệp hoá vào giữa thế kỷ XVIII, và phải đến nữa cuối thế kỷ
XIX mới hoàn thành. Phương thức tiến hành của mô hình công nghiệp hoá cổ
điển là dựa hoàn toàn vào cơ sở khoa học và kỹ thuật của chính mình, và đó cũng
là lý do tại sao họ đều trở thành những quốc gia đi đầu trong tiến bộ khoa học và
kỹ thuật.
Có thể thấy, mô hình công nghiệp hoá cổ điển là quá trình mò mẫm, tự vận
động, vì vậy, phải mất một khoảng thời gian rất dài mới hoàn thành được.
2.2.1.2. Mô hình công nghiệp hoá phi cổ điển (công nghiệp hoá rút ngắn)
Mô hình công nghiệp hoá phi cổ điển hay còn gọi là mô hình công nghiệp hoá
rút ngắn, là mô hình công nghiệp hoá cho phép bỏ qua hoặc rút ngắn một số
bước đi và quá trình đã bị lạc hậu, hoặc đã thay đổi trong thời kỳ hiện đại so với
thời kỳ cổ điển.
Thực chất của công nghiệp hoá rút ngắn là các nước đi sau nỗ lực tăng tốc để
đuổi kịp các nước đi trước bằng cách lựa chọn con đường hay mô hình phát triển
mang tính “phi cổ điển” để đạt tới một nền kinh tế có chất lượng, cơ cấu cao hơn
so với mức độ giàu có về của cải thực tế. Nói cách khác, do các nước công
nghiệp hoá muộn, những nước đi sau có lợi thế là có thể tiếp thu những kinh
nghiệm, những thành quả của các nước đi trước, và thêm vào đó là sự phát triển
mạnh mẽ của tổ chức tín dụng - ngân hàng, các hình thái công ty, các phương
thức hoạt động ngoại thương, kỹ năng quản lý....nên có thể rút ngắn thời gian
công nghiệp hoá, tăng tốc, đuổi kịp và vượt các nước đi trước. Mô hình rút ngắn
kiểu của Mỹ, Đức và Nhật Bản được gọi là mô hình công nghiệp hoá rút ngắn cổ
điển, còn mô hình công nghiệp hoá các nước NICs và gần đây là một số nước
ASEAN, Trung Quốc, ấn Độ...là mô hình công nghiệp hoá rút ngắn hiện đại.
21



Thực chất của mô hình công nghiệp hoá rút ngắn cổ điển là mô hình công
nghiệp hoá mà các nước đã thực hiện trong thế kỷ XIX. Các nước này có điều
kiện để dựa vào khuôn mẫu và kỹ thuật, công nghệ của các nước đi trước để
chuyển biến nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, thông qua
cách tiếp cận tổng hợp và đồng bộ về cơ cấu ngành cũng như về các thể chế kinh
tế thị trường. Điển hình là các nước Đức, Mỹ, Nhật Bản, Đan Mạch, Phần Lan,
Hà Lan, Thuỷ Điển, áo, Bỉ, Thuỵ Sĩ...là những nước tiến hành công nghiệp hoá
muộn, nên có lợi thế của các nước đi sau.
Vào giữa thế kỷ XX đã nổi lên mô hình công nghiệp hoá rút ngắn tại các nền
kinh tế mới công nghiệp hoá (NICs) châu á và gần đây là ấn Độ và Trung Quốc
lại đưa ra những bằng chứng mới thuyết phục hơn nữa về quá trình rút ngắn khác
hẳn so với kiểu rút ngắn mà NICs đã từng thực hiện rất thành công trong những
thập niên 1980 - 1990.
Các nước như Xingapo, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông bắt đầu công
nghiệp hoá vào cuối những năm 50 và hoàn thành vào cuối những năm 80 của
thế kỷ XX. Các nước này tiến hành công nghiệp hoá trong bối cảnh mới với sự
phát triển của cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu hướng khu vực hoá, toàn cầu
hoá diễn ra mạnh mẽ, các lý thuyết kinh tế và quản lý kinh tế mới đã thay thế cho
các lý thuyết cổ điển trước đây, trong đó nổi lên là lý thuyết về vai trò nhà nước
trong kinh tế thị trường. Trong mô hình này, thị trường có vai trò kích thích các
doanh nghiệp đầu tư kỹ thuật, công nghệ mới và lựa chọn ngành nghề kinh
doanh có nhiều lợi thế, còn nhà nước có vai trò điều chỉnh cơ cấu kinh tế, xây
dựng kết cấu hạ tầng, tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ doanh nghiệp.
2.2.1.3. Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là mô hình công nghiệp hoá mà theo đó
các quốc gia tiến hành công nghiệp hoá nổ lực thành lập và nuôi dưỡng các
ngành công nghiệp trong nước để sản xuất ra các sản phẩm thay thế hàng nhập
khẩu.
Tư tưởng cơ bản của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là mỗi nước
đang phát triển mong muốn phát triển hầu hết mọi ngành công nghiệp thiết yếu,

tự đáp ứng các nhu cầu thay vì trước đây phải nhập khẩu.
Thực chất của mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu là công nghiệp hoá
hướng nội, được thực hiện dựa trên quan điểm “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức
mình là chính”. Về mặt lịch sử, mô hình này được các nước đi tiên phong trong
công nghiệp hoá thực hiện từ cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, nhưng được
22


áp dụng phổ biến vào thập kỷ 50 - 60 của thế kỷ XX tại các nước thuộc thế giới
thứ ba. Lúc đầu mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu được áp dụng ở
các nước Mỹ Latinh, sau đó lan sang các châu lục khác và được các nước đang
phát triển mới giành được độc lập coi là mô hình phù hợp với tư tưởng tự lực
cách sinh, chống chủ nghĩa đế quốc, tư tưởng xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ.
Tại Nhật Bản, công nghiệp hoá bắt đầu được thực hiện từ cuối thế kỷ XIX. Lúc
này, Nhật Bản đang đứng trước sự đe doạ của các nước phương Tây, nên chiến
lược Nhật Bản cũng phải nhanh chóng hiện đại hoá quân sự, xây dựng những
ngành công nghiệp then chốt.
Các nước NICs châu á (những năm 60 của thế kỷ XX) và ASEAN (những năm
70 của thế kỷ XX) cũng áp dụng mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu.
Họ tập trung phát triển công nghiệp dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp chế biến
nguyên liệu hoặc lắp ráp các hàng tiêu dùng đơn giản. Chính sách này kéo dài
cho đến những năm 70 của thế kỷ XX, nhưng sau đó đã linh hoạt chuyển sang
mô hình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu, và mô hình này đã được thực
hiện thắng lợi ở các nước trên.
Các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa trước đây cũng là những nước tích
cực thực hiện công nghiệp hoá theo mô hình thay thế nhập khẩu, trong đó đi đầu
là Liên Xô những năm 30, Trung Quốc những năm 50 - 70 và Việt Nam những
năm 60 - 70 của thế kỷ XX. Các nước này đều chủ trương “ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng” để giúp cho việc trang bị các máy móc, tư liệu sản xuất cần

thiết cho các ngành khác. Vì vậy, các nước này đã theo đuổi chính sách tự sản
xuất bằng mọi thứ cần thiết có thể nhằm hình thành một cơ cấu công nghiệp tự
chủ.
2.2.1.4. Mô hình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu
Tư tưởng cơ bản của mô hình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là phát
triển các ngành sản xuất sản phẩm chủ yếu phục vụ xuất khẩu.
Thực chất của mô hình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là giải pháp “mở
cửa” ở các nước đang phát triển nhằm tranh thủ các yếu tố thuận lợi từ bên ngoài
(vốn, công nghệ...) và khai thác các lợi thế trong nước để tiến hành công nghiệp
hoá theo con đường rút ngắn. Các nước NICs châu á và các nước ASEAN đã
nhanh chóng trở thành các con “rồng”, “con hổ” chính là nhờ đã sớm chuyển
hướng từ mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu sang mô hình công
nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu.
23


2.2.1.5. Mô hình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu
Mô hình này được xây dựng trên cơ sở kết hợp các yếu tố ưu việt của mô hình
công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu và mô hình công nghiệp hoá hướng vào xuất
khẩu (còn gọi là mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp).
Mỗi mô hình công nghiệp hoá không chỉ có ưu thế mà còn có cả hạn chế của
nó. Mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu với quan điểm hẹp hòi về độc
lập dân tộc và tự lực cánh sinh, chủ trương không tham gia vào phân công lao
động quốc tế...vì thế đã hạn chế những khả năng phát triển. Còn mô hình công
nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu thì thổi phồng các nhân tố bên ngoài, coi nhẹ
những khả năng bên trong của đất nước, cho rằng sự tăng trưởng chỉ có thể đạt
được trên cơ sở dựa vào vốn, công nghệ và viện trợ nước ngoài, từ đó đi đến chổ
chấp nhận những sự phụ thuộc một chiều vào một số trung tâm công nghiệp phát
triển, bất chấp quyền lợi của đại đa số nhân dân dẫn đến kết quả khó tránh khỏi

khủng hoảng kinh tế.
Mô hình công nghiệp hoá hỗn hợp (hướng vào xuất khẩu đồng thời thay thế
nhập khẩu) đã và đang trở thành xu hướng phát triển mạnh ở các nước đang phát
triển từ những thập niên 70 của thế kỷ XX cho đến nay. Thực ra đây không phải
là một mô hình mới, mà chỉ là sự điều chỉnh trọng tâm của hai mô hình công
nghiệp hoá đã nêu trên, tránh sự cực đoan trong việc xác định thị trường và
phương hướng phát triển các ngành kinh tế. Hàn Quốc là nước đi đầu trong mô
hình công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu, và cũng là nước đầu tiên nhận thức
được những khó khăn nên đã điều chỉnh theo hướng của mô hình hỗn hợp.
Việt Nam vào những năm 60 cho đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX đã lựa
chọn mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, nhưng đến năm 1986, tại Đại
hội lần thứ VI và đặc biệt là Đại hội VII và VIII, Đảng đã lựa chọn mô hình bổ
sung giữa hướng vào xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Trong đó hướng vào xuất
khẩu là trọng tâm, đóng vai trò quyết định và chi phối, còn thay thế nhập khẩu
đóng vai trò bổ sung. Kinh nghiệm chỉ ra rằng nếu thiếu một mô hình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá phù hợp để kết hợp được các nguồn lực bên ngoài và
bên trong ắt sẽ dẫn đến thất bại. Vì vậy mà lựa chọn đúng mô hình công nghiệp
hoá cho phép chúng ta thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút
ngắn.
2.2.1.6. Mô hình công nghiệp hoá kết hợp giữa cơ chế thị trường và chủ
nghĩa xã hội
24


Đây là mô hình công nghiệp hoá mới được thực hiện tại Trung Quốc từ hai
thập niên cuối thế kỷ XX. Sau thất bại của chiến lược công nghiệp hoá theo kiểu
phát triển công nghiệp nặng với phương châm “toàn dân làm gang thép” của
những năm 1950. Đến 1978, Trung Quốc cải cách kinh tế theo hướng tập trung
khai thác thế mạnh nền kinh tế nông nghiệp của mình, nhờ đó kinh tế có sự tăng
trưởng cao. Trung quốc đã thực hiện chính sách khoán sản xuất nông nghiệp đến

hộ nông dân, thúc đẩy cải tạo kỷ thuật, từng bước đầu tư để tăng cường cơ sở vật
chất kỷ thuật cho nông nghiệp, sớm đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn hiện đại,
phù hợp với đặc điểm nông thôn của họ. Những cải cách kinh tế của Trung Quốc
với nội dung phát triển hướng vào nông nghiệp đã tạo cho đất nước này một
bước nhảy vọt không chỉ trong nông nghiệp mà trong toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
Mô hình công nghiệp hoá mà Trung Quốc lựa chọn kể từ 20 năm cuối thế kỷ
XX là một cách đi riêng - nhiều người gọi đó là một mô hình công nghiệp hóa
mới, vì nó không giống với mô hình công nghiệp hoá mà Trung Quốc đã từng
thực hiện trước đây, đó là quá trình công nghiệp hoá được đặt trên cơ sở thể chế
kinh tế không giống như trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và cũng có nhiều
điểm khác biệt với các mô hình công nghiệp hoá đang diễn ra trên thế giới hiện
nay. Đó là quá trình công nghiệp hoá được thực hiện trên cơ sở của thị trường
gắn với tính chất xã hội chủ nghĩa. Nói cách khác cái mới của mô hình công
nghiệp hoá của Trung Quốc hiện nay mang đậm đặc sắc Trung Quốc, trong đó
nổi bật là sự kết hợp khéo léo giữa chủ nghĩa xã hội và thị trường. Thực chất
cũng là sự kết hợp giữa mô hình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa với mô hình
công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa.
Đặc trưng chủ yếu của mô hình công nghiệp hoá mới của Trung Quốc:
+ Công nghiệp hoá dựa vào các ngành khoa học mũi nhọn, trước hết là tin học.
Trung Quốc đưa ra nguyên tắc: xây dựng kinh tế phải dựa vào khoa học công
nghệ, khoa học công nghệ phải hướng vào phục vụ xây dựng kinh tế. Vì vậy,
trong chiến lược của mình, Trung Quốc yêu cầu: phải nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của khoa học công nghệ, huy động và lôi kéo phần lớn cán bộ khoa
học - công nghệ vào các hoạt động kinh tế, nhấn mạnh tầm quan trọng của đổi
mới kỹ thuật, thu hút công nghệ tiên tiến của thế giới.
+ Công nghiệp hóa được đặt trong chiến lược phát triển bền vững.
Để thực hiện công nghiệp hoá mà không ảnh hưởng tới văn hoá, xã hội và môi
trường, Trung Quốc đã đặt việc phát triển bền vững vào ví trí hàng đầu và chủ
25



×