Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Giáo trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.58 MB, 22 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC - MẦM NON
========= o0o ========

GIÁO TRÌNH
(Lưu hành nội bộ)
RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM THƯỜNG XUYÊN 1
(Dành cho Đại học, Cao đẳng Tiểu học hệ chính quy và liên
thông)

Tác giả: Nguyễn Thị Nga

Năm 2017
1


MỤC LỤC
1. Lý thuyết ........................................................................................................................ 4

1.1. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác rèn luyện nghiệp vụ trong hoạt động
dạy học ...........................................................................................................4
1.2. Rèn kỹ năng giao tiếp diễn đạt (trình bày nói và viết). .............................6
1.3. Kỹ năng đọc, nghe .................................................................................10
1.5. Kỹ năng kể chuyện ................................................................................14
2. Thực hành rèn luyện NVSPTX ............................................................................... 20
2.1. Sinh viên chuẩn bị .................................................................................20
2.2.Thực hành luyện kể diễn cảm theo nhóm đã phân công ..........................21
2.3. Thực hành luyện đọc..............................................................................21
2.4. Thực hành luyện viết .............................................................................22

2




LỜI NÓI ĐẦU
Bài giảng Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên 1 dùng để đào tạo sinh
viên theo chương trình Cao đẳng, Đại học giáo dục Tiểu học hệ chính quy và
liên thông. Bài giảng thiết kế theo định hướng tăng thực hành, giảm lý thuyết.
Bài giảng gồm các vấn đề cốt lõi về lý thuyết đọc, kể, viết và giao tiếp nhằm
giúp cho sinh viên cơ sở khoa học để rèn luyện nghiệp vụ nghề, nâng cao năng
lực chuyên môn. Bài giảng gồm 5 tiết lý thuyết và 10 tiết thực thực hành. Tài
liệu thiết kế theo chương trình chi tiết học phần. Trong bài giảng có thiết kế các
hoạt động nhằm giúp sinh viên tích cực hoá hoạt động, kích thích óc sáng tạo và
khả năng giải quyết vấn đề. Trên cơ sở bài giảng, GV thiết kế hướng dẫn sinh
viên tự giám sát và đánh giá kết quả học tập. Cũng từ đó có thể sử dụng tích hợp
nhiều hình thức tổ chức dạy học và sử dụng các phương tiện dạy học khác nhau
(tài liệu in, băng hình…) giúp người học dễ nắm bắt tri thức và tạo được hứng
thú học tập.
Tài liệu được biên soạn mới, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót
nhất định. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của
bạn đọc, đặc biệt là đội ngũ giảng viên, sinh viên và giáo viên tiểu học trong
tỉnh Quảng Bình. Xin trân trọng cảm ơn.

3


Lý thuyết
1.1. Vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác rèn luyện nghiệp vụ trong hoạt động dạy học
- Dạy học là hoạt động đặc thù của bất kỳ một nhà trường nào. Ở đó đòi hỏi
người giáo viên phải hội đủ các yêu cầu lý tưởng đạo đức, tri thức và đặc biệt có tài
năng sư phạm. Đó là yếu tố có ý nghĩa quan trọng thiết thực đối với sự phát triển và
tồn tại của nghề sư phạm – nghề “trồng người”.

- Đồng thời là một trong những thành tố cốt lõi làm nên các giá trị văn hóa trong
môi trường sư phạm. Đương nhiên để đạt được mục đích đào tạo thì cần phải tốn
không ít chất xám, công sức, thời gian, tiền của …và phải qua nhiều công đoạn khác
nhau trong quá trình thực hiện. Ở bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quá trình nhận
thức, kích thích hứng thú và thực hiện tác động đến việc rèn kỹ năng nghề nghiệp cho
sinh viên từ trường Đại học đến các cơ sở thực tập.
Chúng ta biết, giáo dục ngày nay đặt ra nhiều thách thức và yêu cầu đối với
người giáo viên. Nếu trước đây người giáo viên chỉ chú trọng phát triển kỹ năng giảng
dạy thì hiện nay đòi hỏi họ cần phải có nhiều năng lực khác nhau: tổ chức, định
hướng, thăm dò, khám phá, tác động vào thế giới tâm hồn, trợ giúp cho người học chủ
động trong lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, phát triển các năng lực, thiên hướng
cá nhân. Tri thức khoa học chuyên môn và kỹ năng sư phạm là hai yếu tố cần thiết
quan trọng không thể thiếu được đối với người dạy. Bởi dù người dạy có kiến thức
phong phú uyên thâm đến đâu cũng khó có thể mang lại hiệu quả cao nếu thiếu nghiệp
vụ sư phạm. Trong chuẩn nghề nghiệp giáo viên các bậc học, Bộ Giáo dục & Đào tạo
đã ban hành các yêu cầu về kỹ năng sư phạm: “Lập được kế hoạch dạy học; biết cách
soạn giáo án theo hướng đổi mới; xây dựng được kế hoạch giảng dạy cả năm học thể
hiện các hoạt động dạy học nhằm cụ thể hoá chương trình của Bộ phù hợp với đặc
điểm của nhà trường và lớp được phân công dạy; Lập được kế hoạch tháng dựa trên
kế hoạch năm học bao gồm hoạt động chính khoá và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp; Có kế hoạch dạy học từng tuần thể hiện lịch dạy các tiết học và các hoạt động
giáo dục học sinh; Soạn giáo án theo hướng đổi mới, thể hiện các hoạt động dạy học
tích cực của thầy và trò. Tổ chức và thực hiện các hoạt động dạy học trên lớp phát
huy được tính năng động sáng tạo của học sinh; Lựa chọn và sử dụng hợp lý các

4


phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính sáng tạo, chủ động trong việc học tập
của học sinh; làm chủ được lớp”.

Từ những yêu cầu chuẩn nghề nghiệp đòi hỏi các cơ sở đào tạo cần phải tăng
cường rèn cho sinh viên các năng lực sư phạm. Thiết nghĩ việc nhận thức đầy đủ vị trí,
ý nghĩa quan trọng của công tác rèn nghề cho sinh viên sư phạm có thể coi là khâu đột
phá đầu tiên để thực hiện những hoạt động tiếp trong quá trình đào tạo. Công việc đó
không chỉ được thực hiện ngay khi người học bước chân vào cổng giảng đường Sư
phạm từ những bài học đầu tiên và liên tục, xuyên suốt cho đến hết những năm ngồi
trên ghế nhà trường mà còn diễn ra cả đời dạy học của người giáo viên. Sinh viên cần
phải được rèn luyện chu đáo cẩn thận, có những đầu tư cơ bản, có kế hoạch, theo một
quy trình liên thông qua nhiều công đoạn, nhiều khâu từ việc nắm nhu cầu thực tiễn,
bối cảnh xã hội để xây dựng khung chương trình đào tạo cụ thể trong mô tả mỗi học
phần cho phù hợp đến việc tích hợp rèn kỹ năng sư phạm trong từng tín chỉ, từng nội
dung bài giảng và đặc biệt là 2 đợt lập kế hoạch cho thực tập sư phạm 1,2. Quá trình
đó còn cần một đòi hỏi khác là thiết lập mối quan hệ giữa cơ sở đào tạo với trường
thực hành trên nhiều phương diện, nhiều khía cạnh khác nhau. Mối quan hệ gắn kết
này phải đảm bảo được nguyên tắc tôn trọng tính “độc lập” trong chuyên môn cũng
như không làm ảnh hưởng đến chất lượng dạy học của trường thực hành. Tùy vào mục
tiêu cụ thể của từng công đoạn mà ta xác định được nhiệm vụ trung tâm của mỗi khâu
trong quá trình đào tạo.
Chức năng quan trọng của các trường sư phạm là rèn luyện cho sinh viên trở
thành người thầy giáo có phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính trị vững vàng, có trình độ
khoa học và giỏi về nghề nghiệp. Trong một ý nghĩa nhất định, trường SP chính là
trường dạy nghề - nghề làm Thầy cho xã hội. Vì thế, nội dung rèn luyện kĩ năng
nghiệp vụ sư phạm là đặc trưng riêng biệt của khoa SP để phân biệt với các khoa
khác. Để được đứng trên bục giảng làm người Thầy của xã hội, SVSP phải trang bị
đầy đủ, có hệ thống những kiến thức khoa học (chuyên ngành và liên ngành). Những
kiến thức khoa học này phải trở thành nội dung nghề nghiệp quan trọng. Tuy nhiên,
không phải ai có trình độ khoa học cơ bản là có thể trở thành GV giỏi. Kiến thức khoa
học được thu nhận ở trường SP phải qua rèn luyện về nghiệp vụ (lí thuyết, thực hành)
để hình thành năng lực, trở thành kĩ năng, mới có thể đảm nhiệm tốt nhiệm vụ giáo
5



dục trong sự nghiệp trồng người. Phương pháp dạy học là một khoa học, thuộc khoa
học giáo dục, có liên quan chặt chẽ với khoa học cơ bản. Nắm vững khoa học giáo dục
và PPDH bộ môn sẽ có kĩ năng nghiệp vụ để làm tốt công tác giáo dục. Xuất phát từ
công tác đào tạo GV khoa SPTH-Mầm non, từ góc độ của người nghiên cứu, giảng
dạy, rèn luyện kĩ năng NVSP cho SV và thực tiễn việc dạy – học ở trường ĐH trong
nhiều năm qua, chúng tôi xin đưa ra và những kỹ năng sư phạm cần được thường
xuyên rèn luyện trong DH ở Tiểu học.



1.2.Rènkỹ năng giao tiếp diễn đạt (trình bày nói và viết). Đây là kĩ năng

quan trọng đầu tiên cần phải rèn luyện trong DH. Nội dung của việc rèn luyện này
giúp SVSP khắc phục được những khuyết tật thường gặp trong diễn đạt (nói
ngọng, nói lắp, nói nhanh, nói ngắt quãng,…). Diễn đạt nói và viết đúng sẽ góp
phần quan trọng vào nâng cao hiệu quả bài học và giáo dục học sinh, nhất là khi
sử dụng nó trong dạy học các phân môn: tập đọc, kể chuyện, làm văn…. Trong
công việc cũng như cuộc sống riêng tư, ai cũng muốn được mọi người nhìn nhận
là một người năng động, thông minh và đáng tin cậy. Để đạt tới những điều ấy,
trước hết, cần có kỹ năng truyền thông tốt và cách nói chuyện “chuyên
nghiệp”.Vấn đề phụ thuộc cách nói. Khi nói tốt, người nói sẽ tạo nên một hình ảnh
“professional” (chuyên nghiệp) về mình. Khi những suy nghĩ được diễn đạt mạch
lạc, người nói trở nên tự tin, có sự kiểm soát trong mắt mọi người và những ý kiến
của mình sẽ gây chú ý hơn.
- Trước hết phải xây dựng một kế hoạch
- Nắm đối tượng nghe để chuẩn bị bài nói chuyện, dù đó là trong một buổi tiệc
hay là một buổi họp, người nói cần phải biết mình nói chuyện trước đối tượng nào.
Phong cách của người nói cần phù hợp với mỗi loại đối tượng.

- Biết rõ chủ đề, dự định và xử lý trước những câu hỏi có thể được mọi người
đặt ra và chuẩn bị sẵn những câu trả lời.
- Luyện tập bài nói chuyện vài lần (nếu có thể, nên ghi âm và nghe lại nhiều
lần, để bạn đánh giá được cách nói chuyện của mình). Trong những cuộc hội thảo hay
hội thoại riêng tư, tránh những “cà kê” những câu chuyện ngồi lê đôi mách. Luôn biết
rõ chủ đề định nói và kiểm soát chúng trong suối thời gian nói để khỏi đi chệch quỹ
đạo. Và luôn biết thận trọng khi sắp trình bày những quan điểm cá nhân.
- Nói rõ ràng . Phát âm rõ. Nói chậm rãi và phát âm tốt. Không có gì tệ hại hơn
một người nói chuyện lầm bầm, hoặc luyến từ, hoặc nói quá nhanh đến nỗi người
khác không hiểu muốn nói gì. Sử dụng một giọng nói chuyên nghiệp. Điều chỉnh lại

6


giọng nói và thay đổi tốc độ giọng nói cho phù hợp. Hãy ngừng một chút trước khi
đưa ra một quan điểm.
- Nắm rõ cú pháp. Cấu trúc câu rất quan trọng. Thỉnh thoảng, nói một câu dài,
nhiều thông tin là cần thiết. Nhưng tốt nhất, nên ngắt ra thành nhiều mệnh đề ngắn, có
thể thêm thắt những thành ngữ phổ biến.
- Chọn từ ngữ cẩn thận, tránh những tiếng “ừm”, “à”, loại bỏ thói quen lặp đi
lặp lại một từ nào đó, phải biết thay thế những từ cổ bằng những từ thông dụng đang
dùng, lựa chọn từ chính xác và sử dụng đúng chỗ.
- Biết nói một cách chặt chẽ, mạch lạc, logic. Đừng nói quá nhiều mà vừa đủ
và nắm chắc tâm lý người nghe.
- Từ là đợn vị ngôn ngữ sẵn có, vốn tồn tại trong hệ thống ngôn ngữ và tồn tại trong
tiềm năng ngôn ngữ của mỗi con người ở trạng thái tĩnh với các tiềm năng nhất định.
- Khi các cá nhân thực hiện hoạt động giao tiếp với nhau thì các từ cần thiết trong
vốn từ được huy động và kết hợp với nhau thành các cụm từ, các câu, các ngôn bản để
thực hiện các nội dung giao tiếp, làm cơ sở để các cá nhân đạt được mục đích giao
tiếp.

Bài tập:
Câu1:Hãy phân tích giá trị sự hiện thực hoá bình diện ngữ âm trong nhưng trường
hợp sau:
- Con ruồi đậu mâm xôi,mâm xôi đậu.
Con kiến bò đĩa thịt, đĩa thịt bò.
- Gái tơ chỉ kén ngài quân tử.
Trả lời:
Trường hợp hai từ ( với các nghĩa, các thuộc tính ngữ pháp khác nhau ) cùng có mặt
trong một câu. Nếu người nhận không ra sự hiện thực hoá của hai từ khác nhau thì
không thể giải mã được câu đó. Nhưng khi phát hiện ra đó là hai từ khác nhau thì lập
tức mọi điều trở nên sáng tỏ và những bất ngờ thú vị nảy sinh: trường hợp sự dụng các
từ đòng âm:
Con ruồi đậu mâm xôi, mâm xôi đậu
Con kiến bò đĩa thịt, đĩa thịt bò.

7


Có những trường hợp, trong câu chỉ có một từ đồng âm thưch hiện hoa, nhưng do ngữ
cảnh mà khi lĩnh hội câu đó, người nhận lại liên tưởng đến những lĩnh vực khác, phạm
vi khác từ đó nhận ra khả năng hiện thực hoá của một từ khác đồng âm với nó.
Gái tơ chỉ kén ngài quân tử
Ở câu này, tơ có nghĩa là còn trẻ, từ chỉ là phụ từ chỉ phạm vi của hoạt đọng kén, từ
kén còn có nghĩa là chọn, ngài với nghĩa là người.Cả câu với nghĩa người con gái trẻ
chỉ chọn người quân tử làm chồng mình. Tuy nhiên, do cùng có mặt trong câu, các từ
trên lại gợi ra nghĩă của các từ đồng âm chỉ các sản phẩm trong nghề trông dâu nuôi
tằm: tơ, chỉ, kén, ngài.. tạo ra nhưng bất ngờ thú vị cho người tiếp nhận.
Như vậy, chỉ trong hoạt đọng giao tiếp các từ đòng âm mới hiện thực hoá rõ rệt hình
thức bên trong và bình diện bên ngoài. Đồng thời, với luật chơi chữ, người ta lại cố ý
để hiện thực hoá cùng một lúc các từ đòng âm với các nghĩa khác nhau ở cùng một

hình thức âm thanh để đạt được mục đích của mình.
Câu2: Sự khác nhau về cấu tạo từ xe ngựa và ngựa xe trong các trường hợp sau:
1.Đi thăm phong cảnh Đà Lạt bằng xe ngựa, đó là môth thú vui mà ai lên đây cũng
phải thử một lần.
2.Xe ngựa lao xao giữa cõi trần
Biết ai thiên tử biết ai thần
3.Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước, áo quần như nen.
Trong trường hợp (1) xe ngựa là từ ghèp phân nghĩa chỉ một loại xe do ngựa kéo,
phân biệt với xe trâu, xe bò, xe đạp…
Trường hợp (2) và (3) xe ngựa và ngựa xe là sự hiện thưch hoá của một câu ghép
hợp nghĩa với nghĩa chỉ phương tiện đi lại nói chung ở thời cổ với nghĩa xe và nghĩa
ngựa nói chung. Có thể đảo trật tự giữa hai từ này mà vẫn giữ nguyên nghĩa của nó.
Như vậy, có thể thấy, chỉ trong hoạt động giao tiếp, hình thức ngữ âm và cấu tạo của
từ mới được thực hiện hoá ở mức độ cụ thể rõ nét nhất .Lúc đó, từ mới hiện ra trong
một vẻ xác định, cụ thể.
`Sử dụng từ trong HĐ giao tiếp

8


-

Giao tiếp là hoạt động xã hội đòi hổi ít nhất phải có hai người và mỗi người đều
có thể đóng vai trò là người phát, người nhận ( một cách đồng thời và trong các tình
huống khác ).

-

Muốn dạt được hiểu quả giao tiếp, thì mọi hoạt đọng giao tiếp phải tiến hành theo

những nguyên tắc chung, những quy định chung. Những nguyên tắc này được hình
thành trong thực tiễn, do sự thoả thuận, sự quy ước ngầm của xã hội.Việc dùng từ
cũng phải tuân theo những nguyên tắc chung như ở các lĩnh vực khác.

Những

nguyên tắc này vừa là nhưng yêu cầu hướng tới, cần đạt được trong việc dùng từ, vừa
là những tiêu chuẩn để xác định và đánh giá dùng từ đúng hay sai.
Tìm hiểu các lỗi dùng từ và cach khắc phục.


Những lỗi về từ cần tránh:

-

Dùng từ thừa:
Biểu hiện của lỗi: Trong một câu văn có hai từ, hoặc hai yếu tố giống nhau cả ngữ
nghĩa lẫn âm thanh hoặc khác về âm nhưng có nghĩa giống nhau.
Cách sửa: Đọc, phát hiện và loại bỏ yếu tố trùng lặp.
- Dùng từ ngữ sai âm, sai nghĩa:
+ Lỗi về âm
Nguyên nhân do người viết nhầm lẫn giữa các từ khác nhau nhưng có hình thứcâm
gần giống nhau. Hiện tượng này tập trung ở các từ đa tiết có một âm tiết đồng âm
thanh và một âm tiết gần âm. Một số trường hợp do người sự dụng không nhớ chính
xác âm của một số từ vay mượn nên hay mắc lỗi.
Để khắc phục chúng ta cần thận trọng khi sự dụng ccác từ, các thuật ngữ vay mượn.
Trong trường hợp chưa chắc chắn nên kiểm tra lại từ điển.

-


Lỗi về nghĩa;
Do người viết không nắm được hiện thực khách quan mà từ biểu thị hoặc không nắm
chắc khái niệm mà từ biểu thị, không hiểu hết sắc thái biểu cảm của từ.
Cách phòng tránh lỗi: Chỉ dùng những từ ta đã hiểu rõ nghĩa, những trường hợp nghi
ngờ nên kiểm tra lại trong từ điển.

-

Dùng từ không đúng với khả năng kết hợp của chúng.

9


Về mặt ngữ pháp, mỗi từ chỉ có khả năng kết hợp với một số loại từ nhất định. Dặc
biệt trong tiếng Việt, một số từ có khả năng kết hợp rất hạn ché với một số từ ngữ nhất
định. Chính vì vậy, khi sự dụng từ cần chú ý đến khả năng này để tránh mắc lỗi.
-

Dùng từ lạc phong cách
Bên cạnh những từ được dùng trong nhiều kiểu văn bản thuộc các phong cách khác
nhau, còn có một số từ chỉ sự dụng trong một số kiểu văn bản nhất định. Khi sự dụng
từ không đúng phong cách sẽ không đạt được hiệu quả giao tiếp cần có.Khi sự dụng từ
ngữ cần chú ý tới đặc điểm này để tránh lỗi sự dụng từ lạc phong cách.

-

Dùng từ sáo rỗng
Khi viết, một số người hay bắt chước người khác một cách vô thức, không nắm được
ý nghĩa và hoàn cảnh giao tiếp nhưng vẫn dùng lại một số từ có vẻ”kêu” nhưng không
thích hợp với những đối tượng và hoàn cảnh nói nang dẫn đến việc mắc lỗi về sự dụng

từ. Vì vậy trong khi sự dụng từ cần chú ý đến nghĩa từ và hoàn cảnh giao tiếp để sự
dụng từ cho chính xác, thích hợp để tránh mắc lỗi.
1.3. Kỹ năng đọc, nghe
Nghe, nói, đọc, viết là những hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ trong đời
sống hằng ngày của con người. Trong đó, nghe và đọc là những hoạt động nhận tin,
còn nói và viết là những hoạt động phát tin. Hoạt động đọc là một hoạt động cơ bản
được con người thường xuyên sử dụng.
Tùy theo đặc điểm nghề nghiệp, hoạt động đọc ở mỗi người cũng có những
mục đích khác nhau. Trong nhà trường, ngay từ ngày đầu tiên bước vào lớp học, đứa
trẻ bắt đầu tiếp xúc với sách vở, chữ viết là bắt đầu làm quen với một hình thức giao
tiếp mới: giao tiếp bằng chữ viết. Thông qua đọc sách, học sinh được mở rộng hiểu
biết thiên nhiên, về cuộc sống con người, về văn hóa, văn minh, về phong tục tập quán
của các dân tộc trên thế giới. Đọc các tác phẩm văn học, học sinh được bồi dưỡng về
vốn hiểu biết, năng lực thẩm mĩ, trau dồi kĩ năng sử đụng ngôn ngữ, sử dụng tiếng mẹ
đẻ...Vì vậy việc đọc đối với học sinh mang ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển
nhân cách. Đối với người GV Tiểu học đọc có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì đó là
hoạt động mẫu.
Khái niệm:

10


+ Theo nghĩa hẹp: đọc được hiểu là việc chuyển dạng hình thức chữ viết thành
âm thanh
+ Theo nghĩa rộng: đọc được hiểu là kỹ năng đọc cộng với sự thông hiểu điều
được đọc. Ý nghĩa 2 mặt của thuật ngữ đọc được thể hiện đầy đủ trong quan niệm của
viện sỹ MR Lô Vôp (Nga). Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển
dạng thức chữ viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó, là quá trình chuyển trực
tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị nghĩa nhờ âm thanh. Đó là quá trình biến
hình thức chữ viết thành hình thức âm thanh để thông hiểu nội dung của một văn bản.

+ Đọc chính là hoạt động chuyển văn bản ngôn ngữ viết thành văn bản ngôn
ngữ âm thanh. Đó là sự truyền đạt trung thành tác phẩm, không thêm bớt, không thay
đổi dù chỉ một từ, một câu để người nghe tiếp nhận nguyên vẹn tác phẩm nghệ thuật.
- Đọc đúng : là Đọc rõ tiếng, rõ lời, đúng chính âm, biết ngắt, nghỉ hơi đúng
chỗ theo dấu câu và ngữ nghĩa văn bản, giọng đọc rõ ràng, lưu loát, đủ nghe.
- Đọc hiểu văn thực chất là quá trình tiếp nhận văn học, trong đó bạn đọc phải
sống với VBVH, hoà mình vào thế giới sống động của văn bản văn học, biến thế giới
hình tượng do nhà văn sáng tạo ra thế giới tâm hồn của bản thân mình.
- Đọc diễn cảm là hình thức đọc thành tiếng không những đạt được yêu cầu
đọc đúng đã nêu ở trên mà cũng có yêu cầu về ngữ điệu đọc truyền cảm và sự kết hợp
giữa ngữ điệu đọc với các yếu tố kèm ngôn ngữ như nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt
góp phần diễn tả nội dung bài đọc và hướng tới người nghe. Vận dụng khi đọc văn
chương (thơ, văn xuôi, hich, kich…) có ý nghĩa, giá trị thẩm mỹ - hình tượng. Việc
đọc này thể hiện kỹ năng làm chủ ngữ điệu nhằm diễn tả đúng thái độ tình cảm mà tác
giả gửi gắm trong văn bản. Đây là mức đọc ở trình độ cao đòi hỏi hs phải nắm vững
nội dung ý nghĩa của bài đọc, phân biệt giữa ngắt giọng trong câu thông thuờng với
ngắt giọng trong câu nghệ thuật.
- Các kiểu đọc và hình thức đọc
* Các kiểu đọc
- Đọc kỹ là đọc tỉ mỉ từng câu, từng ý, từng sự kiện quan trọng, tìm được mối
liên hệ giữa các ý và kết cấu văn bản.
- Đọc chéo là đọc lướt nhanh từ trang này sang trang khác để xem xét nội dung

11


- Đọc có định hướng mục đích, có thể đọc từng phần từng đoạn, từng chương
nhằm giải quyết một nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
- Đọc bổ sung: bằng vốn sống vốn kinh nghiệm, hiểu biết của mình, bổ sung
thêm những phần tác giả còn bỏ lửng, phát hiện thêm những tầng ý nghĩa khác của tác

phẩm.
*Các hình thức đọc
- Đọc thầm là hình thức đọc không thành tiếng, người đọc dùng mắt để nhận
biết văn bản và vận dụng năng lực tư duy để thông hiểu và tiếp nhận nội dung thông
tin của văn bản.
- Đọc thành tiếng là hoạt động dùng mắt để nhận biết một văn bản viết và
đồng thời sử dụng cơ quan phát âm phát ra âm thanh để người khác nghe được
Đọc thành tiếng chính là hoạt động chuyển văn bản ngôn ngữ viết thành văn
bản ngôn ngữ âm thanh.
* Cách đọc
- Đọc rõ tiếng rõ lời, đúng chính âm
Một người có bộ máy phát âm bình thường là có thể đọc thành tiếng, rõ chữ, rõ
lời (trừ số ít trường hợp bộ máy phát âm có di tật hoặc bị thương tổn) và âm lượng đủ
nghe. Đọc đúng chính âm tức là phát âm theo đúng hệ thống âm chuẩn của tiếng Việt
đã được quy đinh, bao gồm:
- Hệ thống phụ âm đầu (gồm 22 phụ âm)
- Hệ thống nguyên âm (11 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi).
- Hệ thống âm cuối vần (6 phụ âm và 2 bán âm).
- Hệ thống thanh điệu (gồm 6 thanh).
Ví dụ: Cái nón đọc thành Cái lón là đọc sai chuẩn (lẫn lộn n –l Lãng đãng đọc
thành Lảng đảng là sai chuẩn (lẫn lộn dấu hỏi dấu ngã) lúa chiêm đọc thành lúa chim
là sai chuẩn (lẫn lộn i – iê)
- Ngắt giọng đúng chỗ
Việc ngắt giọng trong khi đọc do lôgic, do ý nghĩa của câu, của đoạn văn quyết định ý
nghĩa của văn bản. Khi viết được thể hiện bằng dấu câu và khi đọc được thể hiện bằng
việc ngắt giọng. Ngắt giọng khi đọc căn cứ vào dấu câu được gọi là ngắt giọng lôgic.
Ngắt giọng tùy tiện không theo lôgic, ý nghĩa của câu, không căn cứ vào tiết tấu nhịp
12



điệu của thơ ca sẽ không thể hiện được đầy đủ nội dung của văn bản, có khi còn dẫn
đến hiểu sai, hiểu lầm. Ví dụ, có một em học sinh nào đó đã đọc.

“rắn là một loài

bò / sát không chân..." Ví dụ, đọc ngắt nhịp câu văn sau của Thép Một trong hài Cây
tre đã gợi lên ở người nghe nhịp điệu đều đều, nặng nề của chiếc cối xay tre gắn với
cuộc đời người nông dân Việt Nam xưa kia:
Cối xay tre / nặng nề quay / từ nghìn đời nay / xay nắm thóc.
- Ngữ điệu đọc phù hợp
Ngữ điệu đọc bao gồm những dấu hiệu biến đổi về ngữ âm trong khi đọc như:
tiết tấu của giọng đọc kỹ thuật ngắt giọng (đã nói ở trên), nhịp điệu đọc (dồn dập hay
chậm rãi. Đọc chậm quá, đọc ấp úng, ê a hoặc ngược lại đọc liến thoắng đọc nhanh
quá đều làm cho người nghe khó theo dõi, không hiểu đúng và đủ nội dung của bài
học), cường độ đọc (nhấn giọng hay lướt qua), cao độ đọc (giọng đọc trầm/ hay bổng,
lên cao hay xuống thấp, Âm lượng đọc (độ to nhỏ của giọng đọc phải đủ nghe, đọc
nhỏ quá đọc lí nhí, âm thanh không thoát khỏi ra miệng hoặc to quá (như gào lên) sẽ
làm cho người nghe theo dõi một cách mệt mỏi, khó chịu, tùy theo số lượng người
nghe mà người đọc cần điều chỉnh âm lượng cho phù hợp), sắc thái giọng đọc (thông
qua giọng đọc thể hiện những sắc thái tình cảm khác nhau của con người như: vui,
buôn, hờn, giận, lo lắng, hóm hỉnh, chế giễu, bực bội...).
Một người có bộ máy phát âm bình thường là có thể đọc thành tiếng, rõ chữ, rõ
lời (trừ số ít trường hợp bộ máy phát âm có di tật hoặc bị thương tổn) và âm lượng đủ
nghe. Đọc đúng chính âm tức là phát âm theo đúng hệ thống âm chuẩn của tiếng (Hệ
thống thanh điệu hỏi ngã ở qb).
- Nét mặt, điệu bộ trong khi đọc
Tư thế, nét mặt cử chi, điệu bộ, ánh mắt của người đọc là những yếu tố kèm
ngữ điệu, được sử dụng kết hợp với giọng đọc, tạo nên sự giao cảm giữa người đọc và
người nghe. Thông qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của người đọc mà người nghe cảm
nhận được một phần nội dung của văn bản đọc. Sử dụng các yếu tố kèm ngôn ngữ tức

là đồng thời tác động lên cả thính giác và thị giác của người nghe, tạo trên hiệu quả
tiếp nhận tốt hơn ở người nghe.
- Tốc độ và âm lượng đọc

13


Vấn đề cuối cùng của kỹ thuật đọc thành tiếng là việc điều chỉnh tốc độ và âm lượng
đọc cho phù hợp.Đọc chậm quá, đọc ấp úng, ê a hoặc ngược lại đọc liến thoắng đọc
nhanh quá đều làm cho người nghe khó theo dõi, không hiểu đúng và đủ nội dung của
bài học. Âm lượng đọc (độ to nhỏ của giọng đọc) phải đủ nghe. Đọc nhỏ quá đọc lí
nhí, âm thanh không thoát khỏi ra miệng hoặc to quá (như gào lên) sẽ làm cho người
nghe theo dõi một cách mệt mỏi, khó chịu. Tùy theo số lượng người nghe (một người,
một nhóm người hoặc cả tập thể) người đọc cần điêu chỉnh âm lượng cho phù hợp.
1.5. Kỹ năng kể chuyện
Kể chuyện là hình thức trình bày lại câu chuyện bằng lời kể một cách hấp dẫn,
sáng tạo, giàu ngữ điệu và có sự phối hợp diễn xuất qua nét mặt, cử chỉ, điệu bộ của
người kể một cách tự nhiên, truyền cảm đến người nghe.
Trong trường học, kể chuyện là một kiểu bài học nhằm phát triển lời nói cho
học sinh, bồi dưỡng cho các em những cảm xúc thẩm mỹ lành mạnh, cung cấp những
kiến thức về vốn sống và văn học, nêu những tấm gương có tác dụng giáo dục. Đối
với một giáo viên, năng lực kể chuyện là một yêu cầu nghiệp vụ cần được rèn luyện.
+ Phải phân biệt được đọc truyện và kể chuyện
+ Chọn chuyện: Muốn kể chuyện hay, trước tiên truyện phải hay, hấp dẫn
+ Lời kể: 'lời kể thoát ra khỏi văn bản và trở thành ngôn từ của người kể. Trên
cơ sở nắm vững cốt truyện, nhớ kể các tình tiết hiểu thấu đáo nội dung và nghệ thuật
của truyện, người kể chọn được lời kể phù hợp.
Kỹ thuật kể gồm:
* Ngữ điệu kể
Ngữ điệu kể bao gồm các yếu tố sau:

- Sự lên cao giọng hoặc hạ thấp giọng ở những lời kể khác nhau (câu kể, câu
hỏi, câu cảm thán, câu cầu khiến).
- Sự ngắt giọng trong lời kể (tạo sự chờ đợi, không khí yên tĩnh...).
* Cường độ (to / nhỏ) và tốc độ (nhanh / chậm) của lời kể.
- Sắc thái tình cảm của giọng kể (vui, buồn, hờn, giận, chanh chua, độc ác, cay
nghiệt, hiền từ, tôn kính, trang trọng, châm biếm, âu yếm dịu dàng, mệt mỏi, say sưa
v.v...). Tùy theo đặc điểm nội dung nghệ thuật của truyện, tùy theo tình cảm, tâm

14


trạng, tính cách của nhân vật, người kể cần lựa chọn ngữ điệu kể phù hợp. Nếu giọng
kể đều đều từ đầu đến cuối thật là buồn chán.
* Cử chỉ điệu bộ khi kể
Kể chuyện là một hoạt động mang tính nghệ thuật nên có yêu cầu diễn xuất.
Diễn xuất trong kể chuyện bao gồm ngữ điệu kể (đã nói ở trên) và sự thể hiện qua nét
mặt, điệu bộ của người kể. Tùy theo nội dung câu chuyện và diễn biến của các tình
tiết mà nét mặt, điệu bộ người kể thể hiện kết hợp một cách tự nhiên cùng với lời kể.
- Khái niệm: Kể chuyện là hình thức trình bày lại câu chuyện bằng lời kể một
cách hấp dẫn, sáng tạo, giàu ngữ điệu và có sự phối hợp diễn xuất qua nét mặt, cử
chỉ, điệu bộ của người kể một cách tự nhiên, truyền cảm đến người nghe.
- Phân biệt đọc truyện và kể chuyên, chuẩn bị kể
Đọc truyện và kể chuyện là hai hình thức trình bày truyện khác nhau. Nếu như
đọc truyện, người đọc phải nhìn vào sách và phải trung thành với ngôn ngữ của văn
bản thì trong kể chuyện lời lẽ tự do hơn, giọng điệu kể phong phú hơn, mối giao cảm
giữa người kể và người nghe gần gũi hơn. Vì thế, trẻ em thích nghe kể chuyện hơn là
đọc truyện.
Muốn kể chuyện hay, trước tiên truyện phải hay, hấp dẫn. Thứ đến là tài năng
của người kể. Kể chuyện là một hoạt động nghệ thuật sáng tạo và phải được ôn luyện
công phu.

- Các hình thức kể:
Có các hình thức kể lại những tác phẩm văn học: kể chuyện theo tranh; kể về đồ chơi,
đồ vật; kể theo trí nhớ; kể chuyện sáng tạo.
- Kỹ thuật kể chuyện
+ Lời kể: Khi đọc chuyện, người đọc trung thành với ngôn ngữ trong văn bản.
Khi kể chuyện, 'lời kể thoát ra khỏi văn bản và trở thành ngôn từ của người kể. Trên
cơ sở nắm vững cốt truyện, nhớ kể các tình tiết hiểu thấu đáo nội dung và nghệ thuật
của truyện, người kể chọn được lời kể phù hợp. Lời kể có khi được lược bỏ đi chi tiết
rườm rà, không cần thiết
+ Ngữ điệu kể bao gồm các yếu tố sau:
* Cao độ: Sự lên cao giọng hoặc hạ thấp giọng ở những lời kể khác nhau (câu
kể, câu hỏi, câu cảm thán, câu cầu khiến).
15


* Âm lượng: to / nhỏ vừa đủ đối tượng nghe
* Nhịp điệu: Sự ngắt giọng trong lời kể (tạo sự chờ đợi, không khí yên tĩnh...).
* Cường độ (to / nhỏ) và tốc độ (nhanh / chậm) của lời kể.
* Sắc thái tình cảm của giọng kể (vui, buồn, hờn, giận, chanh chua, độc ác, cay
nghiệt, hiền từ, tôn kính, trang trọng, châm biếm, âu yếm dịu dàng, mệt mỏi, say sưa
v.v...). Tùy theo đặc điểm nội dung nghệ thuật của truyện, tùy theo tình cảm, tâm
trạng, tính cách của nhân vật, người kể cần lựa chọn ngữ điệu kể phù hợp. Nếu giọng
kể đều đều từ đầu đến cuối thật là buồn chán.
+ Cử chỉ điệu bộ khi kể
Kể chuyện là một hoạt động mang tính nghệ thuật nên có yêu cầu diễn xuất.
Diễn xuất trong kể chuyện bao gồm ngữ điệu kể (đã nói ở trên) và sự thể hiện qua nét
mặt, điệu bộ của người kể. Tùy theo nội dung câu chuyện và diễn biến của các tình
tiết mà nét mặt, điệu bộ người kể thể hiện kết hợp một cách tự nhiên cùng với lời kể.
1.6. Kỹ năng viết
Nội dung rèn luyện kĩ năng này sẽ giúp SV nhận thức rõ mục đích, ý nghĩa của

việc sử dụng bảng đen và viết, vẽ, kẻ chữ trong DH. Không hướng dẫn SV hình thành
kĩ năng này, các em sẽ không có tư thế, tác phong đứng lớp đúng đắn và viết bảng
đẹp, thẳng hàng. Nội dung này còn hình thành cho SV các thao tác, cách thức vẽ
nhanh hình ảnh trực quan trên bảng khi giảng bài.
*Giới thiệu các nét chữ
* Nhóm nét thẳng: Gồm 4 nét:
- Nét sổ ( | ) khi viết ngòi bút được đặt từ phía trên và kéo thẳng xuống phía
dưới.
- Nét ngang ( — ) khi viết ngòi bút đặt từ bên trái và kéo thẳng sang bên phải.
- Nét xiên phải ( / ) khi viết ngòi bút đặt từ phía trên bên phải kéo thẳng xuống
phía dưới bên trái.
- Nét xiên trái ( \ ) khi viết đặt bút từ phía trên bên trái kéo thẳng xuống phía
dưới bên phải.
* Nhóm nét cong: 3 nét cong:
- Nét cong kín ( O ) khi viết đặt bút từ phía trên bên phải lượn cong xuống về bên
trái rồi lượn vòng lên khép kín ở điểm đặt bút.
16


- Nét cong hở phải ( C ) khi viết đặt bút từ phía bên phải lượn cong về bên trái rồi
lượn cong lên về bên phải.
- Nét cong hở trái ( ) khi viết đặt bút từ bên trái lượn cong xuống về bên phải sau
đó lượn cong về bên trái.
* Nhóm nét khuyết: 2 nét:
- Nét khuyết trên khiviết đặt bút từ điểm phía dưới bên trái hất ngược lên về phía
trên bên phải lượn cong sang phía bên trái rồi kéo thẳng xuống tạo thành nét khuyết.
- Nét khuyết dưới khi viết đặt bút từ phía trên bên phải kéo thẳng xuống rồi lượn
cong về bên trái sau đó hất chéo lên về phía bên phải tạo thành nét khuyết ngược.
* Nhóm nét móc: 5 nét:
- Nét móc xuôi khi viết đặt bút từ phía dưới bên trái kéo lượn cong lên về bên

phải rồi kéo thẳng xuống tạo thành nét móc xuôi.
- Nét móc ngược phải khi viết đặt bút từ phía trên bên trái kéo thẳng xuống rồi
lượn cong lên về bên phải.
- Nét móc ngược trái khi viết đặt bút từ phía trên bên phải kéo thẳng xuống rồi
lượn cong lên về bên phải.
- Nét móc hai đầu khi viết phần trên viết giống nét móc xuôi, phần dưới viết
giống nét móc ngược.
- Nét móc hai đầu thắt giữa khi viết phần đầu nét viết giống nét móc xuôi, cuối
nét móc xuôi đưa nét lượn lên vòng xoắn lại sau đó viết giống nét móc ngược.
*Nhóm nét hất: 2 nét:
- Nét hất thường khi viết đặt bút từ phía dưới bên trái hất lên trên nghiêng về bên
phải.
- Nét hất thắt đầu (gọi là nét thắt) khi viết đặt bút từ phía dưới bên trái hất ngược
lên nghiêng về phía trên bên phải và đưa bút vòng lại thắt đầu nét.
* Ngoài ra còn có nhóm nét lượn: Nét lượn ngang, lượn dọc, lượn nghiêng phải,
lượn nghiêng trái.
* Mẫu chữ viết được thực hiện theo những nguyên tắc:
1. Bảo đảm tính khoa học, tính hệ thống.
2. Có tính thẩm mĩ (đẹp trong sự hài hoà khi viết liền các con chữ).

17


3. Bảo đảm tính sư phạm (phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi học sinh
tiếu học).
4. Có tính kế thừa và phát triển, phù hợp với thực tiễn (kế thừa vẻ đẹp của chữ
viết truyền thống đồng thời tính đến tính thuận lợi khi sử dụng, viết nhanh, viết liền
nét: phù hợp điều kiện dạy và học ở tiểu học).
* Mẫu chữ viết được dùng để dạy ở trường Tiểu học
Bắt đầu từ lớp 1 năm học 2002-2003, Việc dạy và học viết chữ trong trường tiểu

học trên toàn quốc được thực hiện theo Mẫu chữ viết trong trường tiểu học ban hành
kèm theo Quyết định số 31/2002/QĐ – BGD&ĐT ngày 14/6/2002 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo.
Các chữ cái viết thường, dấu thanh, chữ cái viết hoa và chữ số trong bảng mẫu chữ
kèm theo Quyết định nói trên có những đặc điểm cơ bản như sau:
Mẫu chữ cái viết thường.
– Các chữ cái: b, g, h, k, l, y được viết với chiều cao 2,5 đơn vị; Tức bằng 2 lần
rưỡi chiều cao chữ cái ghi nguyên âm.
– Chữ cái: t được viết với chiều cao 1,5 đơn vị.
– Các chữ cái: r,s được viết với chiều cao1,25 đơn vị.
– Chữ cái: d, đ, p, q được viết với chiều cao 2 đơn vị.
– Các chữ cái còn lại: o, ô, ơ, a, ă, â, e, ê, i, u, ư, c, n, m, v, x được viết với chiều
cao 1 đơn vị.
– Các dấu thanh được viết trong phạm vi 1 ô vuông có cạnh là 0,5 đơn vị.
Mẫu chữ cái viết hoa.
Chiều cao của các chữ cái viết hoa là 2,5 đơn vị; riêng 2 chữ cái viết hoa Y, G được
viết với chiều cao 4 đơn vị.
Mẫu chữ số
Chiều cao của các chữ số là 2 đơn vị.
- Trong tr

ng ti

và chh v iết hoa theo kiáu

uh
chá

c, hác sinh h
viv t


điiu ki n thun n lui, giáo viên có thv d
chá

viv t tht ng, ch

c vint ch

ng, nét g,là uchh y
y ho

c gi

vi t hoa theo kih u

chá

m.
18

i thi

thv ing, chh s
u. Ở nháng n i có

u thêm cách viit

viv t nghiêng, nét thanh nét



- Viác d

y chy viát hoa đ

diá n, t p tô, t
thành thho, vi t á
Nái dung d
đ
H

tc ti n hành theo m

viá
p t nét ct b n đ

nhán

t quá trình tm

n viá t t ng chg cái ; Tá

viá t t úng đ

n viá t

p.
y và hvc viá

t chv theo bhng mt u chb do B đã ban hành


c quy đunh trong vt n bgn Phân ph
ng dg n chuyên môn c

a Vn Ti

i ch
u hVc, bT t đ

ng trình môn Tinng Vi
u tá

lcp 1 n

t và

mh

2002-2003.
Ngoài ra đối với SV cần rèn thêm một số kỹ năng sau:
- Kỹ năng xây dựng và sử dụng các loại đồ dùng trực quan.
Đồ dùng trực quan có ý nghĩa to lớn trong việc giúp các em hình thành biểu
tượng và hiểu đúng. Nội dung rèn luyện này sẽ trang bị cho SV cách xây dựng các
loại đồ dùng trực quan và làm các phương tiện trực quan qui ước khác như sơ đồ, biểu
đồ,… Bên cạnh việc biết làm đồ dùng trực quan, nội dung này cũng hướng dẫn cách
sử dụng chúng như thế nào để bài học có thể đạt hiệu quả cao nhất.
- Kĩ năng sử dụng sách giáo khoa và xây dựng các hồ sơ tài liệu DH. Trong
DH nói chung, sách giáo khoa là tài liệu học tập bắt buộc đối với học sinh, đồng thời
cũng là tài liệu cơ bản để GV dựa vào đó tổ chức giảng dạy. Nếu được hướng dẫn nội
dung này, SV sẽ hiểu rõ vị trí, ý nghĩa của sách giáo khoa, biết vận dụng những kĩ
năng sử dụng sách giáo khoa trong quá trình DH. Mặt khác, SV cũng hiểu rõ mục

đích, ý nghĩa của việc ghi chép, làm hồ sơ tư liệu trong DH, các loại tài liệu có thể sưu
tầm, sử dụng trong quá trình giảng dạy.
- Kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin vào DH. Hiện nay, cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ phát triển như vũ bão, có tác động tới các mặt của đời sống kinh
tế, xã hội, trong đó có giáo dục. Vì vậy, ứng dụng công nghệ thông tin trong DH là
điều cần thiết. Nội dung rèn luyện này giúp SV hiểu rõ vai trò, ý nghĩa của các
phương tiện kĩ thuật được sử dụng trong DH, rèn luyện cho các em các hình thức, biện
pháp sử dụng một số công cụ, thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng bộ môn.
- Kĩ năng tổ chức các hoạt động ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp. Nội dung rèn
luyện kĩ năng này hướng dẫn SV cách thức tổ chức, tiến hành các hoạt động ngoại
khóa , kỉ niệm các lễ lớn trong năm. Hoặc, các hoạt động tổ chức cho HS tham gia các
trò chơi (đố chữ, ghép chữ, tìm từ đồng nghĩa, gần nghĩa, điền chữ vào các câu thơ,
19

c


văn để khuyết một số vị trí), các cuộc thi (vở sạch chữ đẹp, sổ tay chính tả, sổ tay từ
ngữ, sáng tác thơ, văn, đọc diễn cảm, phân vai, ngâm thơ, đọc nghệ thuật, kể tóm tắt,
kể sáng tạo, sáng tác, vẽ tranh minh hoạ, sưu tầm hiện vật, chuyển thể tác phẩm), tham
quan (quê hương các nhà văn nhà thơ, bảo tàng nghệ thật, bảo tàng lịch sử, di tích văn
hoá..., danh lam thắng cảnh), câu lạc bộ văn học (mời nhà văn, thơ, phê bình để nói
chuyện kết hợp đọc kể, ngâm, hát, chuyển thể, hội thảo toạ đàm tranh luận, trình bày
bài viết các ý kiến tham luận về một tác phẩm), dạ hội văn học theo chủ đề (đọc, ngâm
những bài văn thơ theo chủ đề, anh bộ đội, cụ Hồ, người mẹ, quê hương đất nước ...),
hội diễn (trình bày hoạt cảnh, múa, các trích đoạn bài hát, ca dao, dân ca…)
Rèn luyện kĩ năng NVSP là yêu cầu không thể thiếu đối với nghề đứng trên
bục giảng. Việc rèn luyện này không chỉ giới hạn ở một số giờ lên lớp, sinh hoạt
nhóm, trong tiết tập giảng, hoặc chuẩn bị cho đợt kiến tập SP,… mà SV phải có ý thực
tự rèn luyện, tiến hành thường xuyên trên lớp, ở nhà và trong cuộc sống không chỉ

một thời gian mà suốt đời (nhất là qua các đợt thực tế chuyên môn và thực tập SP ở
Tiểu học). SV phải tự rèn luyện là chính, nhưng cần có sự định hướng của giảng viên
theo đặc trưng bộ môn, nhằm nâng cao năng lực nhận thức và năng lực thực hành SP
cho các thầy, cô giáo tương lai.
2. Thực hành rèn luyện NVSPTX
2.1. Sinh viên chuẩn bị
- Tổ 1 nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 1 và viết báo cáo về
các vấn đề sau: Số tiết dành cho môn kể chuyện, tập đọc, tập viết và định hướng kể
diễn cảm (giọng điệu, cách ngắt nghỉ, nhịp điệu, cao độ, trường độ, cường độ, nhân
vật, cách nhập thân số phận mỗi nhân vật…) đối với những tác phẩm văn học trong
chương trình.
- Tổ 2 nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 2 và viết báo cáo về
các vấn đề sau: Số tiết dành cho môn kể chuyện tập đọc, tập viết và định hướng kể
diễn cảm (giọng điệu, cách ngắt nghỉ, nhịp điệu, cao độ, trường độ, cường độ, nhân
vật, cách nhập thân số phận mỗi nhân vật…) đối với những tác phẩm văn học trong
chương trình.
- Tổ 3 nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 3 và viết báo cáo về
các vấn đề sau: Số tiết dành cho môn kể chuyện tập đọc, tập viết và định hướng kể
20


diễn cảm (giọng điệu, cách ngắt nghỉ, nhịp điệu, cao độ, trường độ, cường độ, nhân
vật, cách nhập thân số phận mỗi nhân vật…) đối với những tác phẩm văn học trong
chương trình.
- Tổ 4 nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 4 và viết báo cáo về
các vấn đề sau: Số tiết dành cho môn kể chuyện tập đọc, tập viết và định hướng kể
diễn cảm (giọng điệu, cách ngắt nghỉ, nhịp điệu, cao độ, trường độ, cường độ, nhân
vật, cách nhập thân số phận mỗi nhân vật…) đối với những tác phẩm văn học trong
chương trình.
- Tổ 5 nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt 5 và viết báo cáo về

các vấn đề sau: Số tiết dành cho môn kể chuyện tập đọc, tập viết và định hướng kể
diễn cảm (giọng điệu, cách ngắt nghỉ, nhịp điệu, cao độ, trường độ, cường độ, nhân
vật, cách nhập thân số phận mỗi nhân vật…) đối với những tác phẩm văn học trong
chương trình.
- Cá nhân chuẩn bị các câu chuyện kể (theo sự phân công của nhóm mỗi người
4 câu chuyện), đọc trước các bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt ở Tiểu học, vở tập viết
các lớp 1,2,3
2.2.Thực hành luyện kể diễn cảm theo nhóm đã phân công
Sinh viên luyện kể cá nhân (theo các hình thức sau), tổ nhóm nhận xét đánh
giá, chấm điểm (trưởng nhóm cử thư ký ghi sổ theo dõi nhận xét, chấm điểm công
khai)
-

Kể chuyện theo tranh;

-

Kể theo trí nhớ;

-

Kể chuyện sáng tạo.

2.3. Thực hành luyện đọc
Sinh viên luyện đọc cá nhân các bài tập đọc trong SGK Tiếng Việt ở Tiểu học,
tổ nhóm nhận xét đánh giá, chấm điểm (trưởng nhóm cử thư ký ghi sổ theo dõi nhận
xét, chấm điểm công khai)

21



2.4. Thực hành luyện viết
Sinh viên luyện viết cá nhân các viết trong vở tập viết, luyện viết ở bảng con,
bảng lớp, tổ nhóm nhận xét đánh giá, chấm điểm (trưởng nhóm cử thư ký ghi sổ theo
dõi nhận xét, chấm điểm công khai)
- Sinh viên chuẩn bị: vở tập viết các lớp 1,2,3 (vở ô li, vở tập tô, bảng con)
- Sinh viên luyện viết cá nhân (theo các hình thức sau ở bảng con, vở tập viết,
bảng lớp), tổ nhóm nhận xét đánh giá, chấm điểm (trưởng nhóm cử thư ký ghi sổ theo
dõi nhận xét, chấm điểm công khai)
- Thu vở ô ly (đã luyện viết) chấm điểm.

22



×